Quan
hệ Hoa Kỳ - Trung Cộng |
-
Hoa Kỳ liên lạc ngoại giao chính thức với
Trung Hoa từ năm 1844, thời nhà Thanh. Quan hệ
nầy thay đổi quan trọng từ khi Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Hoa, tức Trung Cộng thành lập năm
1949. 1. Hoa Kỳ và Trung Hoa Lúc
mới đến, Hoa Kỳ chỉ chú trọng phát
triển giao thương với Trung Hoa. Tuy nhiên, khi các
ṭa công sứ các nước tây phương ở
Bắc Knh bị quân Trung Hoa tấn công, th́ Hoa Kỳ
tham gia lực lượng tám nước, gọi là bát
quốc liên quân, chống nhà Thanh. Liên quân (theo ABC)
gồm Anh, Áo-Hung, Đức, Hoa Kỳ, Nga, Nhật
Bản, Pháp, Ư. Nhà Thanh thất bại, phải kư Điều
ước Tân Sửu ngày 7-9-1901, bồi thường
chiến phí lên đến 450 triệu lượng
bạc, tương đương 67 tr. Anh kim hay 333
tr. Mỹ kim lúc đó. (Jonathan D. Spence, The Search for Modern
China, New York: W.W. Norton & Company, 1990, tr. 235.) (Xem thêm: John
King Fairbank, China a New History, Cambridge: Harvard University Press, tr.
232.) Trong số tiền nầy, Hoa Kỳ được
bồi thường 12 triệu Mỹ kim lúc đó. Hoa
Kỳ chia số tiền bồi thường thành 2
phần: một nửa dùng để góp vào sự thành
lập đại học Thanh Hoa (Quinghua) ở Bắc
Kinh, và một nửa c̣n lại để cấp
học bổng cho 1,268 sinh viên từ năm 1909 đến
1929 thuộc đại học nầy. Ngoài ra, các phái
đoàn truyền giáo Hoa Kỳ đă giúp nhiều trường
Ky-Tô giáo và nhiều đại học ở Trung Hoa.
(Jonathan D. Spence, sđd. tr. 383.) (John King Fairbank, sđd. tt.
264-265.) Tại Đông bắc Á, chiến tranh Triều Tiên
xảy ra năm 1950. Hoa Kỳ ủng hộ Nam Triều
Tiên (NTT). Trung Cộng ủng hộ Bắc Triều Tiên
(BTT). Sau 3 năm đánh nhau, hai bên kư hiệp ước
đ́nh chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày
27-7-1953. Để bảo vệ NTT, Hoa Kỳ kư với
NTT Mutual Defense Treaty Between the United States and the Republic of
Korea ngày 1-10-1953. Tháng 9-1954, Trung Cộng pháo kích hai quần đảo
Kim Môn - Mă Tổ (Kinmen-Mazu) thuộc quyền của THDQ
(Đài Loan). Trước sự đe dọa của
Trung Cộng, Hoa Kỳ liền kư với THDQ Sino-American
Mutual Defense Treaty c̣n gọi là Mutual Defense Treaty between the
United States of America and the Republic of China ngày 2-12-1955. Với Nhật Bản, sau các hiệp ước 1951 và
1954, Hoa Kỳ kư thêm Treaty of Mutual Cooperation and Security
between the United States and Japan (Hiệp định Hợp tác
và An ninh Hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Nhật
Bản) ngày 19-1-1960. Các hiệp ước trên cho thấy Hoa Kỳ cương
quyết bảo vệ ba nước NTT, THDQ (Đài Loan)
và Nhật Bản, đồng thời lập một ṿng
đai bao vây Trung Cộng trên Thái B́nh Dương. Trong khi đó, sau hội nghị Liễu Châu
(Quảng Tây, Trung Hoa) từ 3 đến 5-7-1954 với
thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai về
việc kư kết hiệp định Genève (20-7-1954), khi
về nước, theo đúng chủ trương
của Trung Cộng, HCM đưa ra chiêu bài “chống
Mỹ cứu nước”. (Hồ Chí Minh toàn tập
tập 7: 1953-1955, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia,
2000, tt. 314-315.) Trong chiến tranh 1954-1975 ở Việt Nam, tuy chống
nhau, nhưng Liên Xô và Trung Cộng đều viện
trợ cho Bắc Việt Nam (BVN) chống Mỹ như
lời Lê Duẩn phát biểu: “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung
Quốc, cho Liên Xô.” (Nguyễn Mạnh
