TT
CARTER VÀ THUYỀN NHÂN VŨ LINH |
Tuần
rồi, tin lớn với nước Mỹ và dân
tị nạn Việt là tin cựu TT Jimmy Carter qua đời,
đại thọ đúng 100 tuổi. Ngay khi tin TT Carter
qua đời, nhiều emails đă được tung ra
trong cộng đồng tị nạn than khóc ông, vài
hội đoàn đă ra thông cáo khóc ông như là
một đại vĩ nhân, một đại ân nhân
cho các thuyền nhân Việt v́ ông là người đă
giang tay ra cứu cả vạn thuyền nhân vào : Mỹ
tị nạn. Theo một vài người hiểu
biết nhiều về vấn đề tị nạn,
nếu không có TT Carter th́ có thể cả mấy trăm
ngàn người đă chết trên Biển Đông. Tiếc thương rồi ca
tụng lên chín chục tầng mây người quá
cố là chuyện b́nh thường ai cũng làm. Dù
vậy, ta cũng cần b́nh tâm nh́n lại lịch
sử để có một nhận định chính xác
và công tâm. DĐTC tạm gián đoạn
loạt bài về các đại vấn nạn của
Mỹ mà TT Trump sẽ phải đối phó [mở
đầu bằng bài bàn về vấn nạn phân hóa
trong chính trị Mỹ, và bài kế tiếp tuần
rồi bàn về vấn nạn kinh tế Mỹ], để
bàn về cựu TT Carter và vai tṛ của ông trong đại
nạn thuyền nhân của VN ta. Lịch
sử cho ta thấy ǵ? Về TT Carter
Ông Jimmy Carter đắc cử TT Mỹ
cuối năm 1976. Kẻ này c̣n nhớ h́nh ảnh
một anh Mỹ mặc quần jean, áo sơ mi ca-rô
đen đỏ, đứng trước cửa một
xưởng ǵ đó, đợi nhân viên ra về, phát
cho mỗi người một tờ truyền đơn,
bắt tay, miệng toe toét cười khoe hàm răng
hô, với câu "Hi, I'm Jimmy Carter and I'm running for
president". Thật t́nh mà nói, kẻ này khi đó
mới qua Mỹ được trên dưới một
năm, chẳng biết ǵ về xứ Mỹ, mới
sắm được một cái tivi nhỏ đen
trắng, nghe tin tức tiếng Mỹ 10 câu hiểu
được một, nên không thể hiểu tại
sao một người ra tranh cử tổng thống
lại có thể 'tầm thường', nhà quê và vô duyên
như vậy được. Kẻ này khi đó mường
tượng một ông Thiệu mặc đồ bà-ba
đen, đứng trước cửa nhà máy xi măng,
bắt tay các anh nhân công, nhoẻn miệng cười
"Chào anh, tôi là Nguyễn Văn Thiệu, tranh
cử tổng thống đây"!!! Chẳng có tư
cách tổng thống ǵ ráo. Trong đầu đinh ninh anh Carter này
đúng là vô vọng, làm chuyện ruồi bu. Thế nhưng
kẻ này đă mau mắn được xác định
là một tên mù tịt, ngu dốt, chẳng hiểu ǵ
về dân Mỹ, nước Mỹ và thể chế dân
chủ ma-dzê in U-Ét-Ê: anh chàng nhà quê này đắc
cử, hạ đương kim TT Gerald Ford dễ dàng,
nghiễm nhiên vào Ṭa Bạch Ốc, mang theo một lô
thanh niên thật trẻ, có vẻ tài ba, nhưng tất
cả đều là những thanh niên... nhà quê từ
tiểu bang nhà quê Georgia, bỡ ngỡ trực diện
với kinh tế trong tầm mức quốc gia cũng
như an ninh quốc gia đối chọi với
những tay ma đầu quốc tế và đại
nạn Hồi giáo quá khích mới ra đời tại
Iran. Bản đồ bầu cử khi
đó khác rất xa bản đồ thắng cử
của ông Trump bây giờ. Khi đó, ông Carter của
đảng DC đại thắng tại tất cả các
tiểu bang miền nam, kể cả Texas và Florida, nhưng
thua tại tất cả các tiểu bang miền tây,
kể cả Cali, Oregon và Washington State khi đó là thành
đồng của đảng CH! Bây giờ, thời
Trump nửa thế kỷ sau, cả miền Nam nhất là
Texas và Florida đă trở thành những thành đồng
kiên cố nhất của đảng CH trong khi bờ
biển miền tây đă trở thành vùng đất
của khuynh hướng cấp tiến cực đoan
nhất. Xanh: Dân
Chủ - Đỏ: Cộng Ḥa Trong những năm sau khi đắc
cử, TT Carter đă cho dân Mỹ thấy h́nh ảnh
một tổng thống rất thân thiện, hiền lành,
có vẻ chân thật đến độ hơi ngây thơ,
chất phát. TT Carter đóng lại vở tuồng
sở trường của TT Roosevelt, cho tivi quay cảnh
ông mặc áo len mỏng, buổi tối ngồi bên
cạnh ḷ sưởi nói chuyện tâm sự về
thời sự chính trị thật thân mật với dân,
một cách rất nhỏ nhẹ, thật thà và b́nh dân.
