Tiến
Triển Của Toàn Cầu Hóa Erik
Berglöf TS.Đỗ Kim Thêm dịch |
Vào
khoảng cuối thế kỷ vừa qua, các nhà phê b́nh
về tự do hóa thương mại và thị trường
tư bản có lư do chính đáng để lo ngại
rằng các nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi sẽ tụt hậu hơn sau thế
giới phát triển. Nhưng trường hợp ngược
lại đă xảy ra và hiện nay thế giới
phải lo lắng về quỹ đạo của các
nền kinh tế đă tiên tiến và sự căng
thẳng của các thỏa ước đa phương. Rất
ít có các sách vở về học thuật nào mà nó có
nhiều ảnh hưởng chính trị hơn là Globalization
and its Discontents của Joseph E. Stiglitz. Được
xuất bản lần đầu vào năm 2002, sách
đă trở thành một chấn động quốc
tế ngay tức thời và đẩy tác giả,
vốn dĩ đă là một nhà kinh tế đoạt
giải Nobel, thành một ngôi sao nhạc rock. Điều
đó đặc biệt đúng trong thế giới
đang nổi lên và đang phát triển, ở các nơi
mà hiện nay ông đề cập các đấu trường
bị bán sạch. Theo sách Discontents, toàn cầu hóa
đă trở thành một khái niệm chung dành cho
tất cả các tác hại tại các nền kinh
tế đang nổi lên và đang phát triển mà các
định chế tài chính quốc tế và thương
mại toàn cầu gây ra. Năm
ngoái, Stiglitz xuất bản phần tiếp theo, trong
đó ông đánh giá lại các lập luận trước
đây của ḿnh. Trong sách In Globalization and Its
Discontents Revisited, ông cho chúng ta hai cuốn sách với
giá của một cuốn: in lại toàn bộ bản văn
gốc, tiếp theo là những suy tưởng về
những hiểu biết ban đầu so lại theo
chiểu hướng tất cả những ǵ đă
xảy ra kể từ sau đó. Thật
là khó để mà hiểu được thế
giới đă thay đổi trong 16 năm qua như
thế nào. Nhưng nó đủ để cho chúng ta nói
rằng những kẻ bất măn-và các mối đe
dọa đang chờ đợi đối với
trật tự quốc tế-giờ đây đă
chuyển từ các nước đang phát triển sang
các nước đă phát triển. Cùng với những
người đóng góp khác cho cuộc tranh luận
về toàn cầu hóa, Stiglitz giúp cho chúng ta hiểu
tại sao mọi thứ lại khác biệt so với
dự kiến và toàn cầu hóa có thể diễn ra
theo cách như thế nào trong thập niên tới, đặc
biệt từ quan điểm của các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển. Nguyên
tác của Discontents được viết lại
theo sau hậu quả của một loạt các cuộc
khủng hoảng thị trường mới nổi
ở châu Á và những cuộc suy thoái sâu xa trong
buổi giao thời tại Liên bang Xô viết cũ. Vào
thời điểm đó, các cuộc tranh luận
về chính sách đă được tô màu bởi phong
trào chống toàn cầu hóa vào cuối những năm
1990, nó đă lên đến đỉnh điểm trong
các cuộc biểu t́nh có bạo động xung quanh
Hội nghị Bộ trưởng của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) tại
Seattle vào năm 1999. Kể
từ đó, thế giới đă bị thay đổi
triệt để bởi các cuộc tấn công do
khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, và cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu
cách đây mười năm với sự sụp đổ
của doanh nghiệp Lehman Brothers. Trong khi các thị trường
mới nổi tại châu Á đă phát triển
ngoạn mục, các nước phát triển đă
trải qua t́nh trạng tŕ trệ, bất b́nh đẳng
gia tăng và biến động chính trị và xă
hội lan rộng. Do
những chuyển biến này mà chính liên minh chống
toàn cầu hóa đă tự thay đổi. Vào cuối
của những năm thuộc thập niên 1990, trào lưu
này tập hợp được những người
lo lắng về các t́nh trạng bất b́nh đẳng
ngày càng tăng và tác động của các hiệp
định thương mại đối với
việc làm và những người đang soi sáng
về sự suy thoái môi trường. Các nhóm chống
toàn cầu hóa trong thời đại của Donald Trump
cũng tập trung vào các vấn đề như
việc làm, thương mại và bất công. Nhưng
hiện nay, Hoa Kỳ đang ở trong vị trí thua
lỗ nhiều hơn so với các nơi khác c̣n
lại của thế giới, đặc biệt là
Trung Quốc, và môi trường đă bị giáng
xuống thành một vấn đề thứ cấp. Bất
b́nh đẳng và các giới bất măn mới Trở
lại năm 2002, Stiglitz quan tâm chủ yếu đến
ảnh hưởng của toàn cầu hóa trong việc
phân phối lợi tức và tải sản ở các
nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.
