THẾ KỶ TRUNG QUỐC SẼ CHẤM DỨT NHANH HƠN LÚC NÓ BẮT ĐẦU?
RICHARD JAVADHEYDARIAN |
‘…Nh́n
chung, cả các nước Đông Nam Á có thu nhập
trung b́nh và thấp đều đang đều
đặn t́m kiếm, dù trên cơ sở song phương
hay đa phương (thông qua cơ chế ASEAN), đa
dạng hóa quan hệ chiến lược với các cường
quốc Ấn Độ-Thái B́nh Dương, từ
Ấn Độ và Nga đến Nhật Bản, Trung
Quốc và Hoa Kỳ, cũng như các nguồn đầu
tư và viện trợ…’
Tân
lãnh đạo tối cao của Trung Quốc Tập
Cận Bình đã loại bỏ hoàn
toàn chính sách ngoại giao ẩn mình
của những người tiền nhiệm
và dốc toàn lực vào việc thống
trị thế giới. Khi suy
nghĩ về tương lai trật tự
toàn cầu, cố thủ tướng Singapore
Lý Quang Diệu đã cảnh
báo rằng,
sự trỗi dậy của Trung Quốc có hậu
quả lớn đến mức nó không
chỉ khiến các nước láng giềng
phải điều chỉnh sách lược,
mà còn đến cả việc cải tổ
kiến trúc an ninh toàn cầu. Vị cựu
lãnh đạo châu Á đã nói thẳng
là, mặc dù “ban
đầu người Trung Quốc muốn
cùng vai vế với Hoa Kỳ chia sẻ thế
kỷ này”, cuối cùng họ “có
ý định trở thành cường quốc
mạnh nhất thế giới”. Chẳng
bao lâu, sau khi nhà lãnh đạo Singapore qua
đời, dự đoán sáng suốt
của ông tập hợp thành thực tế
địa chính trị rõ rệt. Hiện nay,
Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu lớn
nhất thế giới, là nước tiêu
thụ hàng hóa cơ bản nhiều nhất
và ngày càng là nguồn đầu tư
hàng đầu, đặc biệt trong cơ sở
hạ tầng chiến lược, chính ở
châu Á và các nước đang phát
triển. Đồng thời, sức mạnh
kinh tế đã chuyển thành quyết đoán
chiến lược và sức mạnh quân sự,
khi Trung Quốc thành
lập các căn cứ ở nước
ngoài, khởi
đầu ở Djibuti, nhưng kín đáo hơn
ở Ấn Độ Dương, mở rộng
lực lượng hải quân và cưỡng
chế biến các vùng biển lân cận
thành “vùng đất xanh lam quốc gia”
của mình. Trên hết,
tân lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, Tập
Cận Bình, đã loại bỏ hoàn
toàn chính sách ngoại giao ẩn mình
của những người tiền nhiệm
và dốc toàn lực vào việc thống
trị thế giới. Ông ta còn bước
xa hơn khi đẩy
mạnh một
“mô hình Trung Quốc độc đáo” ở
nước ngoài, và dần dần thiết
lập một “trật tự châu Á cho người
châu Á” xuyên
khắp lục địa Á-Âu để
loại trừ các cường quốc phương
Tây và Nhật Bản. Mặc dù ngoài mặt
được trình bày như một
sáng kiến kết nối cả tỷ đô la,
sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI), trên hết, có mục đích đặt
nền tảng cho một “trật
tự thế giới của Trung Quốc”. Tuy chưa
phải là bá quyền, người Trung Quốc gần
như đã cai trị biển cả trước
khi chủ nghĩa đế quốc châu Âu ra
đời. Những cuộc hành trình vượt
hai đại dương của Trịnh Hòa, một
đô đốc Hồi giáo từ thời
nhà Minh, người phải dựa rất
nhiều vào chuyên môn của các thủy thủ
đồng đạo, đã nhấn mạnh đến
sự không thể tách rời vốn
có và sự lệ thuộc lẫn nhau trong
mạng lưới văn hóa và thương
mại dày dặc trên khắp Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương. Nhưng thế
kỷ này có thuộc về Trung Quốc không?