Cầm (ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến
2000) trả lời phỏng vấn BBC ngày 24-1-2013.) Trong
khi đó, Hoa Kỳ giúp đỡ Nam Việt Nam (NVN)
chống sự xâm nhập ào ạt của bộ đội
BVN. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh
giới hạn (limited war), không tấn công ra BVN để
chận đứng nguồn tiếp tế của BVN cho
bộ đội CS ở NVN, nên quân đội Hoa
Kỳ không thành công trong việc giúp Việt Nam
Cộng Ḥa đánh dẹp du kích CS ở NVN. Trước t́nh h́nh mới, Hoa Kỳ thay đổi
sách lược, muốn làm thân với Trung Cộng
nhằm chống Liên Xô, đồng thời nhờ Trung
Cộng giúp Hoa Kỳ thảo luận với CSVN về
việc rút quân khỏi Việt Nam. Đối với
Trung Cộng, Hoa Kỳ và Liên Xô đều là hai kẻ
thù, nhưng Hoa Kỳ ở xa, ít nguy hiểm hơn Liên
Xô là nước nằm sát bên biên giới, nên Trung
Cộng cũng muốn liên kết với Hoa Kỳ
để chống Liên Xô. 4. Hoa Kỳ và Trung cộng ḥa hoăn Sau nhiều cuộc thăm ḍ và đàm phán bí
mật, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Cộng đều
tỏ thiện chí xích lại gần nhau. Ngày 9-7-1971,
trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn An ninh
Quốc gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger bí mật đến
Bắc Kinh, thủ đô Trung Cộng. Trong cuộc gặp gỡ với Châu Ân Lai, ngoài
những vấn đề song phương và thế
giới, Kissinger c̣n thảo luận với Châu Ân Lai
về vấn đề Việt Nam. Sau khi Kissinger về
nước, Nixon lên đài truyền h́nh ngày 15-7-1971, công
bố sẽ thăm Trung Cộng vào đầu năm
tới. Lót đường cho chuyến thăm viếng
hữu nghị sắp đến, Hoa Kỳ không phủ
quyết cuộc biểu quyết tại Đại
hội đồng thứ 26 của LHQ ngày 25-10-1971, theo
đó CHNDTH được cử giữ ghế đại
biểu Trung Hoa tại LHQ thay cho THDQ (Đài Loan), là
ghế hội viên thường trực, có quyền
phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ. Tổng thống Nixon cầm đầu phái đoàn
Hoa Kỳ đến Bắc Kinh ngày 21-2-1972, chủ
yếu bàn về bang giao giữa hai nước, và Hoa
Kỳ thông báo kế hoạch rút quân khỏi Việt
Nam của Hoa Kỳ. Trước khi về nước,
tổng thống Nixon và thủ tướng Trung Cộng
Châu Ân Lai kư kết bản "Thông cáo chung"
tại Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972, làm
nền tảng bang giao giữa hai nước, gồm 16
điều: Trung Cộng đưa ra quan điểm của Trung
Cộng trong điều 6, Hoa Kỳ đưa ra quan
điểm của Hoa Kỳ trong điều 7. Trong điều
8, hai bên đồng ư rằng, tuy hệ thống xă
hội và chính sách ngoại giao khác nhau, nhưng hai bên
đồng tôn trọng chủ quyền, sự toàn
vẹn lănh thổ của các quốc gia, không xâm lăng,
không can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước khác và chấp nhận sự sống chung ḥa
b́nh giữa các nước. Trong điều 9, Hoa Kỳ
và Trung Cộng xác nhận không kiếm cách làm chủ
khu vực châu Á-Thái B́nh Dương, và chống đối
bất kỳ nước nào hay nhóm nước nào
muốn làm bá chủ vùng nầy. Quan trọng nhất
đối với Trung Cộng trong bản thông cáo chung
là điều 11 và điều 12. Theo điều 11,
Trung Cộng nhấn mạnh rằng Đài Loan là
một tỉnh của Trung Hoa và CHNDTH là nhà nước
hợp pháp duy nhất của Trung Hoa. Chính phủ CHNDTH
phản đối mạnh mẽ tất cả những
mưu toan nhằm tạo “một Trung Hoa một Đài
Loan”, “một Trung Hoa hai chính quyền”, “hai Trung
Hoa”, hay một “Đài Loan độc lập”. Trong
điều 12, Hoa Kỳ xác nhận chỉ có một
Trung Hoa, và Đài Loan là một phần của Trung Hoa.