Chúng ta nhận ra rằng ông là một đại
biểu đầu tiên nêu lên hai sự thay đổi
chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế học trong
hai thập niên qua. Đầu tiên, các nhà kinh tế
đă chú ư nhiều hơn đến tác động phân
phối của các chính sách kinh tế. Hiện nay, chúng
ta thừa nhận rộng răi rằng sự bất b́nh
đẳng có thể ảnh hưởng sâu đậm
đến các chính sách và cơ chế bù đắp
cho "kẻ thua cuộc" của các kết qủa
kinh tế hiếm khi là vận hành trong thực tế. Cả
sự bất b́nh đẳng về kết quả và cơ
hội là vấn đề. Nhưng bất b́nh đẳng
về cơ hội chịu nhiều thiệt hại kinh
tế trực tiếp và lan rộng hơn, bởi v́ nó
có nghĩa là vốn nhân lực quư giá đang bị lăng
phí. Điều này dẫn đến sự thay đổi
thứ hai trong kinh tế học: các nhà kinh tế đă
quan tâm tập trung nhiều hơn vào tiến tŕnh,
họ thừa nhận rằng mọi người có
thể sống với các kết quả bất công bao
lâu mà cơ chế xác định các kết quả
đó được coi là công bằng. Hiện
nay, Stiglitz thừa nhận rằng các nền kinh tế
đang phát triển đang hoạt động tốt hơn
nhiều so với ông dự kiến trong năm 2002,
với một số trường hợp ngoại
lệ, chủ yếu là ở châu Phi. HIV/AIDS được
kiểm soát, tuổi thọ dự liệu tăng lên và
sự suy giảm tầng ôzôn đă bị đảo
ngược. Các công dân của các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển đă gặt hái
những lợi ích đáng kể từ việc mở
cửa thị trường cho thương mại và
đầu tư. Stiglitz tự phê là không nhấn
mạnh đến những yếu tố tích cực
của toàn cầu hóa. Nhưng vào năm 2018, mối
quan tâm chính của ông đă chuyển từ sự chênh
lệch giữa các nền kinh tế đang phát
triển và trỗi dậy sang t́nh trạng bất b́nh
đẳng đang gia tăng ngay ở trong các nước-một
xu hướng đang làm suy yếu sự hỗ trợ
của công chúng cho các định chế quốc gia và
đa phương trên toàn thế giới. Hai
tuyệt tác có thể giúp cho chúng ta hiểu rơ hơn
về sự bất b́nh đẳng giữa các nước
và trong các nước là The Globalization of Inequality
của François Bourguignon, Cựu Kinh tế gia trưởng
của Ngân hàng Thế giới và Global Inequality
của Branko Milanovic thuộc Đại học Thành
phố New York. Mỗi tác giả đi sâu vào chi
tiết của các dữ liệu kinh tế khả
dụng để tŕnh bày hai chiều hướng
bất b́nh đẳng toàn cầu, nó có thể vừa
củng cố và giảm thiểu lẫn nhau như
thế nào. Về
phần Bourguignon, ông kể lại rằng giữa năm
1820 và 1990, t́nh trạng bất b́nh đẳng toàn
cầu (được tính theo dân số) tăng lên
đáng kể, đạt mức cao hơn t́nh trạng
bất b́nh đẳng bất kỳ trong quốc gia nào.
