TT Kennedy
và Việt Nam Vũ Linh |
Tuần lễ tới, từ 21/4
tới 28/4 đánh dấu đúng 47 năm tuần
lễ cụ Trần Văn Hương làm tổng
thống VNCH. Nhân đây, tưởng cũng nên coi
lại vai tṛ của Mỹ trong lịch sử cận
đại của nước ta. Hơn cả TT Johnson và TT Nixon, TT
Kennedy có vai tṛ lịch sử có thể nói quan trọng
nhất đối với VN v́ ông chính là người
đă mở màn việc Mỹ can thiệp vào VN, đồng
thời cũng là người đă lấy những
quyết định với hậu quả trầm
trọng nhất cho số phận VNCH khi kư hiệp
ước trung lập hóa Lào và hậu thuẫn
cuộc đảo chính đổi đời năm
1963. Trước
hết, một lời phi lộ. Bài này
đă được đăng trên DĐTC cách đây
4 năm, tháng 4/2018, xin phép được đăng
lại -với nhiều chỉnh sửa- để
nhắc nhở lại một thời kỳ đen
tối của lịch sử, đă là bước đầu
trong cuộc tuột dốc của cả nước,
để cuối cùng đưa đến thảm
họa 30/4 khi chính nghĩa quốc gia và tương lai
đầy hứa hẹn của chúng ta bị mất vào
tay lũ sâu bọ. Phải nói ngay là kẻ này chuyên viết
về chính trị Mỹ v́ đă có quá nhiều chuyên
gia rành rẽ vấn đề VN gấp vạn lần,
viết mỗi ngày không biết bao nhiêu chuyện trên các
báo và diễn đàn tị nạn rồi. Trong phạm
vi bài này, kẻ này chỉ muốn bàn về vai tṛ
của Mỹ và những quyết định của
một tổng thống Mỹ thôi. Trước hết, ta coi lại t́nh h́nh
chung. Những năm từ sau khi Mao chiếm lục
địa Trung Hoa, lực lượng èo uột
Việt Minh bất ngờ tái sinh qua viện trợ hùng
hậu về vũ khí cũng như nhân sự (cố
vấn và cả lính) do TC chuyển qua. Tướng Giáp
tung ra những trận đánh lớn trong đồng
bằng Bắc Việt theo chỉ đạo của các
cố vấn TC, nướng thanh niên Việt trong
hỏa lực Pháp theo chiến thuật ‘biển người’
của Mao mặc dù xứ ta không đông dân như
Tầu. Pháp cũng sai lầm, tưởng nếu
đánh những trận lớn, có thể diệt
Việt Minh được mà quên mất Hồng Quân
của Mao. Tập trung lực lượng vào thung lũng
Điện Biên Phủ làm mồi nhử Giáp. Giáp
nhẩy vào mồi thật. Để rồi Pháp bị
vây hăm đe dọa đại bại. Cầu cứu
Mỹ, nhưng TT Eisenhower từ chối can thiệp
mạnh v́ không được hậu thuẫn của
Anh và những đồng minh Á Châu khác, cũng như
sợ mang tiếng giúp thực dân Pháp duy tŕ chế
độ đô hộ. Đưa đến thất thủ Điện
Biên Phủ, Hiệp Định Genève chia đôi đất
nước, sự thành lập Đệ Nhất
Cộng Ḥa với TT Diệm, rồi cuộc chiến VN
lần thứ hai. Trong bối cảnh đó, sự
can thiệp của Mỹ thật sự bắt đầu
dưới thời TT Kennedy.
Năm 1960, TNS John Kennedy đắc cử
tổng thống. Trong lúc bàn giao, TT Eisenhower giải thích
t́nh h́nh Đông Dương cho Kennedy, đặc
biệt nhấn mạnh tính then chốt của xứ Lào.
Theo ông, bằng mọi giá, phải giữ Lào, không
thể để lọt vào tay CS Pathet Lào, cũng không
thể trung lập hóa được v́ CSBV chắc
chắn sẽ không tôn trọng nền trung lập này.