Đồng thời Hoa Kỳ tái khẳng định
lợi ích của họ trong việc giải quyết
vấn đề Đài Loan một cách ḥa b́nh. Hoa
Kỳ cam kết sẽ từ từ rút hết quân và
thiết bị quân sự ra khỏi Đài Loan khi khu
vực giảm dần căng thẳng. Hoa Kỳ chính thức công nhận Trung Cộng ngày
1-1-1979. Tuy vậy, ngay sau đó, Hoa Kỳ ban hành "Đạo
luật Quan hệ Đài Loan" (Taiwan Relations Act) ngày
10-4-1979, xác định mối quan hệ chính thức
với Đài Loan tuy không đặt nền ngoại
giao, và vẫn tiếp tục bảo vệ Đài Loan.
Điều nầy làm cho Trung Cộng không vừa ḷng,
nhưng Hoa Kỳ cương quyết theo đuổi
chủ trương nầy cho đến ngày nay. 5. Trung Cộng cải cách kinh tế và
quân sự Tháng 12-1978, hội nghị trung ương đảng
CSTH quyết định cải cách và mở cửa,
đưa ra 4 hiện đại hóa về nông
nghiệp, kỹ nghệ, khoa học kỹ thuật và
quân sự. Trung Cộng vẫn duy tŕ cơ chế CS
độc tài đảng trị, nhưng từ bỏ
kinh tế chỉ huy và bước vào kinh tế tự
do, phát triển rất nhanh chóng. Khi các nước CS
Đông Âu lần lượt sụp đổ trong các
năm 1989-1990 và Liên Sô sụp đổ năm 1991,
Trung Cộng trở thành nước CS lớn mạnh
nhứt trong 5 nước CS c̣n lại. (Trung Cộng,
Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Cuba.) Về kinh tế, Trung Cộng bước qua kinh
tế thị trường, nhưng thực sự
vẫn là nền kinh tế do nhà nước hoạch
định và tư bản nằm trong tay các công ty do
nhà nước kiểm soát, nghĩa là tư bản
vẫn nằm trong tay nhà nước. V́ vậy, nhà nước
Trung Cộng càng ngày càng giàu mạnh. Dựa vào đó
Trung Cộng phát triển kinh tế, thương măi,
nghiên cứu vơ khí, canh tân quân đội, hiện
đại hóa Hải quân, bành trướng ngoại
giao, thực hiện những kế hoạch chính
trị đầy tham vọng, hào phóng cho các nước
nhỏ khắp năm châu, nhứt là Đông Nam Á và châu
Phi, gặp khó khăn về tài chánh, vay nợ rộng
răi để chờ cơ hội trục lợi… Trong giai đoạn nầy, đại tướng Lưu
Hoa Thanh (Liu Huaqing, 1916-2011)), tư lệnh Hải quân
Trung Cộng từ 1982, theo học thuyết của Alfred
Thayer Mahan (Hoa Kỳ, 1840-1914), canh tân Hải quân Trung
Cộng. Theo Thayer Mahan, quyền lực trên biển là
điều kiện tối quan trọng để phát
triển quyền lực quốc gia trên thế giới
trong thời hiện đại, nhất là những nước
có nhiều biển. Tổng thống Hoa Kỳ Theodore
Roosevelt (cầm quyền 1901-1909), theo lư thuyết của
Mahan, canh tân và hiện đại hóa Hải quân Hoa
Kỳ, rồi đưa Hải quân chiếm đóng
những hải đảo nhỏ trên Thái B́nh Dương
làm căn cứ. Từ đó Hải quân Hoa Kỳ càng
ngày càng mạnh, lên hàng đầu thế giới sau
thế chiến I (1914-1918), và kiểm soát toàn bộ Thái
B́nh Dương sau thế chiến II (1939-1945). Lưu Hoa Thanh đưa ra chiến lược xây
dựng Hải quân gồm ba giai đoạn: 2000-2010
(giai đoạn 1), 2010-2020 (giai đoạn 2), và 2020-2040
(giai đoạn 3). Đại tướng Lưu Hoa Thanh
chủ trương Hải quân Trung Cộng cần trang
bị hàng không mău hạm để trở thành
lực lượng Hải quân toàn cầu vào giữa