Nhưng kể từ năm 1990 và đặc biệt
trong thiên niên kỷ mới, bất b́nh đẳng toàn
cầu đă giảm. Kết quả thuần là tỷ
lệ dân số thế giới sống trong t́nh
trạng nghèo cùng cực đă giảm xuống c̣n 20%,
từ 70% cách đây một thế kỷ trước. Sự
suy giảm bất b́nh đẳng ở cấp độ
toàn cầu này chủ yếu là do sự hội tụ
kinh tế nhanh chóng. Quá tŕnh đó đă được
củng cố bởi những ǵ mà Milanovic gọi là
“các làn sóng Kuznets” trong các quốc gia-một hiện
tượng bất b́nh đẳng tăng cao cùng
với sự tăng trưởng theo hướng công
nghệ, nhưng sau đó cuối cùng là lên tận
đỉnh và giảm xuống (do đó ông dùng ẩn
dụ là các làn sóng). Tính
đến năm 2018, sự hội tụ vẫn đang
diễn ra mạnh mẽ, không chỉ ở Trung
Quốc, mà c̣n nhiều ở nước Đông Á. Khi
làn sóng Kuznets rút đi, sự bất b́nh đẳng
ở trong các nước này sẽ tiếp tục
giảm. Đồng thời, phân tích của Milanovic cho
rằng bất b́nh đẳng toàn cầu sẽ ngày càng
được mô tả là khoảng cách giữa các
nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
hơn là giữa thế giới đă phát triển và
đang mới nổi/đang phát triển. Đặc
biệt hơn, các nền kinh tế châu Á thành công
sẽ tiếp tục vượt xa các nền kinh
tế châu Phi. Trong
khi đó, nhà kinh tế học người Pháp Thomas
Piketty đă cho thấy sự bất b́nh đẳng
trong các nền kinh tế phát triển đă tiếp
tục tăng lên, khi 0,1-1% số hộ gia đ́nh tích
lũy nhiều tài sản hơn. Do nền công nghệ
thay thế lao động và ảnh hưởng ngày càng
tăng của doanh nghiệp lớn, tiền lương
của giới trung lưu đang bị khựng
lại. Và điều đó lần lượt đang
thúc đẩy một phản ứng chính trị
chống lại toàn cầu hóa. Giữa cuộc trưng
cầu dân ư Brexit của Vương quốc Anh và
cuộc bầu cử của Trump, "Những giới
bất măn mới", như Stiglitz gọi họ, đă
có tác động lớn đến nền chính trị
toàn cầu hơn là "Những giối bất măn cũ"
của thế giới đang phát triển. Cuộc
chạy đua vĩ đại Mặc
dù sự bất b́nh đẳng toàn cầu đă
giảm do kết quả của sự hội tụ, nhưng
từ năm 2000 một vài nước có thu nhập
trung b́nh đă đạt được thu nhập cao.
Kết quả là các nhà hoạch định chính sách
ở nhiều nền kinh tế mới nổi/đang phát
triển đă lo sợ cái bẫy được
gọi là thu nhập trung b́nh. Trên thực tế, ư tưởng
cho rằng các quốc gia có xu hướng gặp khó khăn
ở một mức thu nhập cụ thể không
được chứng minh qua các dữ liệu. Tuy nhiên,
các chính phủ ở các nước có mức thu
nhập trung b́nh hữu lư khi họ giả định
rằng việc bắt kịp thế giới phát
triển sẽ đ̣i hỏi cải cách sâu rộng
đối với các thể chế kinh tế và chính
trị. Vấn đề đặt ra là liệu
việc thành tựu một sự biến đổi như
vậy trở nên dễ dàng hay khó khăn hơn từ
khi tác phẩm Discontents xuất bản lần đầu. Có
lư do chính đáng để nghĩ rằng nhiệm
vụ bắt kịp theo các nền kinh tế phát
triển có thu nhập cao trở nên khó khăn hơn.