Một h́nh ảnh khác rất xa cảnh một tổng
thống mặt hầm hầm, luôn ngồi trước
bàn giấy đọc diễn văn rắc rối, dao
to búa lớn như TT Nixon, trước đó đă
phải từ chức v́ lem nhem nhiều chuyện mánh
mung, gian trá trong x́-căng-đan Watergate. Dân Mỹ ban đầu mê TT Carter hơn
điếu đổ, như một phản ứng ngược,
chống lại thứ chính trị gia chuyên nghiệp ma
mănh kiểu Nixon. Nhưng 'tuần trăng mật'
với TT Carter kéo dài không lâu khi chỉ vài tháng sau khi
nắm quyền, kinh tế Mỹ đă bắt đầu
có triệu chứng đại nạn. Công bằng mà nói, TT Carter thừa
hưởng một gia tài không mấy hấp dẫn.
Về chính trị, dân Mỹ bị khủng hoảng
tinh thần, sau khi vừa trải qua hai đại
nạn lớn nhất lịch sử: sự từ
chức của TT Nixon ngay sau khi đại thắng, tái
đắc cử TT với tỷ lệ phiếu cao
nhất lịch sử chính trị Mỹ, và sự
thảm bại, tháo chạy khỏi Nam VN dưới
thời đương kim TT Ford. Nước Mỹ cũng
bị khủng hoảng nặng khi kinh tế đi vào
đại nạn gọi là 'stagflation', tức là
vừa lạm phát cao, vừa tŕ trệ kinh tế qua
thất nghiệp cao, hăng xưởng phá sản hàng
loạt,... với tỷ lệ thất nghiệp bắt
đầu leo thang. Trước những đại
nạn trên, TT Carter đă chứng minh rơ ràng ông hoàn toàn
bất lực, không có khả năng đối phó. Nhưng
tệ hơn cả, cũng không khác mấy trường
hợp cụ Biden sau này, năm đầu tiên của
TT Carter được đánh dấu bởi hàng
loạt biện pháp phải nói là mang tính cấp
tiến, thậm chí thiên tả nặng. Việc đầu tiên TT Carter làm
sau khi nhậm chức là ban hành lệnh ân xá tập
thể và toàn diện cho cả vạn thanh niên Mỹ
trốn lính, chạy qua Canada hay Anh để
khỏi đi VN -trong đó có anh Bill Clinton chạy
qua Anh. Rồi TT Carter bán kênh đào Panama cho Panama
với giá đúng một đô ($1); kư hiệp ước
giảm vũ khí nguyên tử với Tổng Bí Thư
Brezhnev của Liên Xô, giúp Nga đang kẹt ngân sách
lớn, khỏi phải chạy đua vơ trang vũ khí
nguyên tử với Mỹ; chấp nhận đóng
cửa Nhà Nước lần đầu tiên trong
lịch sử Mỹ v́ không chấp nhận đề
nghị cắt giảm chi tiêu Nhà Nước của
khối CH trong hạ viện; và lần đầu tiên,
công nhận 'nhân quyền' của khối đồng tính
và chuyển giới, mời đại diện của
họ vào Ṭa Bạch Ốc góp ư về các chính sách
của chính quyền. Hai năm đầu của TT Carter
(1977-1978) là hai năm đấu vơ không ngừng với
đủ loại khủng hoảng chính trị, kinh
tế, năng lượng, trong lúc ông ban hành những
biện pháp cải tổ thiên tả nặng. Nhưng
hai năm sau đó (1979-1980) đă là hai năm đại
họa lớn hơn nữa khi những khủng
hoảng của hai năm đầu chẳng những không
được giải quyết mà lại trở thành
trầm trọng hơn nhiều. Lạm phát từ 5,6% năm 1976 khi