thế kỷ 21. Một học giả Hoa Kỳ, tiến sĩ Jonathan
D. T. Ward, sau nhiều năm qua Trung Cộng nghiên cứu,
đă tŕnh bày lại đầy đủ cuộc
cải cách và tham vọng của Trung Cộng trong sách
China’s Vision of Victory, Nxb.The Atlas Publishing and Media Company LLC,
mới phát hành vào tháng 3-2019. Sách gồm 5 phần, có 5 tiểu đề do tác
giả viết nguyên văn chữ Hoa (chữ Tàu)
của Trung Cộng như sau: Phần 1: Trung Hoa dân
tộc vĩ đại phục hưng (Dân tộc Trung
Hoa vĩ đại phục hưng (tr. 1); phần 2: Lam
sắc quốc thổ (Đất nước màu xanh)
(tr. 45); phẩn 3: Can thương Mỹ Quốc, siêu quá
Mỹ Quốc (Đuổi kịp nước Mỹ - Vượt
qua nước Mỹ) (tr. 89); phần 4: Quốc gia
lợi ích bất đoạn thác triển (Lợi ích
quốc gia không ngừng khai thác và phát triển) (tr.
139); phần 5: Nhân loại mệnh vận cộng đồng
thể (H́nh thức vận mệnh cộng đồng
nhân loại) (tr. 177). Các tiểu đề trên cho thấy rơ tham vọng
lớn lao của Trung Cộng, nhưng người đọc
sẽ càng thấy rơ hơn nữa tham vọng nầy
khi đi vào phần 5 của quyển sách, gồm 5
mục là: (5.1) China’s Vision for World Order (tr. 180); (5.2) A
Global “Middle Kingdom” (tr. 185); (5.3) “Interior Vassals” and
“Exterior Vassals in the “Community of Common Destiny for Mankind”
(tr. 196); (5.4) A World Transformed: A Day in the Life of Chinese Power
(tr. 209); (5.5) 2049: China’s Vision of a New World Order (tr. 222). 6. Trung cộng bành trướng Trước đây, các vua chúa Trung Hoa, với tâm lư
điền chủ, chỉ chú trọng đến
việc chiếm thêm đất đai về phía tây và
phía nam, mà không chú ư đến phía đông v́ phía
đông là vùng biển Thái B́nh. Trung Cộng cũng
thế. Khi mới cầm quyền năm 1949, lănh đạo
Trung Cộng liền tiến hành ngay “giải phóng ḥa
b́nh” [từ ngữ của Trung Cộng] tức
thống trị các xứ Tân Cương, Tây Tạng. Trong khi đó, về mặt biển, cho đến
đầu thế kỷ 20, nước Trung Hoa chỉ
tới đảo Hải Nam. Một bản đồ năm
1948 thời Trung Hoa Dân Quốc vẽ thêm một
đường gạch cách khoảng, nối 11 điểm
trên Biển Đông mà Trung Hoa cho rằng thuộc
chủ quyền Trung Hoa. Qua thời Trung Cộng,
đường nầy rút lại c̣n 9 điểm,
tạo thành một khu vực có h́nh chữ U, giống
h́nh lưỡi ḅ, rộng khoảng 80% diện tích
Biển Đông. Nếu kể từ đất liền
của Trung Cộng, đường lưỡi ḅ dài hơn
1,000 hải lư, chỉ cách đất liền các nước
Philippines, Malaysia và Việt Nam trên 100 hải lư, “ăn
vào 67 lô” dầu khí của Việt Nam trên Biển
Đông. (BBC tiếng Việt ngày 23-5-2018.) Trung Cộng
quan niệm bất di bất dịch rằng đường
lưỡi ḅ là của Trung Công, bất chấp
luật biển của Liên Hiệp Quốc (LHQ) Khi Trung Cộng xâm chiếm băi Scarborough của
Philippines, nước nầy kiện Trung Cộng năm
2013 ra trước Ṭa án Trọng tài thường
trực (Permanent Court of Arbitration), trụ sở ở La
Haye (Ḥa Lan). Năm 2016, Ṭa nầy phán quyết rằng
Trung Cộng không có cơ sở lịch sử và pháp lư
về đường lưỡi ḅ, và Trung Cộng không
