Chiến tranh Nga và nền kinh tế toàn cầu Nouriel Roubini TS. Đỗ Kim Thêm dịch |
Trong phiên giao dịch đầu tuần này, giá một thùng dầu tăng lên gần 18%, 139,13 đô la Mỹ và do đó gần với mức kỷ lục gần 150 đô la Mỹ trong mùa hè năm 2008. Hiện nay, giá dầu Brent mới nhất đă tăng lên gần 11% tương đương 12,57 đô la Mỹ, 130,67 đô cho một thùng. V́ lo sợ chiến cuộc sẽ leo thang hơn, nên Mỹ đang thảo luận với các đồng minh châu Âu về khả năng cấm nhập khẩu dầu từ Nga. Các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn cho Nga đang xúc tiến. Thị
trường chứng khoán châu Âu cũng chịu áp
lực nặng nề do những thông báo này. Chỉ
số hàng đầu của thị trường
chứng khoán Đức, đạt mức cao kỷ
lục khoảng 16.290 điểm vào tháng 11 năm ngoái,
hiện nay đă giảm xuống c̣n 13.000 điểm và
có thể đi xuống thấp hơn trong thời gian
tới. Chính phủ Đức đă tỏ ra
phản ứng thận trọng khi từ chối yêu
cầu tẩy chay v́ lo sợ t́nh trạng khan hiếm và
lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế. Tóm
lại, các nhận định của Nouriel Roubini trong
bản dịch sau đây là bi quan, nhưng các ảnh hưởng
của chiến tranh Ukraine cho nền kinh tế toàn
cầu sẽ c̣n có những hiệu ứng càng khó lường
đoán và gây nguy hại hơn. * Thật
là hấp dẫn khi nghĩ rằng cuộc chiến
ở Ukraine sẽ chỉ có một tác động kinh
tế và tài chính nhỏ trên toàn cầu, v́ Nga chỉ
chiếm có 3% trong nền kinh tế thế giới. Nhưng
các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích
tài chính cần tránh những ước vọng như
vậy. Vào
cuối tháng 12, tôi đă cảnh báo rằng
rằng năm 2022 sẽ khó khăn hơn nhiều so
với năm 2021 - một năm mà các thị trường
và các nền kinh tế trên toàn thế giới nh́n
chung là tốt, với tăng trưởng vượt lên
trên tiềm năng sau cuộc suy thoái lan tràn vào năm
2020. Trước thềm năm mới, rơ ràng là sự
gia tăng lạm phát sẽ không chỉ là tạm
thời, mà virus corona luôn biến thể sẽ tiếp
tục gieo rắc t́nh trạng bất trắc trên toàn
thế giới và những rủi ro về địa chính
trị lờ mờ đang trở nên nghiêm trọng hơn.
Đầu tiên trong số ba mối đe dọa địa
chính trị mà tôi đă đề cập là việc
Tổng thống Nga Vladimir Putin cho tập trung quân đội
gần biên giới Ukraine. Sau
hai tháng ngừng khởi động ngoại vận và
các cuộc đàm phán bất tín nhiệm từ phía
điện Kremlin, Nga hiện nay đă phát động
một cuộc xâm lược Ukraine toàn diện, trong
những ǵ các giới chức Mỹ nói là một
hoạt động để “xử trảm” chính
phủ hiện nay do dân bầu. Bất chấp những
cảnh báo lặp đi lặp lại của chính
quyền Biden rằng Nga tham chiến một cách nghiêm
trọng, các h́nh ảnh xe tăng và phi đội
trực thăng Nga tấn công Ukraine đă gây sốc
cho thế giới. Hiện nay, chúng ta phải lượng
định những hậu quả kinh tế và tài chính
của sự phát triển lịch sử này. Bắt