TT Carter nhậm chức, leo lên tới 13,5% năm 1980. V́
lạm phát quá cao nên Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang tăng
lăi suất ào ạt để cản. Lăi suất trung
b́nh nợ mua nhà chẳng hạn: tăng từ 8,85% năm
1977 khi TT Carter mới nhậm chức, lên tới 16,64% năm
1981 khi ông mất job. Giá xăng trong bốn năm Carter
tăng hơn gấp đôi, từ 60 cents một ga-lông
năm 1977 lên tới 1,3 đô năm 1980, gây khó khăn
khổng lồ cho dân nghèo, trong đó có đám dân
Việt tị nạn mới qua Mỹ, hầu hết
đi làm lương tối thiểu khi đó có 2,50
đô một giờ, mua xe cũ rích uống xăng hơn
uống nước lạnh. Ứng cử viên TT của đảng
CH khi đó, ông Reagan chế ra một tỷ lệ ông
gọi là tỷ lệ khốn khổ -misery index- là
tổng cộng của tỷ lệ lạm phát và
tỷ lệ thất nghiệp. Đến cuối trào
Carter, tỷ lệ khốn khổ đă leo lên tới
mức kỷ lục chưa từng thấy trong
suốt lịch sử Mỹ: 21,98%. Chưa hết. Trong sách lược
mỵ dân tối đa của đảng DC và cá nhân
ông, TT Carter cũng sáng chế ra luật gọi là
Community Reinvestment Act -CRA- bắt các ngân hàng phải
đạt được tỷ lệ tối thiểu
nào đó về số lượng nợ mua nhà cấp
cho dân da đen, bất kể họ có đáp ứng
đủ tiêu chuẩn tài chánh để mượn
tiền hay không. CRA đă là ông tổ khai sanh ra
loại nợ sau này gọi là 'subprime loan' -nợ dưới
tiêu chuẩn- của đại khủng hoảng gia cư
năm 2008. Nhiều năm sau khi TT Carter rời
Ṭa Bạch Ốc, đă có nhiều sách viết về
TT Carter. Chẳng biết sự thật ra sao, chỉ
biết ông Carter nhiều khi ... coi dzậy mà hổng
phải dzậy. Một cựu cận vệ viết sách
tố ông Carter là vua mánh mung giả dối vặt. Như
ông công khai hô hào kiêng cử rượu, nhưng
lại có tủ rượu riêng, tối nào cũng 'nhâm
nhi' bourbon một ḿnh. Hay ông luôn luôn lên máy bay, tay
cầm theo cái 'carry-on' nhỏ, như thể ông b́nh dân,
tự tay xách va-li không cần cận vệ làm, nhưng
trên thực tế đó là va-li không, chẳng có ǵ
ở trong, chỉ cốt cho các nhà báo quay phim và
chụp h́nh. Nói chung, TT Carter đă là một
trong những tổng thống thất bại nặng
nhất trong lịch sử Mỹ. Và dân Mỹ đă
mời ông về tiếp tục nghề trồng đậu
phộng tại Georgia sau đúng một nhiệm kỳ,
giống như Biden. Dù vậy, cũng phải nh́n
nhận TT Carter đă đóng một vai tṛ quan trọng
là hàn gắn, vực sống lại một nước
Mỹ đang tan nát, bối rối với quá khứ
[một tổng thống phải từ chức, tiếp
theo là cuộc thảm bại, tháo chạy quân sự
nhục nhă nhất tại VN] trong khi mất hướng
đi cho tương lai. TT Carter và
thuyền nhân Việt
Riêng với dân tị nạn
Việt, cái nh́n về TT Carter khác xa. Trong khi dân Mỹ
khinh thường Carter th́ dân Việt tị nạn có
nhiều người tôn thờ Carter như thánh nhân.