Hiện nay, các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển phải hội tụ nhanh hơn trong quá
khứ, do áp lực dân số và chính trị và các
giới hạn công nghệ thay đổi nhanh chóng. Hơn
nữa, các chính phủ chịu nhiều ràng buộc
về môi trường và xă hội hơn so với trước
đây. Nhiều người trong số này được
nêu ra trong Chương tŕnh Nghị sự 2030 của Liên
Hiệp Quốc, bao gồm 17 Mục tiêu Phát triển
Bền vững và 169 mục tiêu cụ thể được
đáp ứng trên con đường để đạt
được chúng. Không ai thực sự ngồi
xuống và xác định chi phí của Chương tŕnh
Nghị sự 2030 hoặc ảnh hưởng của nó
đến sự tăng trưởng. Nhưng cộng
đồng thế giới phải cùng nhau đảm
bảo rằng đầu tư cần thiết không
cản trở sự hội tụ hoặc dẫn đến
mức nợ không kham nổi ở nhiều nước
mới nổi và đang phát triển. Điều
đó nói rằng, việc bắt kịp với thế
giới đă phát triển có thể trở nên dễ
dàng hơn trong một khía cạnh quan trọng. Trong tác
phẩm The Great Convergence, Richard Baldwin thuộc
Viện Cao học Geneva, cho thấy hệ thống
sản xuất toàn cầu đă chuyển từ thương
mại hàng hóa và dịch vụ sang thương mại
về thông tin, với các tập đoàn đa quốc
gia đang cố gắng ngăn chặn ṛ rỉ tài
sản trí tuệ cho đối thủ cạnh tranh. Phân
tích của Baldwin có ư nghĩa quan trọng đối
với cả việc quản trị thương
mại toàn cầu và hoạch định chính sách trong
nước. Đối với các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi, tin vui là sự phân
mảnh của các chuỗi giá trị đă giảm
hoặc loại bỏ các rào cản truyền thống
để nhập cảng. Một quốc gia không c̣n
phải sản xuất toàn bộ một chiếc xe
để trở thành một thành phần của ngành
công nghiệp ô tô toàn cầu; họ chỉ cần
trở thành một nhà sản xuất có hiệu năng
của một mặt hàng duy nhất, chẳng hạn như
cần gạt nước cho kính chắn gió hoặc
hộp số, như vậy cũng được
gọi là đủ. Mặc
dù những nỗ lực tốt nhất của doanh
nghiệp đa quốc là để bảo vệ công
nghệ của họ và thông tin được tạo
ra ở các giai đoạn khác nhau của tiến tŕnh
sản xuất, hiệu ứng lan toả là chuyện không
thể tránh, và các nước mới nổi và đang
phát triển đang cố để hưởng
lợi thế trong hiệu ứng này là chuyện
dễ hiểu. Không một quốc gia nào thành công hơn
Trung Quốc khi khai thác những cơ hội này một
cách có hệ thống; nhưng hầu như tất
cả các nền kinh tế mới nổi đều
hội nhập các phương thức mua sắm tác
quyền trí tuệ vào các chính sách công nghiệp
của họ. Điều
thú vị là công tŕnh nghiên cứu gần đây
về bằng phát minh sáng chế của Riccardo Crescenzi,
nhà địa lư kinh tế, cho thấy rằng các công
ty đa quốc hàng đầu ngăn chặn ṛ rỉ
tác quyền trí tuệ tốt hơn nhiều hơn là
các doanh nghiệp theo đuôi họ. Đối với các
nền kinh tế đang phát triển và mới nổi,
họ có thu lợi rất nhiều được khi gây
thu hút các doanh nghiệp hạng hai này. Kể
từ năm 2002 một xu hướng rộng lớn khác
là những thay đổi về mặt địa lư
trong các mô h́nh định chế và sản xuất.