đầu với một sự quan sát địa chính
trị quan trọng: Đây là một sự leo thang
chủ yếu của Chiến tranh Lạnh lần
thứ hai, trong đó bốn cường quốc xét
lại – Trung Quốc, Nga, Iran và Bắc Triều Tiên
– đang thách thức sự thống trị toàn
cầu lâu đời của Hoa Kỳ và trật tự
quốc tế do phương Tây lănh đạo đă
tạo ra sau Thế chiến thứ hai. Trong bối
cảnh đó, chúng ta đă bước vào một
cuộc suy thoái về địa chính trị mà nó
sẽ có những hậu quả toàn diện về kinh
tế và tài chính mà nó vượt ra ngoài Ukraine. Đặc
biệt, hiện nay, một cuộc chiến tranh nóng
bỏng giữa các cường quốc có nhiều
khả năng xảy ra trong thập kỷ tới. Khi
sự cạnh tranh chiến tranh lạnh mới giữa
Mỹ và Trung Quốc tiếp tục leo thang, Đài Loan
cũng sẽ ngày càng trở thành một điểm nóng
tiềm tàng, khiến cho phương Tây chống
lại liên minh mới nổi dậy của các cường
quốc xét lại. T́nh
trạng suy thoái do vừa tŕ trệ vừa lạm phát Một
rủi ro lớn hiện nay là các thị trường và
các nhà phân tích chính trị sẽ đánh giá thấp các
tác động của sự thay đổi chế độ
địa chính trị này. Vào cuối phiên giao dịch
ngày 24/2 – ngày xảy ra cuộc xâm lược –
thị trường chứng khoán Mỹ đă tăng
điểm với hy vọng rằng cuộc xung
đột này sẽ làm tŕ trệ việc sẵn sàng
tăng lăi suất của Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác. Nhưng
cuộc chiến Ukraine không chỉ là một cuộc
xung đột nhỏ, không gây tác hại về mặt
kinh tế và tài chính thuộc loại này mà người
ta thấy ở những nơi khác trong những
thập kỷ gần đây. Các nhà phân tích và nhà
đầu tư không được phạm sai lầm
tương tự như trước Thế chiến
thứ nhất, khi hầu như không ai thấy một
cuộc xung đột toàn cầu lớn sắp xảy
ra. Cuộc khủng hoảng ngày nay thể hiện cho
một bước nhảy vọt lượng tử
địa chính trị. Các hiệu ứng và ư nghĩa
lâu dài của nó khó có thể bị phóng đại.
Về mặt kinh tế, một t́nh trạng suy thoái
vừa do lạm phát vừa do tŕ trệ trên trong toàn
cầu hiện nay rất có khả năng xảy ra. Các
nhà phân tích đă tự hỏi liệu Fed và các ngân hàng
trung ương quan trọng khác có thể đạt
được một cuộc hạ cánh an toàn từ
cuộc khủng hoảng này và hậu quả của nó
hay không. Đừng trông chờ vào việc này.
Cuộc chiến ở Ukraine sẽ gây ra một cú
sốc về nguồn cung tiêu cực toàn diện trong
một nền kinh tế toàn cầu mà nó vẫn c̣n
đang chao đảo v́ COVID-19 và sự thành h́nh kéo dài
cả năm của các áp lực lạm phát. Cú
sốc sẽ làm giảm tăng trưởng và tăng
lạm phát hơn nữa vào thời điểm khi các
lo âu về lạm phát vốn dĩ đă không b́nh