Lào chính là cửa ngỏ vào miền Nam, Căm Pu Chia và
Thái Lan. Mất Lào, cả vùng bị đe dọa
nặng ngay. Thuyết ‘domino’ thật sự bắt
đầu từ Lào. Tân TT Kennedy không chia sẻ quan điểm
đó. Ông cho rằng nơi Mỹ cần bảo vệ
tới cùng không phải là Lào v́ trên phương
diện quân sự, Mỹ không thể đánh nhau ở
Lào được. Đất chiến lược là
Nam VN với cả ngàn cây số duyên hải mà hạm
đội Mỹ có thể bảo vệ và dùng để
đổ quân hay rút lui được. Chẳng lẽ
ở đây, ông trung úy hải quân Kennedy có lư hơn
ông đại tướng Eisenhower? Tại Lào, TT Kennedy tin tưởng một
thể chế trung lập với sự hậu thuẫn
của Liên Xô sẽ bảo đảm Lào thành trái
độn ngăn cản CSBV chứ không phải là hành
lang của CSBV xâm chiếm Đông Dương. Ở
đây, ông đă chịu ảnh hưởng nặng
của thứ trưởng Ngoại Giao Averell Harriman, là
một chuyên gia về Nga. Ông Harriman tin tưởng Liên
Xô chú tâm vào việc bành trướng thế lực
tại Đông Âu, sẽ không thể chấp nhận
một mặt trận mới tuốt bên Đông Nam Á
chỉ có lợi cho Mao, do đó, Liên Xô sẽ giúp
bảo đảm nền trung lập của Lào và
cầm chân CSBV. TT Kennedy vận động Nga để
rồi cuối cùng đẻ ra được hiệp
định trung lập hóa Lào năm 1962. Một thể
chế trung lập quái đản, trao vào tay Pathet Lào,
tức là CSBV, một nửa đông-nam của lănh
thổ, giáp giới với CSBV, VNCH, và Căm Pu Chia,
tức là để nguyên hành lang chiến lược
then chốt này cho CSBV sử dụng.
Đây là sai lầm chiến lược
vĩ đại mang theo hậu quả cực kỳ tai
hại cho miền Nam VN của tân tổng thống
trẻ không bao nhiêu kinh nghiệm. TT Eisenhower đă đúng
hoàn toàn khi tiên đoán CSBV sẽ không bao giờ tôn
trọng trung lập của Lào bất kể thái độ
của Liên Xô, và sẽ chiếm Căm Pu Chia và VNCH qua
ngă Lào không sớm th́ muộn. Trong miền Nam, nhiệm kỳ của tân TT
Kennedy cũng trùng hợp với sự ra đời chính
thức và lớn mạnh của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam VN, là công cụ của CSBV. Mặt Trận ra đời trong nhiều khó
khăn, nhất là trong những năm 60-62, không đạt
được thành quả nào đáng kể ngoài
việc ám sát các viên chức địa phương
cấp làng, xă, huyện,…, phá nền móng của
guồng máy chính quyền Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Chưa kể kế sách Ấp Chiến Lược cũng
đă thành công lớn mặc dù gặp nhiều khó khăn,
từ phá rối của VC cho đến bất măn
của nhiều nông dân. Cường độ chiến
tranh khi đó cũng chẳng ghê gớm ǵ lắm khi
Mỹ chỉ có một vài ngàn cố vấn trong khi
CSBV thâm nhập khoảng vài trăm bộ đội
mỗi tháng. Năm 1963 là cái mốc đổi
đời của VNCH.