Cấu trúc tài chính toàn cầu và thương mại hàng
hóa và dịch vụ đă trở nên khu vực hóa hơn,
như vậy các nước Nam Á hiện đang giao
dịch nhiều với Trung Quốc hơn là với
Mỹ và châu Âu. Các định chế phát triển khu
vực cũng đă tăng tiến và làm thiệt
hại cho Ngân hàng Thế giới; các mạng lưới
an toàn khu vực như Sáng kiến Chiang Mai ở châu Á
và khuôn khổ hậu khủng hoảng trong khu vực
đồng Euro đă phần lớn làm mất ảnh
hưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế; và các tổ chức phát triển quốc gia như
Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Ngân hàng Phát
triển Brazil đă trở nên quan trọng hơn
nhiều ra bên ngoài nước của họ. Quản
trị toàn diện Làm
thế nào để có thể cải thiện việc
quản trị việc toàn cầu hóa của chúng ta?
Về vấn đề này, tác phẩm The Globalization
Paradox của Dani Rodrik, nhà kinh tế học Harvard, có
lẽ là một những cuốn sách đang khích
lệ cho sự tư duy nhiều nhất. Rodrik cung
cấp một khung khái niệm hữu ích để nghiên
cứu về t́nh trạng toàn cầu hóa trong hiện
tại. Trọng điểm trong của suy nghĩ
của ông là những ǵ ông gọi là "Ba t́nh
trạng khó khăn của toàn cầu hóa", trong
đó ông đưa ra một việc kết hợp
những vấn để chủ quyền quốc gia,
hội nhập thị trường và dân chủ đích
thực là một t́nh trạng không thể nắm
bắt. Các quốc gia có thể có bất kỳ hai
thứ, nhưng không bao giờ đạt được
cả ba. Một quốc gia cởi mở hơn để
hội nhập thị trường chắc chắn
phải nhượng một số mức độ
tự quyết dân chủ để tuân thủ các quy
tắc và thể chế thương mại quốc
tế, đó là chuyện khó tránh. Và các nước
muốn tham gia các cơ chế đa phương dân
chủ phải từ bỏ một số chủ
quyền Trước
thời đại toàn cầu hóa hiện nay, hầu
hết các quyết định về hoạch định
chính sách đă được suy đoán là do các cơ
chế đại biểu quốc gia, họ
chịu trách nhiệm giải tŕnh trước
đơn vị tranh cử trong nước. Nhưng
với toàn cầu hóa các cấu trúc siêu quốc gia
đă thành lập, bắt đầu với các tổ
chức Bretton Woods sau Thế chiến II. Xét về các
điều kiện theo ba thuật ngữ của Rodrik,
Bretton Woods chấp nhận sự hội nhập thị
trường, nhưng vẫn giữ vững quyết
định trong tay của các chính phủ quốc gia.
Kể từ đó, các tổ chức đa phương
đă đạt được thẩm quyền chuyên
quyết nhiều hơn, mặc dù cơ chế điều
hành không được bầu theo thể thức dân
chủ. Các cơ quan này được kiểm soát
bởi các chính phủ được bầu theo dân
chủ; nhưng trên thực tế, Hoa Kỳ đă luôn
được hưởng quyền phủ quyết, và
việc phân bổ quyền lực giữa các thành viên
khác phần lớn phản ánh vị thế tương
ứng của họ sau chiến tranh. Trong
nguyên tác Discontents, Stiglitz chỉ trích các tổ
chức đa phương như Ngân hàng Thế
giới và IMF v́ những ǵ ông thấy là vai tṛ
của họ trong việc làm suy yếu các nền kinh
tế mới nổi và phát triển thông qua các chương
tŕnh “điều chỉnh cơ cấu”. Nhưng phê
b́nh của ông không phải là một điểm chung
chống lại khái niệm về chủ thuyết
đa phương, như ngày nay người ta nghe
rất thường xuyên. Trong thực tế, Stiglitz
vẫn bày tỏ hy vọng lớn trong các tổ
chức này. Ngay
sau khi cuốn sách của Stiglitz xuất bản, Kemal
Derviş, Cựu Bộ trưởng Kinh tế Thổ Nhĩ
Kỳ và Chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, đă
xuất bản sách Better Globalization, cung cấp
một phân tích sâu rộng và nhiều thông tin phản
ánh kinh nghiệm chuyên môn đa dạng của tác
giả. Trong số các đề xuất khác, Derviş kêu
gọi thành lập Hội đồng An sinh Xă hội và
Kinh tế của LHQ, và tŕnh bày cách sắp xếp
bỏ phiếu trong nội bộ có thể được
cải thiện để đạt được tính