Thần thánh hóa ông Carter lên tới chín chục
tầng mây. Vai tṛ của TT Carter trong việc cứu giúp
dân tị nạn ta là một sự thật lịch
sử không ai chối căi được. Dưới
thời TT Carter, cả ngàn, cả vạn dân tị
nạn đă được nhận vào Mỹ. Nhưng
TT Carter có phải là một đại thánh nhân hay không,
một người mà sự qua đời phải
khiến cho 'cả triệu thuyền nhân hải
ngoại khóc cạn nước mắt' không? Câu
trả lời ngắn gọn là 'không hẳn'. Tung hô quá
lố bịch. Vâng, đúng là dưới thời
TT Carter cả vạn dân Việt đă được vào
Mỹ tị nạn, không sai. Nhưng trong bối
cảnh toàn diện của câu chuyện tị nạn,
công của TT Carter với dân tộc Việt ta không ghê
gớm như tung hô. TT Carter bắt đầu liên
lạc với chính quyền Hà Nội ngay sau khi ông
nhậm chức đầu năm 1977, chưa tới hai
năm sau ngày VC chiếm miền Nam VN, rồi sau đó,
qua năm 1978, gửi nhiều phái đoàn ngoại giao và
quân sự Mỹ đi Hà Nội điều đ́nh
việc cho phép Mỹ gửi chuyên viên trực tiếp
vào VN t́m xác lính Mỹ. Việc một TT Mỹ cố
t́m xác lính Mỹ mang về nước hoàn toàn chính
đáng, cần làm. Tuy nhiên, vấn đề là
những năm dưới thời TT Carter cũng trùng
hợp với những năm đầu của chính sách
tù cải tạo của VC, bắt đi tù cả trăm
ngàn quân cán chính VNCH, đầy đọa tàn bạo
trong những hoàn cảnh khủng khiếp nhất. Trong
khi đó, TT Carter không can thiệp hay làm bất cứ ǵ
để giúp họ hết. Các phái đoàn
Mỹ ào ạt qua VN kể từ năm 1978 chỉ có
một nhiệm vụ: t́m xác lính Mỹ, tuyệt đối
không ngó ngàng ǵ về các cựu đồng minh
Việt đang khốn khổ trong tù cải tạo. TT
Carter khi đó không một lời 'hỏi thăm' hay xin
'nương tay' bớt tàn nhẫn với họ. Số
phận cả vạn cựu 'chiến hữu' VNCH không
nằm trong các cuộc thảo luận Mỹ-VC khi đó.
Coi như các tù cải tạo là vấn đề
của nước VN, không dính dáng ǵ tới Mỹ, và
TT Carter không nh́n thấy họ. Phải chờ măi
tới cuối 1989 (TT Reagan) và qua 1990 (TT Bush cha) th́
Mỹ mới nh́n thấy đám tù cải tạo và
cứu họ qua Mỹ qua diện HO. Công
bằng mà nói, VC trong men say chiến thắng khi đó cũng
như trong nỗi sợ quân cán chính VNCH sẽ nổi
loạn, chắc chắn sẽ phớt lờ mọi yêu
cầu nhân đạo của TT Carter, nhưng ít ra th́
TT Carter cũng nên có một tiếng nói cứu giúp
họ nếu ông thật sự nhân đạo như
mọi người đang ca tụng. Tháng Hai 1979, Trung Cộng xua quân qua
đánh Bắc Việt tại Lạng Sơn và Cao
Bằng. Nhưng trước đó, đă nhiều
lần 'mài dao, lên đạn' hăm dọa người
đồng chí 'môi hở răng lạnh' CSVN trong
vụ CSVN đánh Pol Pot. Để chuẩn bị đối
phó với TC, tránh nạn dân gốc Hoa có thể làm gián
điệp hay đạo quân nằm vùng của TC, VC
bắt đầu chính sách tịch thu của cải dân
Việt gốc Hoa rồi đuổi họ ra khỏi
xứ bằng đường biển. Một công hai
