Nguy
cơ khủng bố sinh học toàn cầu
TS.Mai Thanh Truyết |
- T́nh trạng khủng bố hiện nay đang
xảy ra ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới với cường độ ngày càng nghiêm
trọng và dă man hơn với việc ôm bom tự sát,
đặc biệt là các quốc gia trong Liên hiệp Âu
châu và Bắc Mỹ. Cơ quan Cảnh sát Toàn cầu
đă càng làm việc cật lực hơn nhưng
vẫn không hạn chế được tầm
hoạt động của các nhóm khủng bố trên
thế giới. Và, nghiêm trọng hơn cả là
vấn đề khủng bố sinh học. Chúng ta c̣n
nhớ, trong nhiệm kỳ của Tổng thống Bush
và Clinton, nhiều thư chứa các mầm sinh học
độc hại đă được gửi đến
những cơ quan công quyền và đă từng tạo
ra hỗn loạn và hoảng loạn cho dân chúng và chính
quyền. 1- Lưu tâm của thế giới về
khủng bố sinh học Tổ chức Cảnh sát H́nh sự Quốc
tế - The International Criminal Police Organization - ICPO-INTERPOL),
thường được gọi là Interpol, là một
tổ chức quốc tế tạo điều kiện
cho hợp tác quốc tế về cảnh sát,
được thành lập với tư cách là Ủy
ban Cảnh sát H́nh sự Quốc tế - International
Criminal Police Commission - ICPC năm 1923. Vào năm 1956 tên
Interpol trở thành tên chính thức áp dụng cho toàn
cầu. Vào ngày 1/3/2005, một hội nghị do Cơ
quan cảnh sát toàn cầu (Interpol) chủ xướng
tại Lyon, Pháp Quốc và cũng là trụ sở chính
của cơ quan này. Hội nghị đă quy tụ trên
500 cảnh sát và chuyên viên chống khủng bố
đến từ 155 quốc gia trên thế giới. Ngay
buổi sáng khai mạc, Ông Ronald K. Noble, Tổng thư kư
interpol tuyên bố: "Mối đe dọa của
khủng bố sinh học là có thật" khi
được tin là al Qaida đă đưa lên mạng
lưới toàn cầu những chỉ dẫn về
việc chế tạo các vũ khí sinh học. Hội nghị đă nhấn mạnh điểm
cần lưu ư là hệ thống Interpol cũng như t́nh
trạng nhân sự hiện nay không được
huấn luyện và trang bị đầy đủ
để kịp thời ngăn chặn hoặc ứng
phó với những tấn công sinh học. Các tham dự viên đă được học
tập qua Hội nghị những kinh nghiệm trong quá
khứ như những vụ khủng bố qua
đường bưu điện trong các bao thư có
chứa mầm bệnh than (anthrax) đă từng gây
chấn động tại Hoa Kỳ sau vụ 9/11.
Cuộc tấn công hệ thống xe điện
ngầm ở Tokyo, Nhật Bản năm 1995 bằng hơi
độc sarin do một giáo phái Islam cũng được
diễn lại. Sau cùng, trong hai ngày hội nghị, các cuộc
thảo luận đều dẫn đến những
biện pháp pḥng ngừa cũng như huấn luyện
nghiệp vụ đặc biệt cho cảnh sát
Interpol. Cũng cần nên biết Interpol được
thành lập qua một nghị quyết của LHQ và ngân
sách hàng năm vào khoảng 50 triệu Mỹ kim qua
sự đóng góp của 182 thành viên trên thế
giới. Bài viết có mục đích tŕnh bày một vài
diễn tiến mới trong việc pḥng chống
khủng bố sinh học và một vài quan điểm
liên quan đến vấn đề đang gây sôi động
trên thế giới hôm nay. 2- Tiêu chuẩn ngăn ngừa khủng
bố sinh học: An ninh khoa học Trước hết, từ năm 2002, Hoa Kỳ
đă đi đầu về hoạch định
kế hoạch để ngăn ngừa khủng bố
sinh học. Trước khi xảy ra vụ 9/11, các nhà
nghiên cứu sinh học Hoa Kỳ chỉ cần thông báo
cho chính phủ khi có dịch vụ di chuyển các
mầm bệnh nguy hiểm mà thôi. Nhưng từ khi
đạo luật An ninh Công cộng và luật
Chuẩn bị và Đáp ứng trước Khủng
bố Sinh học được Quốc hội phê
chuẩn năm 2002 th́ các khoa học gia cần phải
liệt kê tất cả các tác nhân nghiên cứu trong
sinh học như: định mức tiêu thụ trong
thời gian thí nghiệm, mục tiêu thí nghiệm v.v...