ổn . Tác động thị trường tài chính trong ngắn hạn của cuộc chiến đă rơ ràng. Đối mặt với một cú sốc quy mô vừa lạm phát vừa tŕ trệ, các thị trường chứng khoán trong toàn cầu có thể sẽ chuyển từ phạm vi điều chỉnh hiện tại (-10%) cho đến lănh thổ thị trường (-20% trở lên). Doanh thu từ các trái phiếu an toàn của chính phủ sẽ giảm sút trong một thời gian và sau đó tăng sau khi lạm phát trở nên giảm. Giá dầu và khí đốt tự nhiên sẽ tăng vọt hơn nữa - lên trên 100 đô la/thùng - cũng như nhiều giá thương phẩm khác v́ cả Nga và Ukraine đều là những nhà xuất khẩu quan trọng về nguyên liệu và thực phẩm . Các loại tiền tệ an toàn như đồng franc Thụy Sĩ sẽ mạnh lên và giá vàng sẽ tăng hơn nữa. Hậu quả kinh tế và tài chính từ chiến tranh và cú sốc lạm phát tất nhiên là kết quả sẽ lớn nhất ở Nga và Ukraine, tiếp theo là Liên minh châu Âu, do sự phụ thuộc nặng nề vào khí đốt của Nga. Nhưng ngay cả Mỹ cũng sẽ phải gánh chịu. Bởi v́ các thị trường năng lượng thế giới đang hội nhập rất sâu xa, sự gia tăng đột biến của các giá dầu trong toàn cầu - được tính theo tiêu chuẩn của Brent - sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá dầu thô của Mỹ (West Texas Intermediate). Đúng, Hoa Kỳ hiện nay là một nước nhỏ về xuất khẩu ṛng năng lượng; nhưng sự phân bố vĩ mô của cú sốc sẽ là tiêu cực. Trong khi một tập họp nhỏ các doanh nghiệp năng lượng sẽ thu lợi nhuận cao hơn, các hộ gia đ́nh và doanh nghiệp sẽ trải qua một cú sốc giá toàn diện, khiến cả hai giảm chi tiêu. Với những động lực này, ngay cả một nền kinh tế Mỹ mạnh mẽ cũng sẽ bị suy giảm mạnh một cách khác, nghiêng về suy thoái tăng trưởng. Các t́nh trạng tài chính nghiêm chặt hơn và những tác động kết quả đối với niềm tin của nhà doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà đầu tư sẽ trầm trọng thêm những hậu quả vĩ mô tiêu cực của cuộc xâm lược của Nga, cả ở Mỹ và trên toàn cầu. Các biện pháp trừng phạt sắp tới đối với Nga - dù lan rộng hay hạn chế, và dù cần thiết để răn đe trong tương lai - chắc chắn sẽ làm tổn thương không chỉ Nga mà cả Mỹ, phương Tây và các thị trường mới nổi. Như Tổng thống Mỹ Joe Biden đă nhiều lần nói rơ trong các tuyên bố công khai của ḿnh với người dân Mỹ, "bảo vệ tự do cũng sẽ phải trả giá cho chúng ta ở trong nước. Chúng ta cần phải thành thực về điều đó". Hơn nữa, người ta không thể loại trừ khả năng mà Nga sẽ đáp trả các lệnh trừng phạt mới của phương Tây bằng các đối sách riêng: cụ thể là giảm mạnh sản lượng dầu để đẩy giá dầu toàn cầu lên cao hơn nữa. Một động thái như vậy sẽ mang lại lợi thuần cho Nga cho đến chừng nào mà sự gia tăng phụ thuộc về giá dầu lớn hơn so với việc thất lợi xuất khẩu dầu. Putin biết rằng có thể gây ra thiệt hại bất đối xứng cho các nền kinh tế và thị trường phương Tây, bởi v́ Putin đă dành phần lớn thời gian tốt hơn trong thập kỷ qua để xây dựng một quỹ chiến tranh và tạo ra một lá chắn tài chính chống lại các lệnh trừng phạt kinh tế bổ sung. Kiểm
soát thiệt hại bị hạn chế Một
