Nền Dân
chủ Tự do đang thoái trào? Steven
Pinker & Robert Muggah TS.Đỗ Kim Thêm dịch |
Mặc
dù t́nh h́nh ở một số nước và một
số thành phố đang xấu đi so với các nơi
khác, nói chung, thế giới đang trở nên an toàn và
thịnh vượng hơn. Chuyện khó tin nhưng có
thật, đặc biệt là nó đúng đối
với các nước dân chủ, nơi mức tăng
trưởng kinh tế và phúc lợi nổi bật cao
hơn. Các nền dân chủ cũng có khuynh hướng
ít chiến tranh và diệt chủng hơn, hầu như
không có nạn đói, và dân chúng có một nền giáo
dục tốt hơn, sống khoẻ mạnh và
hạnh phúc hơn, Các
tin vui là đa số dân chúng thế giới hiện
sống trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, trong
một thiểu số, không phải chỉ ở nước
Mỹ, các đảng chính trị địa phương
và dân túy nổi lên và các nhà lănh đạo có khuynh hướng
độc đoán đă tạo ra một cảm giác
hiển nhiên về tinh thần bi quan, t́nh h́nh dẫn
nhiều người tới lo ngại cho tương lai
của nền dân chủ. Liệu mọi người có
đáng lo không? Biển Dân
chủ biến động Nhiều
người quên rằng nền dân chủ tự do là
một ư tưởng tương đối mới.
Hầu hết các nguyên tắc chủ yếu của nó
là phân quyền, nhân quyền, tự do dân sự,
quyền tự do ngôn luận và hội họp, phương
tiện truyền thông đa nguyên, bầu cử tự
do, công bằng và cạnh tranh; đến thế kỷ
XX, tất cả không thực sự vững bền. Cho
đến một vài thế kỷ trước đây,
hầu hết các xă hội đều chuyển ḿnh
giữa t́nh trạng vô chính phủ và các h́nh thức
khác nhau của các chế độ chuyên chế. Trước
thời kỳ hiện đại, các chính phủ
chỉ mang lại những cải thiện không đáng
kể trong cuộc sống của dân chúng mà họ thường
kiểm soát thông qua phương cách đàn áp tàn
bạo. Ở hầu hết các nơi phải chịu
cảnh tàn nhẫn của chế độ độc
tài, bởi v́ sự thay thế - bằng một t́nh
trạng vô chính phủ theo kiểu của Hobbes -
thậm chí c̣n tồi tệ hơn. Sự trỗi
dậy của nền dân chủ là không thể tránh. Trên
thực tế, sự lan rộng của các chính phủ
dân chủ sau thế kỷ XVIII là một chuyện không
ai quan tâm. Theo Samuel P. Huntington, nhà khoa học chính
trị của Đại học Harvard đă quá cố,
nó đă có ba đợt sóng. Đợt
đầu tiên do Hoa Kỳ lănh đạo bắt đầu
vào thế kỷ XIX, một hệ thống dân chủ
hiến định đă phát triển và được
ngưỡng mộ rộng răi, v́ nó có những
biện pháp kiểm tra các quyền hành pháp, lập pháp,
tư pháp và ưu quyền. Trong suốt thế kỷ
XIX, các nước Tây Âu, đặc biệt đă mô
phỏng theo mô h́nh Hoa Kỳ. Đến năm 1922, có
khoảng 29 nền dân chủ tồn tại trên
khắp thế giới, mặc dù con số này sẽ
giảm xuống c̣n 12 vào năm 1942. Theo
Huntington, sau chiến thắng của Đồng Minh trong
Đệ nhị Thế chiến, làn sóng thứ hai
đă xuất hiện và lên tới đỉnh điểm
vào năm 1962, khi có tới 36 nền dân chủ trên
thế giới. Một lần nữa, đợt sóng
giảm xuống. Đến năm 1975, con số này
giảm xuống c̣n 30, do các cuộc nắm quyền
của Cộng sản và đẩy lùi do các chế
độ độc tài ở châu Âu, Mỹ La tinh, Châu
Phi, Trung Đông và Đông Nam Á. Làn sóng
thứ ba c̣n nhiều hơn là sóng thần. Các chính
phủ quân sự và phát xít rơi vào phe cánh tả, cánh
hữu, và trung dung trong suốt những năm của
thập niên 1970 và 1980. Sau khi bức tường Berlin
sụp đổ vào năm 1989 và Liên Xô tan ră vào năm
1991, thực ra số lượng các nền dân chủ
trên thế giới đă tăng gấp ba lần. Khi chính
quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama năm
2009 nhậm chức, có 87 nền dân chủ trên toàn
thế giới. Buớc
tiến thoái lui? Nh́n trở
lại, chúng ta thấy rằng giai đoạn ngay sau
Chiến tranh Lạnh dường như là một
thời kỳ vàng son của sự củng cố dân
chủ. Nhưng đó cũng là thời điểm mà
tốc độ thay đổi loạng choạng đă
làm dấy lên mối lo ngại mới về sự an
nguy thực sự của một vài chính phủ mới
được dân chủ. Ngày
nay, sự tự tin trong tiến tŕnh của nền dân
chủ đang mờ đi. Các học giả nói
một cách nghiêm khắc về cách mà các nền dân
chủ đang phải chịu đựng từ một
t́nh trạng "kém cỏi", "thoái trào",
"suy thoái", và thậm chí là "suy trầm".