chính danh hơn đối với các tổ chức
đa phương. Chuyện
không may là kể từ đó, trong chương tŕnh
nghị sự về quản trị toàn cầu không có
nhiều tiến bộ. Quyền bầu cử đă
được điều chỉnh phần nào tại
Ngân hàng Thế giới, nhưng Hoa Kỳ vẫn có
quyền phủ quyết tất cả các quyết định,
cũng như đặc quyền bổ nhiệm vị
Chủ tịch cứ 5 năm một lần. Trong khi
đó, cải cách quản trị tại IMF thậm chí
c̣n chậm hơn, thúc đẩy các nền kinh tế
mới nổi thành lập các tổ chức của riêng
họ, chẳng hạn như Asian Infrastructure Investment
Bank (AIIB) và New Develpoment Bank Theo
cách dè dặt của riêng của ḿnh, AIIB hiện đang
tạo ra các làn sóng trong lĩnh vực quản trị
đa phương. Các thành phần có liên quan, trong
đó phần chính là có Trung Quốc, đă quyết
định băi bỏ hội đồng quản trị
thường trú, trao thêm quyền quyết định
về quản lư cho ngân hàng đồng thời thúc
đẩy nhiều liên hệ trực tiếp hơn
với chính phủ có phần liên quan. Thông qua AIIB,
thế giới mới nổi đă chứng minh
rằng nó hoàn toàn có khả năng tung ra các tổ
chức đa phương hiện đại của riêng
ḿnh. Thay
đổi sự quân b́nh Tuy
nhiên, cần nhiều nỗ lực hơn để tăng
cường ảnh hưởng của các nền kinh
tế đang nổi lên và đang phát triển đối
với các vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp đến các nước này. Một vấn
đề quan trọng là ḍng vốn, thường
xuất phát từ thế giới phát triển và gây tàn
phá ở các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển. Các nhà đầu tư t́m kiếm doanh
thu cao hơn rót vào các nền kinh tế đang nổi
lên và đang phát triển, làm tăng giá tài sản,
chỉ tháo chạy ồ ạt, dẫn đến
sự sụp đổ các thị trường. Nhiều
quốc gia đă phát triển các công cụ để
quản lư các luồng vốn chảy này, bị
những lời chỉ trích từ OECD (đại
diện cho hầu hết các nước giàu) và IMF.
Để chắc chắn, IMF đă làm dịu thái
độ của ḿnh đối với việc kiểm
soát vốn theo thời gian. Nhưng như Raghuram Rajan,
cựu Thống đốc Ngân hàng Ấn Độ,
đă lập luận, các thủ tục mới là
cần thiết để đảm bảo rằng
phải quan tâm xem xét đến các chính phủ
của các nền kinh tế đang trỗi dậy và
đang phát triển. Các
sắp xếp mới thuộc về định chế
cũng có thể cần thiết để giải
quyết sự bất b́nh đẳng. Milanovic chỉ ra
rằng hiện tại không có tổ chức quốc
tế nào tập trung vào vấn đề này. Ngân hàng
Thế giới có nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo
và tạo ra sự thịnh vượng ở các nước
có thu nhập thấp và trung b́nh, nhưng sự ủy
nhiệm này đó không minh thị bao gồm để
giải quyết t́nh trạng bất b́nh đẳng.
Trong suốt thời đại toàn cầu hóa, tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo là những
ưu tiên phát triển hàng đầu. Nhưng những
biến cố gần đây ở các nền kinh tế
phát triển đă đưa ra sự cấp bách
mới cho vấn đề bất b́nh đẳng trong
các nước, như vậy hiện nay, "tăng trưởng
toàn diện" là một khẩu hiệu hàng
đầu trong các các chu kỳ phát triển. Một
thay đổi lớn về thể chế đă
xảy ra là việc mở rộng vai tṛ của G20 sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong
cuộc chạy đua để đối ứng toàn
bộ cho cuộc khủng hoảng, các chương tŕnh
nghị sự phát triển kinh tế đă
được tái ủy nhiệm cho một cơ
chể mà nó trước đây không hoạt động,
phản ánh các phong trào kiến tạo theo tuần
tuần trong sức mạnh tương đối
của một số nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển Trong
thập niên vừa qua, khả năng của tổ
chức G-20 trong việc mở rộng quản lư cho các
công việc được ủy thác đă trở thành
chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.