chuyện: cũng giúp ngân quỹ có thêm cả tấn vàng
của các đại gia Chợ Lớn, lại bớt
miệng ăn trong cơn đại họa kinh tế
gần phá sản sau những năm bao cấp. Đại
họa gọi là 'thuyền nhân' -boat people- bắt đầu
từ khoảng mùa thu 1978. Cả thế giới xúc động
khi thấy cả vạn thuyền nhân lênh đênh ngoài
biển khơi, nạn nhân của băo tố chết hàng
loạt, cũng như nạn nhân của hải tặc
cũng giết không biết bao nhiêu người trong khi
hăm hiếp không biết bao nhiêu phụ nữ. Theo các
ước lượng không chính xác lắm, có thể
đă có tới nửa triệu thuyền nhân mất
mạng. Các xứ Mă Lai, Thái, Indonesia, cả Hồng Kông
gặp khủng hoảng lớn khi cả trăm ngàn
thuyền nhân táp vào biển của họ, vào các đảo
hoang của họ. Các chính quyền trung ương
lớn tiếng phản đối, trong khi các chính
quyền địa phương đuổi nhiều
thuyền ra khơi, chết bỏ. Ngay đây, cũng phải nói ngay,
chính quyền Mỹ khi đó dưới quyền TT
Carter ngó lơ, tuy TT Carter khi đó có ra lệnh
chiến hạm Mỹ trong Đệ Thất Hạm
Đội nếu gặp tầu vượt biên th́ nên
cứu, cho có. Cứu vớt được vài chục
ngàn người trong khi cả triệu người lao vào
Biển Đông. Cho dù Mỹ là xứ có trách nhiệm
lớn nhất, lớn hơn tất cả các xứ khác
trong đại nạn thuyền nhân. Lư do khá giản
dị: các thăm ḍ dư luận khi đó cho thấy
đại đa số dân Mỹ (gần 70%) KHÔNG
muốn nhận thuyền nhân tị nạn Việt, mà
trái lại, v́ cái thất bại quân sự ô nhục,
dân Mỹ muốn quên hẳn tất cả mọi
chuyện liên quan tới VN. Trong khối Âu Mỹ, Pháp và Đức
đă là hai xứ tích cực cứu giúp mạnh
nhất khi cho tầu của họ đi lùng Biển
Đông để cứu thuyền nhân, như tầu
Ile De Lumière của Pháp và tầu Cap Anamur của Đức.
Tổng số thuyền nhân được các quốc
gia Đông Nam Á như Thái, Mă Lai, Indonesia, Phi Luật Tân,
Singapore, và cả Hồng Kông nhận vào các trại
của họ như Pulau Bidong, Galang, Songkhla,... đă lên
tới những con số không tưởng. Theo thống
kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc,
tổng số thuyền nhân được nhận
tại các xứ Đông Nam Á lên tới xấp xỉ
800.000 người. Điều đáng ghi nhận là
trong các xứ nhận thuyền nhân, ngoài các xứ
Đông Nam Á, c̣n có khá nhiều đi Pháp, Đức,
Úc, Canada,... không có Mỹ của TT Carter. Tháng Bẩy năm 1979, Cao
Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ra sáng kiến,
mở những cuộc điều đ́nh tại Geneve
giữa Mỹ, các quốc gia giàu có Tây Phương, các
quốc gia Đông Nam Á bị nạn, và chính quyền
CSVN, đi đến việc thành lập chương tŕnh
gọi là Orderly Departure Program -ODP-, để nhận
dân VN ra khỏi VN và đi tị nạn một cách 'có
trật tự' để tránh nạn 'boat people' quá
nhiều người chết. Hơn 40 quốc gia kư tên
tham gia vào chương tŕnh ODP nhận dân tị nạn
Việt.