ngoài báo cáo di chuyển hay trao đổi với các
trung tâm nghiên cứu khác như trước kia. Cũng
theo hai luật nầy, mọi thủ tục cần
phải có Cơ quan Kiểm soát Dịch tể (CDC)
chấp thuận trước khi di chuyển và khoa
học gia chủ xướng phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm về hồ sơ di dời và mục
đích chuyển tải. Tại Hoa Kỳ, có tất cả hơn 800 cơ
quan chính phủ, đại học, cơ quan nghiên
cứu tư nhân, và các trung tâm sản xuất sinh hóa
chất đều phải đăng bộ với Cơ
quan Kiểm soát Dịch tể và Bộ Nông nghiệp
để kiểm soát 80 tác nhân sinh học được
xem là độc hại và có nguy cơ làm chết người
nhất. Một thí dụ trước và sau khi khủng
bố 9/11 là GS Theresa Koehler, Viện Đại học
Texas đă nghiên cứu chất anthrax trong suốt 20 năm
vừa qua. Trước kia, chỉ cần 1 hoặc 2 ngày
để di chuyển một lượng nhỏ tác nhân
nầy đi đến một trung tâm nghiên cứu khác.
Mà nay, phải cần đến 5 tháng mới làm xong các
thủ tục di dời. 3- Lợi và bất lợi trong Luật An
ninh khoa học Trước hết, an ninh khoa học có thể
ngăn chặn và kiểm soát được mầm
mống khủng bố nhưng đây cũng thể
hiện nhiều bất lợi trong việc phát
triển nghiên cứu: - Thời gian trao đổi giữa các trung tâm
nghiên cứu quá dài; do đó làm chậm đi tiến
tŕnh khai triển và thông đạt kết quả nghiên
cứu giữa các trung tâm. Từ đó làm cho công tác
bị khựng lại; - Ngoài bất lợi vừa kể trên, chính sách
nầy đă gây nên một ngân khoản phụ
trội quá tốn kém ảnh hưởng lên tiến
độ của nghiên cứu; - Chính sách trên cũng c̣n một sơ hở căn
bản là, mặc dù kiểm soát chặt chẽ hồ
sơ lư lịch của từng khoa học gia, nhưng
theo lời của TS Ted Jones, Giám đốc Trung tâm
Kiểm soát Dịch tể (CDC), nếu một nhà làm
khoa học cố ư làm sai trái... th́ nhân viên kiểm soát
của cơ quan trên khó phát hiện được v́
không nắm vững hết các yếu tố trong
cuộc nghiên cứu. Do đó, việc kiểm soát lư
lịch cần phải có sự trợ giúp của cơ
quan Cảnh sát Liên bang (FBI). Nhưng cho đến nay
(2004), FBI cũng chỉ hoàn tất được 85%
hồ sơ của gần 11.000 khoa học gia trong lănh
vực sinh học đă đăng bộ. Số c̣n
lại vẫn nằm trong ṿng điều tra và đành
phải ngưng nghiên cứu trong lănh vực nầy cho
đến khi được chấp thuận. Đó là
chưa kể đến trên 1.800 hồ sơ bị bác
bỏ v́ lư lịch c̣n nhiều nghi vấn. - Thêm một kẽ hở khác là, dù có
được kiểm kê chặt chẽ đi nữa,
nhưng nếu có một khoa học gia nào có ư niệm
xấu như có thể lấy đi một phần nhân
tố độc hại trong một ống nghiệm
đă được kiểm nghiệm mà vẫn không
bị phát giác ra. Chỉ cần một vi lượng
như thế cũng đủ tạo nên một tai
họa lớn. 4- Phân loại độc hại Sau những biện pháp tổng quát vừa
đan cử trên đây, một bước kế
tiếp là việc phân loại độc hại. Theo
luật nầy, có tất cả 80 loại vi khuẩn,
vi rút, nấm móc, và các độc chất được
kể như là những nhân tố có khả năng dùng
trong khủng bố sinh học. Cũng theo luật trên,
Bộ Nông nghiệp và Trung tâm Kiểm soát Dịch
tể chịu trách nhiệm về việc thi hành