Có 3 lý do để hoài nghi. Khả
năng đối kháng của tính ưu việt
Mỹ Cái mốt
đang thịnh hành hiện nay là nói về
“thế kỷ của Trung Quốc”. Tuy nhiên, nỗ
lực về tính ưu việt chiến lược
của Trung Quốc diễn ra trong giai đoạn
Mỹ tái lập chiến lược,
đặc biệt khi chính quyền Donald Trump
đã tự kiềm chế rất ít trong
việc thách thức Trung Quốc. Các quan
điểm thông thường về chính quyền
Trump mô tả hình ảnh cuộc triệt thoái
chiến lược của Mỹ, cụ thể
là chuyện tổng thống Mỹ không
được ưa chuộng trong khu vực
cũng như việc ông quyết định hủy
bỏ thỏa thuận TPP. Tuy vậy, một phân
tích tinh tế hơn cho thấy hình ảnh phức
tạp hơn nhiều. Một mặt,
Washington tăng cường Tự do Hoạt
động Hàng hải (Freedom of Navigation Operations –
FONOPS) và điều máy bay ném bom hạt nhân
tuần tra Biển Đông, công khai thách thức
các yêu sách lãnh thổ quá đáng
của Trung Quốc trong không gian hàng hải tranh chấp.
Chính quyền Trump đã cho Ngũ Giác Đài
được rộng quyền hơn để
kiểm tra tính quyết đoán hàng hải
của Trung Quốc, bao gồm cả các quyết
định liên quan đến Tự do Hoạt
động Hàng hải (FONOPS). Ngay cả lực
lượng hải cảnh Hoa Kỳ cũng tham gia,
gây thêm áp lực lên chủ nghĩa bành trướng
trên biển của Trung Quốc. Washington
cũng tăng
gấp đôi chi
phí quân sự ở nước ngoài
dành cho các đồng minh chủ chốt trong
khu vực, gồm cả Philippines, công khai kêu
gọi Trung Quốc tháo gỡ các cơ sở
quân sự tân tiến ở Biển Đông,
và thậm chí còn coi các
lực lượng bán quân sự của
Trung Quốc đang
hoạt động trong khu vực là sự
mở rộng trên thực tế của
hải quân PLA. Chính quyền Trump còn đưa
ra quyết
định chưa từng có khi
công khai đề nghị rằng, họ sẽ
đến cứu giúp Philippines trong trường
hợp xảy ra xung đột với Trung Quốc
ở Biển Đông. Với
sự hỗ trợ của Quốc hội Hoa
Kỳ, chính quyền Trump cũng đã mở
rộng quan hệ chiến lược
với khu vực thông qua Luật Sáng kiến
Tái bảo đảm châu Á (Asia Reassurance Initiativ
Act – ARIA) trị giá hàng tỷ đô la, nhằm
tăng cường phòng thủ và dấu ấn
quân sự và ngoại giao ở khu vực
Ấn Độ-Thái Bình Dương, cũng
như 60
tỷ đô la trong
sáng kiến Vận dụng Thúc đẩy
Đầu tư Phát triển Tốt hơn (Better
Utilization of Investments Leading to Development – BUILD), dùng
để huy động các khoản đầu tư
chất lượng cao của Mỹ trên các
thị trường chiến lược trong khu
vực, đặc biệt là ở Đông
Nam Á. Trên mặt
trận thương mại, Hoa Kỳ đã công
khai tìm kiếm những
thay đổi cơ bản trong chính sách thương
mại và công nghiệp của Trung Quốc, đặt
nghi vấn về khả năng tồn tại của
Sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI), và áp lực các đồng minh
và đối tác tránh
xa các
khoản đầu tư công nghệ cao đầy
rủi ro của Trung Quốc, đặc biệt
trong các lĩnh vực chiến lược.