Nhiệm vụ chính đối với G-20 chắc
chắn dảnh nhiều ưu tiên trong chương tŕnh
cho các nền kinh tế đang nổi lên và đang phát
triển. Nhưng những ảnh hưởng của
những nước này đối với việc ra các
quyết định đă bị giới hạn bởi
khả năng cung cấp nhân sự đóng góp là
bằng chứng. Trong khi các nước tiên tiến
đến dự các cuộc họp G-20 với đoàn
tùy tùng có hàng trăm người, các nước
mới nổi thường đến với với
một số ít chuyên viên. Việc cấp cho các nước
này một vai tṛ lớn hơn trong các quyết định
ảnh hưởng đến họ sẽ thúc đẩy
sự quan tâm mạnh mẽ hơn trong việc xây
dựng năng lực nhân sự này. Mặc
dù tất cả các canh tân về thể chế từ
năm 2002, các cuộc tấn công của chính quyền
Trump về trật tự quốc tế mà Mỹ
từng làm rất nhiều để hỗ trợ có
nghĩa là các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển phải lo lắng về tính bền
vững của hệ thống đa phương. Trong
khi hầu hết các nước đều yêu
chuộng hơn một hệ thống quản trị toàn
cầu dựa trên luật pháp, bản chất của các
luật lệ này và cách soạn thảo rơ ràng là
vấn đề. Không giống như trong thời
kỳ hậu chiến, Hoa Kỳ không c̣n có thể
đơn phương thiết lập các quy tắc và
Hoa Kỳ có thể lựa chọn một thế
giới mà quyền lực thô bạo là quan trọng. Đường
lối tận cùng Cuối
cùng, có ít ai nghi ngờ rằng hiện nay các nền
kinh tế đang phát triển và đang nổi tốt
hơn so với khi Stiglitz đă viết nguyên tác Discontents.
Tuy nhiên, trong khi toàn cầu hóa đă góp phần làm
giảm sự bất b́nh đẳng về kết
quả ở cấp độ toàn cầu, giới b́nh
luận vẫn đang không chắc chằn rẳng
liệu các nước đang trỗi dậy và đang
phát triển có bắt kịp được các
nền kinh tế phát triển không. Vai tṛ của toàn
cầu hoá trong sự gia tăng t́nh trạng bất b́nh
đẳng của cả hai việc các kết quả và
các cơ hội trong các nền kinh tế phát triển
đang c̣n gây tranh cải, nhưng hiện nay những
khoảng cách ngày càng mở rộng đang làm suy
yếu niềm tin trong các các định chế
quốc gia và quốc tế-và cuối cùng cho chính toàn
cầu hóa. Điều
rơ ràng là sự tin tưởng vào khả năng
của cộng đồng quốc tế về khả
năng đạt được các thỏa thuận
đa phương toàn diện đang giảm sút. Vào
thời kỳ mà Bretton Woods hoặc Hiệp định
Plaza, khi các nhà lănh đạo thế giới có thể
ngồi xuống và t́m ra các giải pháp chung cho các
vấn đề chung, có vẻ đi qua xa. Trong tác
phẩm Grave New World tạo nhiều thư giản,
Stephen D. King, một cố vấn kinh tế cấp cao
của HSBC, chỉ ra một số lĩnh vực mà
vẫn có thể c̣n hợp tác, nhưng nh́n chung,
kết luận của ông là bi quan. Tuy
nhiên, c̣n có những điểm sáng. Ví dụ như
Hiệp định về Khí hậu tại Paris là
một thành tích đáng chú ư và sáng tạo của hành
động tập thể. Thay v́ cố gắng áp đặt
các giới hạn số lượng khí thải theo
luật, hiệp định thực thi các mục tiêu
cho quốc gia được thông qua việc giám sát
song hành và áp lực nặng nề do xă hội dân
sự và cộng đồng quốc tế. Đây là
một phương sách đầy hứa hẹn để
huy động hành động cho toàn cầu. Tuy nhiên,
đ iều này nói rằng liệu cùng một mô h́nh
sẽ áp dụng cho các khu vực khác được không