luật qua việc tuyển chọn và xếp loại các
nhân tố độc hại, thiết lập các trung tâm
thí nghiệm, nghiên cứu, và xét nghiệm lư lịch
những người bị nghi ngờ và khả năng
tạo ra khủng bố. Về cung cách bảo quản
các vi khuẩn trên, hai cơ quan nầy phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về các công đoạn sử
dụng, kiểm kê, tàng trữ, chuyển vận, và
thải hồi. Và tất cả cần phải có
hồ sơ với đầy đủ chi tiết trên. Sở dĩ có sự phối hợp giữa hai
cơ quan trên v́ việc phân nhiệm rất rơ ràng. Cơ
quan Kiểm soát Dịch tể có nhiệm vụ
thiết lập danh sách và thông báo nguy cơ ảnh hưởng
lên sức khỏe của từng loại độc
chất như vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm
chẳng hạn. C̣n Bộ Nông nghiệp HK sẽ công
bố những luật định về các nguy cơ lên
súc vật và cây cỏ có thể ảnh hưởng hàng
loạt đến đàn gia súc của quốc gia. Đứng trên b́nh diện thế giới, Cơ
quan Y tế Thế giới (WHO) phối hợp với các
quốc gia qua Chương tŕnh An toàn Sinh học
(Bio-Safety Programme) có nhiệm vụ theo dơi các tai nạn
và những hành động cố ư gây khủng bố
có tầm vóc quốc gia hay ảnh hưởng lên
một vùng rộng lớn trên thế giới qua sự
phối hợp với các quốc gia tài trợ và tham
dự chương tŕnh này. 5- Tiêu chuẩn độc hại Các tiêu chuẩn độc hại được
chia làm 3
loại: A, B, và C căn cứ theo mức độ độc
hại và lây lan. Tiêu chuẩn A được xếp vào các
loại có tác hại nguy hiểm nhất cho công
cộng như: - Vi khuẩn gây bệnh than (anthrax) có thể lây
truyền qua đường hô hấp và da; - Vi khuẩn Clostnidium botulinum từ trong đất
tiết ra độc chất làm tê liệt các bắp
thịt và hệ thần kinh và có thể đưa
đến tử vong; - Vi khuẩn gây ra bệnh đậu mùa
(smallpox); - Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch (plague). Tiêu chuẩn B gồm có các nhân tố có khả năng lan truyền và gây tử vong tương đối cho con người và thú vật như ricin (tinh dầu đu đủ tía), vi khuẩn gây bệnh cúm Q và Brucellosis. Đây là hai loại vi khuẩn truyền qua việc tiếp xúc trực tiếp từ gia súc như trâu, ḅ, nai, heo, chó... qua con người gây nên nóng lạnh, đau lưng, ảnh hưởng lên hệ thần kinh trung ương làm cho mệt mỏi dài hạn. Tiêu chuẩn C được xem như là
nhẹ nhất ít có khả năng được dùng
như một vũ khí sinh học. Đó là: virus
bệnh cúm vàng (yellow fever) gây ra bệnh sốt vàng da,
vi khuẩn Hantavirus có thể gây tử vong qua việc lây
truyền từ các loài gậm nhấm như chuột,
bọ, sóc do sự tiếp xúc trực tiếp. Việc chọn lựa và phân loại các nhân
tố trên đây là một yếu tố quan trọng
trong công cuộc pḥng chống khủng bố sinh
học. Từ 3 tiêu chuẩn trên, các nhân tố độc
hại được chia ra làm 4 Nhóm Nguy cơ (Risk
Group) có danh số từ 1 đến 4: GR1, 2,3,4. Tùy theo
mức độ độc hại như: nhân tố
ảnh hưởng đến hệ thần kinh, độc
chất từ thực hay động vật, hóa
chất giết người như cyanur, hay nhân tố
ảnh hưởng lên bộ hô hấp và khí quản. Nhóm Nguy cơ 1 (RG1) được xếp vào
loại có nguy cơ gây bệnh cho người lớn.