Trong khi khoảng cách tương đối về
kinh tế và quân sự giữa Hoa Kỳ
và Bắc Kinh thu
hẹp đáng kể
trong thập niên qua, Trung Quốc vẫn
thua xa Hoa
Kỳ về các nguồn
tài nguyên ròng có
thể huy động được trong giai đoạn
xung đột, bao gồm sức mạnh mềm, công
nghệ, nhân lực, phần cứng quân sự,
tài nguyên kinh tế, tài năng và khoáng
sản quý. Sức
mạnh tập thể của liên minh Các
học giả như Michael Beckley đã lưu
ý, “sức mạnh của một quốc
gia không xuất phát từ nguồn tài nguyên
gộp nhưng từ nguồn tài nguyên
ròng – nguồn tài nguyên còn lại sau khi trừ
chi phí sản xuất chúng”. Trung Quốc
cũng phải đối mặt với những
thách thức lớn về cấu trúc nội
tại, bao
gồm sự mất cân bằng trong nhân khẩu
học, bất ổn xã hội và khủng
hoảng môi trường gia tăng và mất cân
bằng trong lĩnh vực bất động
sản và ngân hàng. Tuy nhiên, sự
tê liệt chính trị trong nước Mỹ
cũng gây lo ngại không kém. Nhưng các cuộc khảo
sát mới nhất cho
thấy hầu hết người dân trên thế
giới vẫn thích Hoa Kỳ lãnh đạo
toàn cầu hơn Trung Quốc. Nhưng điều
thực sự làm tăng lợi thế
của Mỹ trước Trung Quốc là mạng
lưới liên minh rộng lớn và bền
bỉ đáng ngạc nhiên trong
khu vực, đặc biệt là với
Nhật Bản, Úc, hai cường quốc
hạng trung, và Ấn Độ ngày càng
chia sẻ chung
mối quan tâm, mặc dù không hoàn toàn
giống,
về việc Trung Quốc gia tăng quyết đoán. Trên thực
tế, các cường quốc khác trong khu
vực, điển hình là Nhật Bản
và Úc, đã cam kết với một
Ấn Độ Thái Bình Dương “tự
do và cởi mở”, ủng hộ cuộc
đẩy lùi Trung Quốc do Hoa Kỳ lãnh
đạo. Trong nỗ lực này, người
ta nên hiểu những
nỗ lực thành công của Nhật, cùng
với Úc, trong việc hồi sinh thỏa thuận
TPP mà Trump đã hủy bỏ qua loa cho xong chuyện. Trên thực
tế, Nhật Bản (240 tỷ USD) tiếp tục
đánh bại Trung Quốc (210 tỷ USD) về phẩm
chất và quy mô phát triển cơ sở
hạ tầng ở Đông Nam Á và khu vực
rộng lớn hơn. Úc và Hiệp hội
các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng
đã ký một
thỏa thuận đầu tư, với mục
đích “phát triển một đường
ống trong các dự án phát triển
hạ tầng, để thu hút tư nhân và
chính phủ đầu tư”. Ấn
Độ đang
riêng biệt mở rộng trợ
giúp phát triển và hợp tác chiến
lược với các quốc gia ASEAN. Thay
vì dựa vào chỉ thị và sáng kiến
của Mỹ, mỗi cường quốc hạng
trung này, hoặc cùng nhau hay một mình,
tham gia cùng với các quốc gia ASEAN,
góp phần xây dựng một trật tự
dựa trên các quy tắc ở Ấn
Độ-Thái Bình Dương. Ngược
lại, Trung Quốc hầu như không có một
đồng minh đáng tin cậy nào để
quảng bá tầm nhìn và giá trị
của mình trong khu vực. Trên thực tế,
cả Bắc Hàn và Pakistan, vốn
được xem là đối tác chiến
lược thân cận nhất của Bắc
Kinh, đã tìm cách đa dạng hóa quan hệ
ngoại giao trong những năm gần đây. Chiến
lược khôn khéo của các nước
nhỏ Trong khi
Bình Nhưỡng đã tìm cách đàm
phán trực tiếp với
Washington, phần lớn là để loại