Những người khác lo rằng các nền dân
chủ đang tự tạo giả dối và trở thành
"phân bộ", "cường độ
thấp" "rồng tuếch và "không tự
do". Trong những trường hợp này, các
cuộc bầu cử vẫn diễn ra, nhưng
quyền tự do dân sự và các biện pháp kiểm
soát quyền lực bị miệt thị. Hơn
nữa, sự sụp đổ của các cuộc cách
mạng màu ở Gruzia, Ucraina và Kyrgyzstan trong năm
2003-2005 đă làm xuống tinh thần một cách nghiêm
trọng, cũng như sự thất bại của mùa
xuân Ả Rập năm 2010-2011 ở Ai Cập, Libya,
Syria và các nơi khác ở Trung Đông và Bắc Châu
Phi. Thậm chí gần đây hơn, cách điều hành
độc đoán ở các nền dân chủ mới như
Hungary, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và trong các nền dân
chủ xưa củ như Mỹ đă thành tiếng
chuông báo động. Một loạt những tin tức
tiêu cực của các nền dân chủ khác đă
đẩy mạnh ư thức rằng chủ nghĩa phi
dân chủ và trào lưu dân túy dân tộc đang
hồi phục. Các cơ quan quan sát như Freedom House tin
rằng thế giới đă trở nên ít tự do hơn. Một
loạt các cuốn sách mới đă làm tăng thêm ư
nghĩa dần dà của sự sụp đổ. Trong tác
phẩm “Các Nền Dân chủ chết như thế nào“,
Steven Levitsky và Daniel Ziblatt của Đại học
Harvard lập luận rằng các nền dân chủ thường
không kết thúc bằng một vụ bùng nổ, nhưng
với các tiếng kêu than do bị tổn thương,
khi các nhà dân chủ giả hiệu như Tổng
thống Donald Trump ở Hoa Kỳ đang làm suy yếu
dần các biện pháp kiểm soát và cân bằng. Cũng tương
tự như vậy, trong tác phẩm “Con người
đối kháng với nền Dân chủ“, Yascha Mounk
của Đại học Harvard cảnh báo rằng
nền dân chủ tự do đang nhường bước
cho "chủ nghĩa tự do phi dân chủ" và
"nền dân chủ phi tự do". “Chủ nghĩa
tự do phi dân chủ" bảo vệ các quyền cơ
bản nhưng ủy thác quyền lực thật
sự cho các cơ quan kỹ trị mà họ không
được bầu chọn như Ủy ban Châu Âu.