[Ở đây xin mở ngoặc: không hiểu v́ sự
trùng hợp nào mà lịch sử VN trong thời kỳ
‘lộn xộn’ nhất, luôn là những năm mà hai
con số chót cộng lại thành… ‘9 nút’, đúng
chu kỳ 9 năm: 1945 Việt Minh nổi đậy, 1954
chia đôi đất nước, 1963 đảo chánh TT
Diệm, 1972 mùa hè đỏ lửa đánh dấu CSBV
công khai tham chiến tại Nam VN, với quân chính quy và
cả xe tăng, đại bác] Cuộc chiến leo thang mạnh khi CSBV
bắt đầu chuyển quân ào ạt vào miền
Nam, chẳng những qua hành lang Lào, mà c̣n qua ngă
bến tàu Sihanoukville của Căm Pu Chia khi ông Sihanouk
nhắm mắt cho tầu Liên Xô, TC và BV chở súng
lớn, đạn dược, quân trang, quân dụng,
dầu xăng, thuốc men,… cập bến Sihanoukville,
đồng thời cho VC dùng đất Căm Pu Chia làm
căn cứ an toàn. Đổi lấy việc CSBV không
tích cực giúp Khờ-Me Đỏ gây rối loạn
chống ông ta. Năm 63 cũng là năm giới truyền
thông Mỹ đổ bộ vào miền Nam và tin tức
chiến sự VN bắt đầu tràn ngập mặt
báo và TV Mỹ. Hàng đoàn kư giả Mỹ thay v́
chỉ làm nhiệm vụ truyền thông trung thực th́
đều đă biến thành loại ‘thanh niên xung phong’ chuyên gia xách
động cho việc Mỹ chấm dứt can thiệp
vào cuộc chiến. Nghĩa là đồng minh lớn
nhất của VC đă đổ bộ vào Sàig̣n và công
khai hoạt động trong khi cả hai chính quyền
Mỹ và VNCH chống mắt nh́n, nhân danh ‘tự do ngôn
luận’. TTDC khi đó công khai lộ mặt thiên
cộng, triệt để bôi bác miền Nam. Một trăm
bản tin về VN th́ ít nhất cũng 90 bài bất
lợi cho phiá VNCH và Mỹ. Đến độ TT
Kennedy mỗi lần nghe báo cáo tương đối
tốt đẹp của tướng lănh hay sứ quán
Mỹ ở Sàig̣n đều lo lắng hỏi lại “vậy sao báo NYT (hay
WaPo hay CBS,…) nói khác?”. Năm 63 cũng là năm nổ bùng
ra biến cố Phật giáo miền Trung.
TT Diệm có đại công với đất
nước khi đă thành công xây dựng nền móng
vững chắc cho một VNCH tương đối
thịnh vượng và hùng mạnh từ đống
tro tàn do thực dân Pháp để lại, nhưng ông cũng
đă phạm nhiều sai lầm lớn sau đó,
đưa đến việc mất ḷng dân rất
nhiều, cuối cùng đi đến đảo chánh.
Việc dân chúng xuống đường biểu t́nh
chống TT Diệm trong vụ Phật giáo và sau đó
vui mừng xuống đường hoan nghênh Cách
Mạng 1/11 là những dữ kiện lịch sử, không
thể chối bỏ, viết lại được. Nói
các tướng lănh “ăn tiền
của Mỹ, phản ông Diệm, đi ngược ư
dân” là viết lại lịch sử, không
công bằng với các tướng lănh, với quân
lực VNCH, và với ḷng dân khi đó. Khủng hoảng Phật giáo đă có tác
động cực kỳ bất lợi cho cuộc
chiến của VNCH nói chung và cho TT Diệm nói riêng.
Biến cố Phật giáo khởi đi từ một
xung đột có tính địa phương không quan
trọng, nhưng đă bị ba thế lực khai thác
triệt để: – Thứ nhất là
một vài lănh tụ Phật giáo với tham vọng chính
trị cá nhân quá lớn (xin nhắc lại: không
phải là cả khối tín đồ Phật giáo hay
đại đa số tăng sĩ, mà chỉ là
một nhúm ‘sư hổ mang’ đếm trên đầu
ngón tay!); – Thứ nh́ là
cánh diều hâu Mỹ muốn nhân cơ hội,
loại trừ TT Diệm để nắm quyền
trực tiếp điều khiển chiến tranh; – Thứ ba dĩ
nhiên là VC, khỏi cần bàn thêm. TT Diệm, một người nhân ḥa, đạo
đức, không mánh mung xảo quyệt, cho dù với
sự giúp đỡ của ông em mưu mô, vẫn không
đủ khả năng đối phó với ba thế
lực lớn đó. TT Diệm đă thất bại không
chứng minh được cho cả nước và
cả thế giới thấy rơ những thế lực