bỏ các biện pháp trừng phạt đối
với nền kinh tế đang chật vật
của mình, thì đến lượt
Islamabad quay sang Ả Rập Saudi, chưa kể đến
việc họ liên tục dựa vào sự
tài trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) để giảm lệ thuộc quá mức
vào món nợ đang phình to lên do [đã
tham gia] Sáng kiến Vành đai và Con
đường. Trung Quốc đơn giản
là không có đồng minh có khả năng
và đáng tin cậy. Hơn nữa,
chúng ta nên nhìn vào những cố gắng
bền bỉ của các quốc gia Đông Nam
Á nhằm đa dạng hóa các đối
tác chiến lược và nguồn đầu
tư nước ngoài của họ. Mặc
dù được biết từng có những
căng thẳng lịch sử với phương
Tây, các nhà lãnh đạo của Malaysia (Mahathir) và
Philippines (Duterte),
không kể đến giới lãnh đạo cộng
sản Việt Nam, đã hoan nghênh sự hợp
tác chiến lược và đầu tư
chặt chẽ hơn từ Hoa Kỳ, và quan
trọng nhất là Nhật Bản. Ngay cả
các quốc gia Đông Nam Á nghèo hơn như
Myanmar, Campuchia và Lào cũng đã chủ
động tìm kiếm các
khoản đầu tư phát triển và cơ
sở hạ tầng của Nhật Bản để
giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Các quốc
gia Đông Nam Á, cả nhỏ lẫn lớn hơn,
đã ganh nhau bảo vệ quyền
tự trị chiến lược hậu thuộc
địa của
họ – trò chơi khiến các cường
quốc lớn chống đối nhau – trong khi
tìm cách tránh phải dựa
quá nhiều vào một thế
lực nước ngoài duy nhất. Nh́n chung,
cả các nước Đông Nam Á có thu nhập trung b́nh
và thấp đều đang đều đặn
t́m kiếm, dù trên cơ sở song phương hay đa
phương (thông qua cơ chế ASEAN), đa dạng hóa
quan hệ chiến lược với các cường
quốc Ấn Độ-Thái B́nh Dương, từ
Ấn Độ và Nga đến Nhật Bản, Trung
Quốc và Hoa Kỳ , cũng như các nguồn đầu
tư và viện trợ. Điều
này cho thấy các quốc gia Đông Nam Á không phải
là con tốt trên bàn cờ địa chính trị.
Thay vào đó, họ là những người chơi tích
cực với các diễn viên đáng nể trong
việc định h́nh vận mệnh chiến lược
của riêng họ. Kết quả của bối
cảnh chiến lược rất năng động và
gây tranh căi này là sự xuất hiện của
nhiều trung tâm quyền lực và mức độ
tự do chiến lược khác nhau dành cho mỗi
quốc gia, do đó không một cường quốc nào
có thể một mình định h́nh đầy
đủ chương tŕnh nghị sự về an ninh,
kinh tế và ngoại giao khu vực. Các
cuộc điều tra có thẩm quyền ở khắp các quốc gia Đông Nam Á
cho thấy, bảy trong số mười người
được hỏi có quan điểm tiêu cực
về Sáng kiến Vành đai và Con
đường (BRI) của Trung Quốc, trong khi chưa
đến một nửa tỏ ra tin tưởng vào
khả năng của Trung Quốc trong vai tṛ lănh đạo
có tính xây dựng trong khu vực. Quốc gia đáng
tin cậy nhất trong mắt các quốc gia Đông Nam
Á vẫn là Nhật Bản. Trung Quốc chắc
chắn là diễn viên lớn trong khu vực, nhưng
khác xa với cái quyền bá chủ phải có
được của nó. Richard
Javad Heydarian - National Interest Nguồn: https://nationalinterest.org/feature/will-chinese-century-end-quicker-it-began-102827 Hoàng
Thủy Ngữ dịch
|