“Nền dân chủ phi tự do“ đề ra các nhà lănh
đạo dân cử được bầu chọn, nhưng
họ không quan tâm đến các quyền của
thiểu số. Nh́n chung, Mounk và những người khác
sợ rằng giới thanh niên, kể cả ở phương
Tây, đang không quan tâm với chế độ dân
chủ. Những
dữ liệu minh chứng ǵ? Tuy
nhiên, vẫn có lư do để nghi ngờ rằng
nền dân chủ đang thoái trào trên khắp thế
giới. Để khởi đầu, không có bằng
chứng ǵ là rơ ràng về sự sụy tàn thảm
hại trong sự hỗ trợ cho nền dân chủ
ở hầu hết các quốc gia, kể cả ở
Mỹ. Điều này không có nghĩa là nên xem thường
một số các nền chuyên chế đang gia tăng
hiện nay; nhưng nó cho thấy có thể là c̣n
sớm cho các khúc hát bi ai của nền dân chủ. Các
cuộc thăm ḍ dư luận cho thấy sự hỗ
trợ toàn cầu cho nền dân chủ đang suy
giảm, nó cũng cần được diễn
giải với tâm trạng hoài nghi. Xét cho cùng, thật
khó để phân biệt sự quan tâm của dân chúng
đối với nền dân chủ ở các quốc
gia đang bị chế độ độc tài cai
trị, nơi mà những người đối kháng
phải thận trọng khi tuyên bố công khai các quan
điểm như vậy. Trên
thực tế, nghiên cứu của Trung tâm về
Dự án cho Chính sách Hoà b́nh hệ thống cho thấy
làn sóng lớn thứ ba của dân chủ hóa không lùi
bước, cuối cùng nó có thể dẫn tới
một đợt sóng thứ tư. Vào năm 2015, năm
gần đây nhất mà Dự án này có dữ
liệu, có 103 nền dân chủ trên toàn thế
giới, chiếm hơn một nửa dân số toàn
cầu. Cộng thêm 17 nước được phân
loại là dân chủ hơn là độc đoán, và
tỷ lệ dân số sống trong các nền dân
chủ tăng lên 2/3. Để so sánh, vào lúc đầu
của những năm 1800 chỉ có 1% dân số
sống ở các nước dân chủ. Ngay cả khi
thừa nhận rằng có nhiều sắc thái khác
của việc điều hành dân chủ, chỉ riêng
thống kê này cho phép những người bi quan về
dân chủ nên xét lại. Chắc
chắn một điều là tầm quan trọng
của nền dân chủ không phải là nguồn
gốc cho sự tự măn. Sự lan rộng của cách
quản trị dân chủ đang tiếp tục, c̣n lâu
nó mới được đảm bảo. Khi mức
độ của chủ thuyết đa nguyên, tham gia chính
trị và tôn trọng các quyền tự do dân sự
bị phân tán, một số nền dân chủ cho
thấy dấu hiệu hiển nhiên về t́nh trạng
thoái hoá. Theo Chỉ số Dân chủ của Tạp chí
Economist Intelligence Unit, chỉ có 19 quốc gia, phần
lớn ở Tây Âu, có thể được mô tả
là "các nền dân chủ đầy đủ",
trái ngược với "các chế độ dân
chủ thiếu sót", "chế độ pha
trộn" hoặc "chế độ độc tài".
167 quốc gia trong Bảng chỉ số này, có 89
dấu hiệu ghi nhận là thoái hoá trong năm 2017 so
với năm trước. Trong
số các nước rơi vào chủ nghĩa độc
tài là một số nước chuyển đổi dân
chủ gần đây như nhóm được gọi
chung Visegrád, đó là Cộng ḥa Séc, Hungary, Ba Lan và
Slovakia. Dưới sự lănh đạo của Rodrigo
Duterte, một người theo chủ nghĩa dân túy,
Philippines đang dần xóa bỏ tự do. Một
số các nhà lănh đạo dân túy ở các nước
này đă lấy cảm hứng từ những nhà
độc tài khác do dân cử như Recep Tayyip Erdoğan
ở Thổ Nhĩ Kỳ và Vladimir Putin ở Nga. Những
kinh nghiệm của các quốc gia này cho thấy
rằng, trong khi nền dân chủ vẫn được
hầu hết mọi người ưa chuộng,
hầu như nó khó là mô h́nh duy nhất của chính
phủ. Cũng tương tự như vậy, các
nền chính trị giáo quyền trong thế giới
Hồi giáo và chủ nghĩa tư bản độc
đoán ở Trung Quốc cung cấp các giải pháp
thay thế, mà nó hấp dẫn các nhà độc tài và
dân túy, v́ họ có thể tạo ra những lợi
thế kinh tế nhất định trong ngắn
hạn. Lời
hứa lâu dài của nền dân chủ Tuy
nhiên, đối mặt với tất cả những
mối đe dọa sinh tồn này, cần nhớ
rằng nền dân chủ đă thành công không chỉ v́
các thể chế theo thủ tục như các cuộc
bầu cử hoặc các biện pháp kiểm tra và quân
b́nh, mặc dù các thể chế này là quan trọng.