có quyền độc quyền làm chủ biển và tài
nguyên trong vùng đường lưỡi ḅ. Tuy nhiên,
Trung Cộng chẳng quan tâm tí nào đến phán
quyết ṭa án La Haye, chỉ dùng lư của kẻ
mạnh, dựa vào thế lực quân sự, thương
thuyết song phương với từng nước
để dễ dụ dỗ, dễ mua chuộc, và cũng
dễ đe dọa. Như thế, sau khi xây dựng nền kinh tế
phồn thịnh, phát triển khoa học kỹ
thuật, Trung Cộng c̣n chủ trương bành trướng
bằng sức mạnh quân sự, và đe dọa đến
trật tự thế giới, bất chấp luật
lệ quốc tế, nhằm thực hiện giấc
mộng Trung Hoa vĩ đại mà các nhà lănh đạo
CS ấp ủ từ thời Mao Trạch Đông. Bên ngoài vùng Biển Đông, Trung Cộng áp dụng
chiến thuật khác, dùng thế lực “mềm”
về kinh tế lôi kéo các nước đang gặp khó
khăn. Gần nhứt là các nước Đông Nam Á có
nhiều Hoa Kiều như Lào, Cambodia, Thái Lan, Malaysia,
Myanmar (Miến Điện), Indonesia. Xa hơn một chút
là Sri Lanka, Pakistan, rồi qua các nước Âu Châu c̣n
chậm phát triển sau thời kỳ CS sụp đổ.
Trung Cộng bành trướng mạnh ở những nước
Phi Châu nghèo đói. Trung Cộng qua Peru ở Mỹ Châu,
đầu tư khai thác dầu khí, sản xuất
đồng và dự án đường hỏa xa Peru và
Bolivia. Trung Cộng c̣n vươn xuống tận Úc Châu
từ khoảng 10 năm nay, tăng cường đầu
tư mạnh mẽ khiến Úc cũng lo ngại Trung
Cộng can thiệp vào chính trị nội bộ
của nước Úc. 7. Hoa Kỳ và Trung cộng tái tranh
chấp Hoa Kỳ nhận ra tham vọng của Trung Cộng
trong cuộc cải cách kinh tế và nhứt là cải
cách quân đội, canh tân Hải quân. Dưới
thời tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, tại
diễn đàn các ngoại trưởng ASEAN ở Hà
Nội năm 2010, ngoại trưởng Hillary Clinton công
bố Hoa Kỳ quyết định xoay trục qua Á Châu,
và Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia đối với
tự do hàng hải trên Biển Đông. Kế
hoạch nầy làm Trung Cộng quan ngại. Đáp trả lại, năm 2013 Trung Cộng công khai
dự án “một vành đai, một con đường”
(nhất đới nhất lộ), phỏng theo “con
đường tơ lụa” thời xưa cũng
của Trung Hoa. Trung Cộng cho rằng đây là kế
hoạch phát triển kinh tế, mở rộng giao thương
của Trung Cộng, nhưng các nước khác cho
rằng đây là chương tŕnh của Trung Cộng
nhằm chinh phục thế giới. Trung Cộng bỏ
ra hàng tỷ Mỹ kim, mở rộng ảnh hưởng
khắp các châu lục, từ Đông Nam Á qua Nam Âu, Phi
Châu, Úc Châu và cả Nam Mỹ. Có một điểm đáng chú ư, là Việt Nam
nằm ở địa đầu lộ tŕnh “một
vành đai một con đường” của Trung
Cộng trên đường tiến xuống phía nam. V́
vậy, Trung Cộng t́m cách khuất phục cho
được Việt Nam, v́ nếu không khuất
phục được Việt Nam, th́ Trung Cộng khó
khuất phục được các nước khác
tại vùng nầy. Tham vọng bành trướng của Trung Cộng,
dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự,
bất chấp luật pháp quốc tế, gây bất
ổn vùng Biển Đông, đi ngược hẳn
với Hoa Kỳ, là nước chủ trương
tự do hàng hải cho tất cả các nước trên
thế giới, giao thương một cách ḥa b́nh, công