Đây không phải là sáng kiến
của TT Carter, mà TT Carter chỉ làm như cả 40
quốc gia khác, v́ lư do nhân đạo hiển nhiên trước
cảnh cả ngàn cả vạn thuyền nhân chết
trên biển, chấn động cả thế giới nên
TT Carter mới phải hưởng ứng kế
hoạch của LHQ, mở cửa tiếp nhận dân
tị nạn ra khỏi VN trong trật tự. Chương tŕnh ODP cho dân tị
nạn Việt từ VN đi Mỹ bắt đầu
rất khó khăn cuối năm 1979. CSVN đưa ra
danh sách 21.000 người VC cho phép ra đi, trong khi
Mỹ đưa ra danh sách nhận 4.000 người. Hai
danh sách khác nhau hoàn toàn. Danh sách VC gồm phần
lớn dân gốc Hoa, trong khi danh sách Mỹ gồm quân
cán chính VNCH đă từng làm việc với Mỹ. Hai
bên Mỹ-VC điều đ́nh khó khăn trong nhiều
tháng, đến giữa năm 1980 mới đạt
thỏa thuận cho 1.700 người ra đi trong đợt
đầu. Trong khi đó, trước t́nh trạng
nguy cấp của dân tị nạn đang tạm trú trên
các đảo, trong khi các xứ Đông Nam Á không có
khả năng nuôi họ, đe dọa sẽ trục
xuất họ về VN lại, nước Mỹ
bắt đầu mở rộng chương tŕnh ODP
để bao gồm luôn một số lớn dân đang
tạm trú trong các trại Đông Nam Á. Đi đến
kết quả là hầu hết dân tị nạn vào
Mỹ qua diện ODP là dân tị nạn đi từ
Đông Nam Á vào Mỹ trong khi dân đi thẳng từ
VN rất ít. Trong diện ODP này, đúng là Mỹ
đă nhận nhiều người nhất, v́ Mỹ chính
là xứ có trách nhiệm lớn nhất. Nhiều người tung hô hành
động 'nhân đạo táo bạo' của TT Carter,
'tăng gấp đôi' số dân tị nạn
được nhận vào Mỹ qua ODP. 'Tăng gấp
đôi' nghe ghê gớm, sự thật chỉ là tăng
từ 7.000 lên tới 14.000 người được vào
Mỹ mỗi tháng. So với gần 800.000 người
đang kẹt tại các đảo Đông Nam Á. Đưa
đến t́nh trạng nhiều thuyền nhân đă
bị kẹt tại các đảo có khi cả chục
năm mà TT Carter không chấp nhận cho vào Mỹ
sớm hơn. Măi tới năm 1991, 12 năm sau
khi ODP bắt đầu, các trại tị nạn trên các
đảo mới đóng cửa hết. So
với việc Biden trong 4 năm qua đă cho từ 7
tới 10 triệu di dân Trung Mỹ tràn vào Mỹ không
giấy tờ hợp pháp. Nếu TT Carter 'rộng răi'
như Biden, th́ tất cả 800.000 người đều
đă có thể được nhận vào Mỹ trong ṿng
1-2 năm thay v́ 12 năm. Cái công lớn của TT Carter là
đă giúp đâu nửa triệu dân tị nạn vào
Mỹ qua chương tŕnh ODP, hầu hết đi
từ các trại tạm trú Đông Nam Á, vào Mỹ
tị nạn trong thời gian rất lâu là 12 năm,
chứ không phải TT Carter đă giúp cứu vớt
cả mấy trăm ngàn thuyền nhân như vài người
tung hô sảng. Nhiều người ca tụng TT
Carter đă kư luật HR 7769 cuối năm 1977 cho phép người
Đông Dương được định cư
tại Mỹ. Sự thật, luật này chỉ xác
nhận những người đă được TT
Ford cho vào Mỹ hợp pháp trong tư cách 'tị
nạn' ngay sau 30-4 được chuyển đổi tư
cách từ 'tị nạn' qua 'thường trú' có
quyền xin vào quốc tịch, là chuyện có ghi trước
trong luật TT Ford thông qua. Luật HR 7769 chỉ là thay
đổi quy chế hành chánh, không có ǵ quan trọng. Qua cuối năm 1989, đầu
1990, nhờ những nỗ lực của bà Khúc Minh Thơ
và nhiều người khác trong tổ chức Hội
Gia Đ́nh Tù Nhân Chính Trị VN, mới sanh ra chương
tŕnh nhận bảo trợ và tái định cư tù
cải tạo VNCH vào Mỹ, được gọi là
chương tŕnh HO hay Humanization Organization, nằm trong
khuôn khổ diện ODP, dành cho cho các cựu tù cải
