Các thành tố cho tăng trưởng c̣n khiếm khuyết Michael
Spence & Karen Karniol-Tambour TS.Đỗ Kim Thêm dịch |
Mức
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm
2018 là khoảng 6,7%, nếu so với các nước
trong khu vực là cao hơn nhiều. Nhưng lạc quan
hơn là Việt Nam sẽ tiếp tục hưởng
lợi từ việc tham gia kư kết các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương. Với
một thành phần dân số trẻ trung và năng
động, Việt Nam có thể khai thác tiềm năng
nhân dụng để cung ứng nhân lực nhằm phát
triển cho thị trường nội địa.Triển
vọng mở ra khi xuất khẩu lao động
giản đơn là một cơ hội làm tăng dung
lượng kiều hối, một ưu thế trong
đoản kỳ không thể tranh cải. Với
mức tăng trưởng 6,7% lạc quan, thực
tế Việt Nam cho thấy bi quan hơn.
Cải
thiện giáo dục là một giải pháp thiết
thực để Việt Nam phát huy hiệu năng nhân
dụng cho tăng trưởng. V́ giáo dục c̣n
lạc hướng, nên không có một chính sách phát
triển kỷ năng để thay thế trong trường
kỳ. Phối
hợp các tiềm năng cho tăng trưởng thành
một định hướng mới đ̣i hỏi
viễn kiến và quyết tâm chính trị, trong khi
Việt Nam không thể kiểm soát sự thao túng trong
thị trường nội địa của Trung
Quốc và đủ can đảm để hành sử
chủ quyền chính trị. Không nắm bắt
được các chuyển biến phức tạp
tại các điạ phương, th́ sẽ làm cho
việc hủy hoại môi trường và bất
ổn xă hội kéo dài. Nghịch lư này c̣n tiếp
tục và đề xuất một kế hoạch cho
thị trường cả nước là điều
bất khả. Không
giải quyết những tác hại, th́ hiểm hoạ
suy vong thị trường là một tương lai
gần cho Việt Nam. Hiện
nay, hầu hết các nền kinh tế trong toàn cầu
đều có những chiều hướng kinh tế tích
cực: t́nh
trạng thất nghiệp đang giảm, các khoảng
cách biệt về xuất lượng đang khép
lại, tăng trưởng đang lên cao, và v́
những lư do chưa rơ ràng mà t́nh trạng lạm phát
vẫn c̣n thấp so với các mục tiêu của các
ngân hàng trung ương. Mặt khác, việc gia tăng
năng suất vẫn yếu, sự bất b́nh
đẳng về thu nhập ngày càng tăng, và
giới lao động có tŕnh độ học vấn
thấp đang phải tranh đấu để t́m các
cơ hội có việc làm thu hút. Sau
tám năm với các biện pháp kích thích táo bạo, các
nền kinh tế phát triển đang nổi lên từ
một giai đoạn đang kéo dài để giảm
nợ, nó đă ngăn chặn sự tăng trưởng
từ phía cầu một cách tự nhiên. Khi mức
độ và thành phần của nợ đă được
thay đổi, áp lực giảm nợ đă giảm,
t́nh trạng này cho phép mở rộng một cách
đồng bộ trong toàn cầu. Tuy
nhiên, đă đúng lúc mà yếu tố quyết định
chính của việc tăng trưởng Tổng sản
lựợng Quốc gia (GDP) - và tính kết hợp toàn
diện của các mô h́nh tăng trưởng - sẽ là
t́nh trạng tăng năng suất. Tuy nhiên, như chúng
ta thấy trong hiện t́nh là có lư do để nghi
ngờ rằng năng suất sẽ tăng theo cách
của nó. Trong việc kết hợp chính sách có
một số điểm quan trọng c̣n đang
khiếm khuyết, nó tạo ra một bóng che khuất
cho việc thực hiện tăng trưởng năng
suất với mức quy mô toàn diện và chuyển
sang thành một mô h́nh tổng thể hơn. Thứ
nhất, tiềm
năng tăng trưởng không thể thực hiện
khi không có nguồn nhân lực đầy đủ.
Theo kinh nghiệm của các nước đang phát
triển, bài học này thể hiện rơ, nhưng nó cũng
áp dụng cho các nền kinh tế phát triển.
Chuyện không may là thông qua hầu hết các nền
kinh tế, các kỹ năng và khả năng dường
như không theo kịp với sự thay đổi cơ
cấu nhanh chóng trong thị trường lao động.
Các chính phủ đă chứng minh là không sẵn sàng
hoặc không thể hành động táo bạo về
mặt giáo dục và đào tạo kỹ năng
hoặc tái phân phối thu nhập. Ở các nước
như Hoa Kỳ, việc phân phối thu nhập và tài
sản đă bị chênh lệch đến nỗi các
gia đ́nh có thu nhập thấp không có khả năng
đầu tư vào các cách thích ứng với
những điều kiện làm việc đang thay đổi
một cách nhanh chóng. Thứ
hai, hầu
hết các thị trường lao động đều
có khoảng cách biệt lớn lao về thông tin mà nó
cần phải khép lại.