bằng, và minh bạch giữa các quốc gia, và
tất cả các nước đều phải tôn
trọng luật lệ hàng hải do Liên Hiệp
Quốc quy định, không bắt nạt, áp chế
nhau. Quan điểm giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ hoàn
toàn trái ngược nhau, không thể dung ḥa được,
nên chẳng bao lâu, Hoa Kỳ và Trung Cộng tái tranh
chấp. Có người cho rằng đây là cuộc
chiến tranh lạnh mới giữa hai nước, nhưng
v́ đây là hai cường quốc kinh tế, nên
ảnh hưởng đến nhiều nước trên
thế giới. Ngoài Hoa Kỳ, chủ trương bành trướng
của Trung Cộng làm cho cả thế giới quan
ngại. Trong cuộc họp của khối ASEAN lần
thứ 52 tại Bangkok ngày 31-7-2019, các ngoại trưởng
ASEAN đưa ra bản tuyên bố chung dài 23 trang, đă
nhấn mạnh rằng “…Chúng tôi đă thảo luận về t́nh h́nh
ở Biển Đông, trong đó một số bộ trưởng
bày tỏ lo ngại về việc cải tạo đất,
các hoạt động và sự cố nghiêm trọng
trong khu vực…” (BBC NEWS Tiếng Việt, 1-8-2019.) Gần
đây, tại London, thủ đô nước Anh,
hội nghị thượng đỉnh 29 nước
khối NATO thông qua bản tuyên bố chung ngày 4-12-2019,
gồm 9 điều, trong đó điều thứ 6 lưu
ư đến sự thách thức của Trung Cộng
được tạm dịch như sau: “Chúng tôi thừa
nhận rằng ảnh hưởng đang mở
rộng và chính sách quốc tế của Trung Quốc
vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng
thời đem lại nhiều thách thức mà chúng tôi
phải cùng nhau ứng phó trong tư thế liên minh.” Kết luận Trên
đây là sơ lược mối quan hệ giữa Hoa
Kỳ và Trung Cộng từ khi Trung Cộng được
thành lập năm 1949 cho đến ngày nay. Trước
khi kết luận, xin ôn lại một kinh nghiệm
lịch sử. Trước thế chiến thứ
nhứt (1914-1918), và trước thế chiến thứ
hai (1939-1945), nước Đức phục hưng kinh
tế, xây dựng đất nước, kèm theo tham
vọng chính trị, bành trướng bằng quân
sự nhằm nhanh chóng chinh phục quyền lực. Trước
thế chiến thứ hai, Nhật Bản cũng
chủ trương như thế. Chính sách của hai nước
nầy đưa đến hai cuộc chiến thảm
khốc trên thế giới. Trái
lại, sau thế chiến thứ hai, Tây Đức,
Nhật Ban và Nam Triều Tiên nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ,
tái xây dựng đất nước một cách ḥa b́nh,
phục hưng kinh tế, phát triển kỹ nghệ,
mở rộng giao thương, tôn trọng luật pháp
quốc tế, không tham vọng bành trướng chính
trị và quân sự, không xâm phạm đất đai
của các nước khác. Nhờ thế, hiện nay các
nước nầy trở thành những cường
quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Như
thế, nếu Trung Cộng cứ khăng khăng duy tŕ
chủ trương hiện nay, coi thường luật
pháp quốc tế, phát triển kinh tế, bành trướng
quân sự, th́ Trung Cộng có thể sẽ đi vào
vết xe cũ của hai nước Đức và
Nhật trước thế chiến. Thái độ khiêu
khích bạo lực của Trung Cộng sẽ đụng
độ nhiều nước, mà cuộc tranh chấp
với Hoa Kỳ mới chỉ là điểm khởi
đầu… (Bài tiếp: “Đối đầu Hoa
Kỳ-Trung Cộng.) (Dallas, 10-12-2019)
|