là chuyện vẫn c̣n trông đợi Việc
tăng cường G20 như một cơ chế
quản trị toàn cầu đă cho các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển có vai tṛ
lớn hơn trong việc t́m ra các quyết định
cho toàn cầu. Nhưng những cải cách đối
với tiến tŕnh tạo lập quyết định
đă không theo kịp với tốc độ tăng
trưởng kinh tế đang phát triển của
nền kinh tế mới nổi. Trong một trật
tự toàn cầu ngày càng phân hoá, các nước như
Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng hơn bao
giờ hết, đặc biệt là ở trong các khu
vực của riêng họ. Nhưng trong phạm vi các
tổ chức thực sự toàn cầu, tiến tŕnh
tiếp nhận các quyền lực mới đă
chậm hơn. Một
dấu hiệu đầy hy vọng là vào năm ngoái
trong nhiệm kỳ chủ tŕ G20 của Đức,
một nhóm nhân sĩ nổi danh của Quản trị
Tài chính Toàn cầu thuộc G20 được bổ
nhiệm để kiểm tra các tổ chức tài chính
quốc tế như là một hệ thống. Các
nền kinh tế tiên tiến và mới nổi có
số lượng thành viên ngang nhau và vị chủ
tịch là Tharman Shanmugaratnam, Phó Thủ tướng
Singapore, đến từ thế giới mới nổi.
Nhóm này sẽ phúc tŕnh trong cuộc họp thường
niên của IMF /Ngân hàng Thế giới vào tháng 10. Nh́n
về tương lai, điều rơ ràng là các cải cách
cấu trúc quản trị toàn cầu phải được
kết hợp với những nỗ lực để
thúc đẩy khả năng của các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển trong
việc định h́nh cho tương lai của chính
họ. Chính phủ các nước này hữu lư khi lo
rằng hành động đơn phương các siêu cường
hướng tới việc phá hủy hệ thống
đa phương khi họ dựa vào toàn cầu hóa.
Nếu thế giới đang hướng tới
một thực tế mới dựa trên quyền
lực cứng rắn, các nước mới nổi và
đang phát triển sẽ là phe thua cuộc nặng
nề. Hiện nay, họ quan tâm cấp thiết
việc xây dựng một chủ thuyết đa phương
đa cực hơn và đoàn kết hơn-và để
làm như vậy họ cần sức mạnh. *** Erik
Berglöf, Cựu Kinh tế gia trưởng Ngân hàng Tái
thiết và Phát triển Châu Âu, Giáo sư Kinh tế và
Giám đốc tại Học viện Các Vấn đề
Toàn cầu, Trường Kinh tế và Khoa học Chính
trị Luân Đôn. Nguyên tác: The Evolution of
Globalization Sách tham khảo Richard Baldwin, The
Great Convergence: Information Technology and the New Globalization,
Harvard University Press, 2016 François Bourguignon, The Globalization of Inequality,
Princeton University Press, 2015 Kemal Derviş and Ceren Özer, A
Better Globalization: Legitimacy, Governance, and Reform,
Center for Global Development, 2005 Stephen D. King, Grave
New World: The End of Globalization, The Return of History,
Yale University Press, 2017 Branko Milanovic, Global
Inequality: A New Approach for the Age of Globalization,
Harvard University Press, 2016 Dani Rodrik, The
Globalization Paradox: Democracy and the Future of the World Economy,
W. W. Norton & Company, 2011 Joseph E. Stiglitz, Globalization and its Discontents,
W. W. Norton & Company, 2002 Joseph E. Stiglitz, Globalization and its Discontents Revisited: Anti-Globalization in the Era of Trump, W.W. Norton & Company, 2017 |