Để diễn giải theo như Winston Churchill, có
thể nói rằng, mặc dù có nhiều sai sót, nhưng
nền dân chủ vẫn c̣n được yêu
chuộng hơn khi so với các lựa chọn khác.
Cuối cùng, các nền dân chủ cho phép mọi người
giải nhiệm các người đại diện
của họ mà không cần đổ máu. Như
John Mueller của Đại học Ohio chỉ rơ, các
nền dân chủ tự do được quản lư
tốt cho phép mọi người tự do "khiếu
nại, kiến nghị, tổ chức, phản đối,
biểu t́nh, đ́nh công, đe dọa di dân hoặc ly
khai, kêu la, công bố, xuất khẩu các quyên góp, bày
tỏ ḷng thiếu tự tin. Thậm chí c̣n tốt hơn
nữa, “khi chính phủ sẽ có xu hướng đáp
ứng lại âm vang của những người kêu gào."
Mueller nhắc nhở chúng ta rằng, ngay cả những
nền dân chủ tự do trưởng thành nhất cũng
đang tiến hành đ̣i hỏi phải liên tục
gạn lọc và cải tiến. Ở mức cơ
bản nhất, các nền dân chủ thành công là
những nền dân chủ bảo vệ công dân
khỏi bị bạo lực và không khí cám dỗ
của những nhà độc tài mà họ tuyên bố
rằng chỉ có họ là đại diện cho người
dân. Để
cho một nền dân chủ phát triển (có thể là
tổng thống chế, đại nghị chế, hay
quân chủ hiến định), người dân
phải tin rằng đó là một sự thay thế
khả dĩ tốt hơn cho chế độ thần
quyền, quyền thần thánh của các bậc vua chúa,
tác phong gia trưởng thực dân hay chế độ
độc tài. Trong vài thế kỷ qua, mọi người
trên khắp thế giới đă nhận ra rằng ư tưởng
về dân chủ tự do như vậy là đă lan
toả. Bất
chấp những hạn chế, nền dân chủ đă
chứng tỏ đạt hiệu quả đáng kể
trong việc kiềm chế bản năng tác hại
của các chính phủ. Hăy xem xét các quyền con người,
nó được điển chế từ năm 1948,
khi Cơ quan Liên Hiệp Quốc thông qua Bảng Tuyên ngôn
Thế giới về Nhân Quyền. Người ta có
thể phản ánh tương tự về bản án
tử h́nh, vốn từng là chuẩn mực cho toàn
cầu. Những dự báo mới nhất cho thấy h́nh
phạt tử h́nh có thể được băi bỏ
hoàn toàn trên toàn thế giới trong ṿng chưa tới
một thập niên. Những
thay đổi sâu rộng như vậy là một
lời nhắc nhở về lư do tại sao chúng ta
phải chiến đấu cho các cuộc bầu cử
tự do và công bằng, quyền của các dân tộc
thiểu số, tự do báo chí, và tinh thần trọng
pháp. Mặc dù nhiều nền dân chủ đă
phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng niềm tin trong những năm gần
đây, những chiến thắng phi thường
của các nền dân chủ này - và tính ưu thế
của nó đối với các giải pháp khác thay
thế - vẫn tiếp tục là cơ sở cho tinh
thần lạc quan. *** Steven Pinker,
Giáo sư Tâm lư học Đại học Harvard, tác
giả của cuốn Enlightenment
Now: The Case for Reason, Science, Humanism and Progress. Robert Muggah,
Đồng sáng lập viên, Giám đốc Nghiên
cứu Instituto Igarapé, Đồng sáng lập viên và Lănh
đạo Tập đoàn SecDev. Nguyên tác: Is Liberal Democracy in Retreat? *** Bài liên quan: Tỉnh thức để
dân chủ hoá https://vietbao.com/a242892/tinh-thuc-de-dan-chu-hoa Tỉnh Thức Về Dân Quyền Để
Tránh Hoạ Diệt Vong https://vietbao.com/a272785/tinh-thuc-ve-dan-quyen-de-tranh-hoa-diet-vong |