Nhóm RG2 là nhóm có liên quan đến bệnh tật
của con người và có thể được
chữa lành. Nhóm RG3 là những tác nhân lan truyền qua
không khí và đường hô hấp, có thể gây
tử vong trước mắt. Và sau cùng Nhóm RG4 là nhóm
kịch độc, gây tử vong và có thể gây ra
bệnh dịch ảnh hưởng đến những
vùng rộng lớn. Do đó Nhóm 3 và 4 là những tác
nhân khủng bố sinh học nguy hiểm nhất. Về các trung tâm thí nghiệm, tại Hoa
Kỳ hiện có 4 Trung tâm tối tân nhất có tên là
Pḥng thí nghiệm An ninh Sinh học cấp 4 (BSL-4) có
mức an toàn và an ninh cao nhất. Đó là Trung tâm
kiểm soát Dịch tể và Pḥng ngừa (CDCP) tại
Atlanta, Georgia, Viện Quốc gia về Bệnh truyền
nhiễm và Dị ứng (NIAID), Frederic, Maryland, Viện
Đại học Texas, Galveston, Texas, và Viện Nghiên
cứu Sinh Y học, San Antonio, Texas. 6- Thay lời kết Từ những biện pháp pḥng bị và ngăn
ngừa khủng bố sinh học trên tại Hoa Kỳ,
nếu được các quốc gia khác trên thế
giới tuân thủ, chúng ta hy vọng nạn khủng
bố sinh học có thể được ngăn
chận phần nào. Nhưng tiếc thay, những
quốc gia c̣n lại trên thế giới, ngoài một
số trong Liên hiệp Âu châu có khả năng tài chính
và nhân sự để chạy theo hướng trên. Những quốc gia c̣n lại, trước
hết v́ không đủ điều kiện, sau nữa
v́ tầm nh́n của mỗi quốc gia về vấn
nạn khủng bố sinh học có thể khác biệt
với quan niệm của các quốc gia Tây phương
qua vấn đề chủng tộc, tôn giáo, và
quyền lợi dân tộc. Do đó, trên thực tế, không thể nào có
một sự đồng thuận dù tương đối
cho việc truy t́m một giải pháp chống khủng
bố sinh học nầy. Trước mắt là các
quốc gia Hồi giáo Trung Đông vẫn c̣n xem vũ
khí sinh học là biện pháp hữu hiệu nhất
để đối đầu với sức mạnh
của Tây phương và thực hiện việc
phục hồi lănh thổ Hồi giáo qua việc xâm
nhập và di dân sang châu Âu. Việc làm này ngày càng
thể hiện rơ trong suốt thời gian năm 2017,
hiện đang tạo ra khủng hoảng lớn cho Âu
châu và cũng đang manh nha tại Hoa Kỳ. Riêng tại Việt Nam, những vụ “thanh toán”
nhau v́ tranh giành quyền lợi và quyền lực
của những nhóm lợi ích trong Bộ Chính trị
CSVN trong những năm gần đây là những
chỉ dấu rơ ràng nhất cho thế giới
biết, CSVN đă áp dụng nhuần nhuyễn…
khủng bố sinh học và phóng xạ như thế nào
rồi! Chính v́ vậy, thế giới vẫn c̣n
bất ổn dài dài dù Hoa Kỳ có thực thi thêm
nhiều biện pháp nghiêm ngặt hơn nữa để
pḥng chống khủng bố sinh học v́ một
số quốc gia độc tài và c̣n mang nặng
chủ nghĩa giáo điều c̣n lại trên thế
giới vẫn áp dụng phương pháp nầy
triệt để và nhuần nhuyễn hơn để
triệt tiêu đối thủ. 14.01.2018 Hội KH&KT Việt Nam (VAST) TS.Mai Thanh Truyết
|