tạo đă bị tù cải tạo 3 năm hay hơn,
mang qua Mỹ cả vạn cựu quân nhân QLVNCH [Ngoài
diện HO dành cho cựu tù cải tạo, cũng c̣n có
diện V-11 và U-11 dành cho cựu nhân viên làm việc cho
các công sở hay công ty tư Mỹ từ 5 năm
trở lên]. Chuyện này xẩy ra dưới thời
TT Reagan và Bush cha, nhiều năm sau khi TT Carter đă
rời Ṭa Bạch Ốc. Nói cách khác, dân
diện HO qua Mỹ được là nhờ các TT Reagan
và Bush cha, không phải TT Carter. Tóm lại, TT Carter đă có công
lớn là mở cửa đón nhận nhiều dân
tị nạn Việt vào Mỹ qua chương tŕnh ODP,
nhưng trong thời cao điểm của đại
nạn boat people, từ mùa thu 1978 tới mùa thu 1979, TT
Carter đă để cả nửa triệu người
bỏ mạng trên Biển Đông, chỉ v́ khi đó,
TT Carter đang muốn lấy ḷng chính quyền CSVN
để điều đ́nh xin cho chuyên viên Mỹ vào
VN t́m xác lính Mỹ. [Những điều
và con số viết ở trên là theo những tài
liệu và thống kê chính thức của Liên Hiệp
Quốc và chính phủ Mỹ; nếu có ǵ không chính xác
hay sai lầm, xin quư độc giả góp ư chỉnh
sửa] TT Carter và di dân
Marielitos Năm 1980, một chiếc tầu
nhỏ chở một đám dân Cuba trốn Cuba chạy
qua Florida. TT Carter cho tầu của Coast Guard Mỹ
cứu vớt họ vào Florida rồi 'hoành tráng' tuyên
bố "Mỹ sẵn sàng đón nhận dân
tị nạn CS Cuba". Bị nhà độc tài CS
Fidel Castro bắt ngay tẩy, ra lệnh "Tất
cả những người Cuba nào không muốn sống
ở Cuba mà muốn đi Mỹ, có quyền nhẩy
xuống tầu tại hải cảng Mariel đi
Mỹ, cảnh sát Cuba sẽ không cản". Hàng trăm
ngàn dân Cuba lợi dụng ngay, nhẩy xuống tầu
chạy qua Florida, khi đó được báo Mỹ
gọi là 'di dân Marielitos'. Nhưng Castro chơi khăm, cùng lúc
bắt cả chục ngàn tù nhân và những bệnh nhân
các nhà thương điên Cuba, tống xuống
tầu, đẩy qua Florida luôn. Nước Mỹ lănh
đủ cả chục ngàn dân đầu trâu mặt
ngựa phạm pháp, và người điên. Dân Mỹ
nổi giận lớn tiếng công kích Carter là nhu nhược,
bị Castro lừa. Cuối năm đó, gần ngày
bầu cử, TT Carter đi đêm với Castro, đạt
được thỏa thuận chấm dứt vụ lùa
dân này. Không ai biết TT Carter đă nhượng
bộ Castro chuyện ǵ để Castro ngưng chiến
dịch đuổi dân này. Trong cuộc bầu cử năm
đó, TT Carter thất bại, thua thống đốc
Reagan. Làm TT được một nhiệm kỳ. V́
những thất bại kinh tế, cũng như v́
đại nạn Marielitos. Kết TT Carter sẽ đi vào lịch
sử như một TT nhân ái, nhưng nhu nhược và
bất tài, đă mang nước Mỹ vào đại
khủng hoảng kinh tế lớn nhất nh́ lịch
sử Mỹ. TT Carter có thể đă cứu
cả trăm ngàn dân Việt ra khỏi chế độ
CS và khỏi cảnh khốn khổ của các trại
tạm trú trên các đảo Đông Nam Á, nhưng
đă hại cả trăm triệu dân Mỹ qua
khủng hoảng kinh tế tai hại nhất. Cái may của khối dân di tản
Việt được nhận vào Mỹ thời 1979-80
và sau đó, là đă không phải nếm mùi lạm phát
và khủng hoảng kinh tế của những năm
Carter. Cái không may cho đám dân di tản vào Mỹ trước
thời Carter là đă nếm mùi khủng hoảng kinh
tế và giá xăng trên trời của Carter. Kẻ này
vào Mỹ năm 1975, không may mắn, đă là nạn nhân,
mất job quèn đầu tiên (với mức lương
90 đô một tuần) vào năm 1978, trong khi cũng
phải bán xe cũ, mua xe ... cũ hơn nữa. Công là công, tội là tội, đâu
đó phải nói cho rơ. Để lịch sử ghi
nhận cho rơ. VŨ LINH. |