cú sốc nặng nề về vừa tŕ trệ và
vừa lạm phát cũng là một kịch bản
đầy ác mộng đối với các ngân hàng
trung ương, sẽ bị thiệt hại là nếu
họ phản ứng và bị thiệt hại nếu
họ không phản đối. Một mặt, nếu
họ quan tâm chủ yếu đến tăng trưởng,
họ nên tŕ hoăn tăng lăi suất hoặc thực
hiện chúng chậm hơn. Nhưng trong môi trường
ngày nay - nơi lạm phát đang gia tăng và các ngân
hàng trung ương đă đứng sau khúc tuyến -
việc thắt chặt chính sách chậm hơn có
thể gây bất ổn về các lo âu lạm phát, làm
trầm trọng thêm t́nh trạng vừa lạm phát và
tŕ trệ. Mặt khác, nếu các ngân hàng trung
ương cắn răng cam chịu và vẫn hiếu
chiến (hoặc trở nên diều hâu hơn), cuộc
suy thoái đe doạ sắp xảy ra sẽ trở nên
nghiêm trọng hơn. Lạm phát sẽ được
chiến đấu với các mức độ chính sách
danh nghĩa và thực tế cao hơn, tăng giá
tiền, và do đó làm giảm nền kinh tế nói
chung. Chúng ta đă xem bộ phim này hai lần trước
đây, với những cú sốc giá dầu năm 1973
và 1979. Việc tái diễn hôm nay sẽ gần như
tệ hại. Mặc dù các ngân hàng trung ương nên
đối mặt với sự trở lại của
nạn lạm phát một cách mạnh mẽ, họ
rất có thể sẽ cố gắng để tránh né
nó, như họ đă làm trong những năm 1970.
Họ sẽ lập luận rằng vấn đề
chỉ là tạm thời và chính sách tiền tệ không
thể gây ảnh hưởng hoặc thu hồi một
cú sốc cung tiêu cực từ bên ngoài đến. Khi
thời điểm của sự thật đến,
họ có thể sẽ nhắm mắt, chọn tốc
độ thắt chặt tiền tệ chậm hơn
để tránh gây ra một cuộc suy thoái thậm chí
c̣n nghiêm trọng hơn. Nhưng điều này sẽ
làm biến động trong ngắn hạn các kỳ
vọng lạm phát hơn nữa. Trong
khi đó, các chính trị gia sẽ cố gắng
giảm bớt cú sốc tiêu cực về nguồn
cung. Mỹ sẽ cố gắng giảm thiểu sự
gia tăng giá xăng dầu bằng cách giảm Quỹ
Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược và thúc
đẩy Saudi Arabia sử dụng công suất dự pḥng
để tăng sản lượng dầu riêng. Nhưng
những biện pháp này sẽ chỉ có tác động
hạn chế, bởi v́ những lo ngại rộng răi
về việc tăng giá hơn nữa sẽ dẫn
đến việc tích trữ các nguồn cung cấp năng
lượng toàn cầu. Trong những hoàn cảnh
mới này, Mỹ sẽ cảm thấy áp lực
nhiều hơn để đạt được
một thoả ước với Iran – một nguồn
dầu tiềm năng khác - về việc khôi phục
thỏa thuận hạt nhân năm 2015. Nhưng Iran
thực sự liên minh với Trung Quốc và Nga, và các
nhà lănh đạo của họ biết rằng bất
kỳ thỏa thuận nào họ làm ngày hôm nay có
thể bị gạt sang một bên vào năm 2025
nếu Donald Trump hoặc một người muốn như
Trump lên nắm quyền ở Mỹ. Do đó, một
thỏa thuận hạt nhân mới với Iran là không
thể. Tồi tệ hơn, trong trường hợp không
có một thoả hiệp, Iran sẽ tiếp tục thúc
đẩy chương tŕnh hạt nhân của ḿnh, làm
tăng nguy cơ Israel sẽ tiến hành một cuộc
tấn công chống lại các cơ sở của ḿnh.