Giới lao động biết rằng t́nh trạng thay
đổi đang đến, nhưng họ không
biết làm thế nào về các yêu cầu kỹ năng
đang cần đến, và do đó họ không
thể dựa vào lựa chọn của họ trên
dữ liệu cụ thể. Các chính phủ, các cơ
sở giáo dục và các doanh nghiệp đă không đạt
đến việc cung cấp các hướng dẫn cho
phù hợp về mặt trận này. Thứ
ba, các
doanh nghiệp và cá nhân có khuynh hướng là họ
đi đến đâu mà ở đó có các cơ
hội đang mở rộng, các chi phí về hoạt
động kinh doanh thấp, triển vọng về
việc tuyển dụng lao động là tốt đẹp,
phẩm chất dành cho cuộc sống là cao.
Các yếu tố về môi trường và cơ sở
hạ tầng là yếu tố quyết định cho
việc tạo ra các điều kiện cạnh tranh và
năng động như vậy. Ví dụ như cơ
sở hạ tầng làm giảm chi phí và nâng cao
phẩm chất của t́nh trạng kết nối.
Hầu hết các lập luận ủng hộ cho
việc đầu tư cơ sở hạ tầng
tập trung vào các điểm tiêu cực: cầu
bị sập, đường cao tốc bị ùn
tắc, du lịch bằng đường hàng không
thứ cấp, vv. Nhưng các nhà hoạch định chính
sách nên nh́n xa hơn nhu cầu để bắt kịp
về bảo tŕ đang bị tŕ trệ. Nỗ
lực cần được đầu tư vào cơ
sở hạ tầng sẽ tạo ra những cơ
hội hoàn toàn mới cho đầu tư và đổi
mới của khu vực tư nhân và canh tân. Thứ
tư, các
nghiên cứu về khoa học, công nghệ và công
nghệ sinh học được chính quyền tài
trợ là rất quan trọng để thúc đẩy
canh tân trong dài hạn. Bằng
cách đóng góp vào kiến thức chung, các nghiên
cứu cơ bản mở ra những lĩnh vực
mới cho sự đổi mới của khu vực tư
nhân. Và bất cứ nơi nào mà nghiên cứu
được thực hiện, nó tạo ra hiệu
ứng lan tỏa trong nền kinh tế địa phương
lân cận Hầu
như không một vấn đề nào trong bốn
vấn đề này là một đặc điểm
quan trọng của khuôn khổ chính sách hiện đang
chiếm ưu thế ở hầu hết các nước
phát triển.
Ví dụ như ở Mỹ, Quốc hội đă thông
qua một chính sách toàn diện về cải cách
thuế khoá mà nó có thể tạo thêm khoản đầu
tư tư nhân, nhưng sẽ không làm giảm
thiểu t́nh trạng bất b́nh đẳng, khôi
phục và tái bố trí tài nguyên nhân lực, cải
thiện cơ sở hạ tầng hoặc mở
rộng kiến thức khoa học và công nghệ. Nói cách
khác, chương tŕnh toàn diện này bỏ qua các thành
tố cần thiết để tạo ra một
nền tảng cho các mô h́nh phát triển cân bằng và
bền vững trong tương lai, mà đặc trưng
của nó là trong các quỹ đạo năng suất
kinh tế và xă hội cao, nó được hỗ
trợ bởi cả hai phía cung và cầu (bao gồm
cả đầu tư). Ray
Dalio mô tả lộ tŕnh có đặc điểm chính
là sự
đầu tư vào tài nguyên nhân lực, cơ sở
hạ tầng, và nền tảng khoa học của
nền kinh tế như con đường A. Một
cách tương
ứng khả thi khác là con đường B,
mà đặc trưng của nó là do sự thiếu
đầu tư vào các lĩnh vực sẽ tăng năng
suất một cách trực tiếp, như cơ sở
hạ tầng và giáo dục. Mặc dù các nền kinh
tế hiện đang ủng hộ cho lộ tŕnh B, nhưng
nếu lộ tŕnh A có thể tạo ra sự tăng trưởng
cao hơn, bao trùm hơn và bền vững hơn, đồng
thời nó cải thiện các khoản nợ kéo dài liên
quan đến nợ công và trách
nhiệm phải chi mà không phải là nợ như trong
các lĩnh vực do chính phủ tài trợ là lương
hưu, an sinh xă hội và chăm sóc sức khoẻ. Có
thể là mơ ước, nhưng hy vọng của chúng
ta cho năm mới là các chính phủ sẽ tạo các
nỗ lực phối hợp hơn để lập ra
một lộ tŕnh mới từ B sang A. *** Michael Spence đă
đoạt giải Nobel Kinh tế, là Giáo Sư Kinh
tế học tại NYU’s Stern School of Business, tác
giả sách The
Next Convergence – The Future of Economic Growth in a Multispeed World. Karen Karniol-Tambour
là Giám đốc Nghiên cứu Đầu tư của
Bridgewater Associates. Nguyên tác: The Missing Ingredients
of Growth |