Điều đó sẽ mang lại một cú sốc
nguồn cung tiêu cực kép cho nền kinh tế toàn
cầu. Kết quả là những hạn chế địa
chính trị khác nhau sẽ hạn chế nghiêm trọng
khả năng của phương Tây trong việc
chống lại cú sốc lạm phát do cuộc
chiến ở Ukraine gây ra. Một
vấn đề cũ và mới Các
nhà lănh đạo phương Tây cũng không thể
dựa vào chính sách tài chánh để chống lại
những tác động làm giảm tăng trưởng
của cú sốc Ukraine. Thứ nhất, Mỹ và
nhiều nền kinh tế tiên tiến khác đang
cạn kiệt phương tiện tài chính, đă
tận dụng tất cả các biện pháp đ́nh
chỉ để đối phó với đại
dịch COVID-19. Các chính phủ đă có nhiều thâm
hụt ngày càng tăng lên làm không bền vững, và
việc phục vụ các khoản nợ này sẽ
trở nên đắt hơn nhiều trong một bối
cảnh lăi suất cao hơn. Hơn nữa, một
biện pháp khích lệ bằng ngân sách là đối sách
sai lầm đối với cú sốc cung ứng
vừa làm lạm phát và tŕ trệ. Mặc dù nó có
thể làm giảm tác động tăng trưởng
tiêu cực của cú sốc, nhưng nó sẽ làm tăng
áp lực lạm phát. Và nếu các nhà hoạch định
chính sách dựa vào cả hai chính sách vừa tiền
tệ và ngân sách để đối phó với cú
sốc, hậu quả vừa lạm phát và vừa tŕ
trệ sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, do ảnh
hưởng cao đến các kỳ vọng lạm phát.
Các chính sách khích lệ về tiền tệ và ngân sách
khổng lồ mà các chính phủ đưa ra sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
không phải là lạm phát v́ nguồn gốc của cú
sốc đó là ở phía nhu cầu, được thúc
đẩy bởi cuộc khủng hoảng tín dụng
vào thời điểm lạm phát thấp và dưới
mục tiêu. T́nh h́nh hiện nay hoàn toàn khác. Chúng ta
đang phải đối mặt với một cú
sốc nguồn cung tiêu cực trong một thế
giới nơi mà lạm phát đă tăng và trên
mục tiêu. Thật hấp dẫn khi nghĩ rằng
cuộc xung đột Nga-Ukraine sẽ chỉ có tác
động kinh tế và tài chính nhỏ và tạm
thời. Rốt cuộc, Nga chỉ chiếm 3% nền
kinh tế toàn cầu (và Ukraine ít hơn nhiều). Nhưng
các quốc gia Ả Rập đă áp đặt lệnh
cấm vận dầu mỏ vào năm 1973 và cuộc cách
mạng ở Iran vào năm 1979, cho thấy một
phần thậm chí c̣n nhỏ hơn trong GDP toàn cầu
so với Nga ngày nay. Tác động toàn cầu trong
cuộc chiến của Putin sẽ được
chuyển qua dầu mỏ và khí đốt tự nhiên,
nhưng nó sẽ không dừng lại ở đó. Các
hiệu ứng đánh mạnh sẽ giáng một đ̣n
vào niềm tin trong toàn cầu vào thời điểm mà
sự phục hồi mong manh từ đại dịch
đă bước vào giai đoạn bất trắc sâu
đậm hơn và các áp lực về lạm phát
đang gia tăng. Những tác động của
cuộc khủng hoảng Ukraine - và từ cuộc suy thoái
địa chính trị rộng lớn hơn mà nó
cảnh báo cho tương lai - sẽ là khác hẳn,
bất cứ mọi điều có thể xảy ra mà
không phải là tạm thời. – Nouriel
Roubini/ Đỗ Kim Thêm dịch Tiểu
sử tác giả: Nouriel Roubini, Giáo sư Kinh tế
học hồi hưu, Phân khoa Kinh doanh Stern, Đại
học New York, Kinh tế trưởng của Atlas Capital Team, Giám đốc điều
hành của Roubini Macro Associates và đồng
sáng lập TheBoomBust.com, Chuyên gia trong Hội đồng
Cố vấn Kinh tế của Clinton và làm việc cho
Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Cục Dự
trữ Liên bang Hoa Kỳ và Ngân hàng Thế giới.
Trang web riêng là NourielRoubini.com và
điều khiển chương tŕnh NourielToday.com. |