đang bóp méo và khai thác khủng hoảng. Đă
vậy TT Diệm đă đối phó một cách
vụng về trên phương diện tâm lư quần chúng
Việt, Mỹ cũng như cả thế giới, bàng
hoàng trước h́nh ảnh các vị sư tự thiêu
cũng như sinh viên và bà lăo xuống đường
biểu t́nh, tay không kéo hàng rào kẽm gai trước
họng súng của Cảnh Sát Dă Chiến, trong khi TTDC
Mỹ thời đó lại mô tả ông như một
quan lại độc đoán của thế kỷ trước,
kỳ thị Phật giáo, trị nước dựa trên
gia đ́nh (ông anh NĐThục và hai ông em NĐNhu và NĐCẩn)
và một nhúm thân tín trong đảng Cần Lao. Trầm trọng hóa vấn đề hơn
tất cả các yếu tố trên là năm 63 cũng là
năm TT Kennedy rất sợ tin xấu v́ ông chuẩn
bị tái tranh cử trong năm 64. Chúng ta ở Mỹ lâu
năm, có thể hiểu rơ chính trị gia Mỹ đều
sống, nói và làm v́ bầu cử hết. Trong t́nh
trạng đó, TT Kennedy không thể nào không điên
đầu v́ những tin xấu từ miền Nam
chạy lên TV và báo Mỹ suốt ngày, được
pha thêm cả lô mắm muối của các nhà báo thiên
tả như Peter Arnett, Malcolm Browne và nhất là David
Halberstam. TT Kennedy nh́n thấy rơ hai lựa chọn
của ông: một là phủi tay, chấm dứt mọi
can thiệp, và hai là can thiệp mạnh hơn. Nhất
chín nh́ bù, không có giải pháp lằng nhằng ở
giữa. Giải pháp rút lui ngay khó làm được
v́ Mỹ vẫn c̣n bị ám ảnh bởi thuyết
domino, sẽ mất hết cả Đông Nam Á nếu
bỏ Nam VN, chưa kể TT Kennedy bị ấm ức
bởi h́nh ảnh một tổng thống yếu đuối
bị Khrushchev coi thường tại Cuba và trong
cuộc gặp mặt tay đôi tại Áo, cũng như
viễn tượng phải tranh cử chống ông
diều hâu Nixon trong kỳ bầu cử tới. Trong khi
giải pháp can thiệp mạnh lại chỉ có
thể thực hiện được nếu loại
bỏ anh em Diệm-Nhu v́ TT Diệm không chấp
nhận một sự can thiệp sâu hơn của chính
quyền Mỹ.
Ở đây không phải chỉ là việc
TT Diệm bác bỏ ư kiến đổ bộ lính
Mỹ vào chiến trường VN, mà c̣n là việc ông
chống lại ư định gia tăng kiểm soát
cuộc chiến quân sự cũng như kiểm soát chính
trị và kinh tế. Người Mỹ với thái
độ tự tin nếu không muốn nói là tự cao
tự đại cố hữu, luôn luôn muốn nắm
phần quyết định trong mọi h́nh thức
hợp tác. Họ muốn nắm quyền quyết định
quân sự, nắm luôn hầu bao viện trợ quân
sự và kinh tế, đồng thời ép TT Diệm thi
hành những cải tổ chính trị và xă hội theo
ư của họ, bất kể mọi khác biệt văn
hóa và lịch sử giữa VN và Mỹ. Những yêu sách
quá lớn mà TT Diệm là người ái quốc và có
tinh thần tự trọng dân tộc thật lớn, cương
quyết không nhượng bộ. Nh́n lại toàn bộ những ǵ xẩy ra
trong năm 63, ta có thể hiểu được
phần nào sự lớn mạnh của phe chống TT
Diệm trong nội các Kennedy. Ngay từ dưới
thời TT Eisenhower, trong chính phủ Mỹ cũng đă
có hai khuynh hướng tranh căi nhau suốt ngày. Một bên là khuynh hướng ủng
hộ TT Diệm tuyệt đối v́ theo họ, TT
Diệm đă đạt được thành công
lớn trong những năm đầu, ổn định
được t́nh trạng rối bời do Pháp để
lại, là người có những đức tính và
khả năng hơn tất cả mọi chính khách khác,
tức là không thể thay thế được. Đây
là cánh PTT Johnson, đại sứ Nolting, tướng tư
lệnh Harkins, bộ trưởng Quốc Pḥng McNamara,
giám đốc CIA McCone, và bộ trưởng Tư Pháp
Robert Kennedy (ông Robert Kennedy khi đó c̣n ‘diều hâu’
nặng, qua đến năm 1967 th́ ông chuyển hướng
muốn Mỹ rút về ngay, ra tranh cử chống TT
Johnson nhưng bị ám sát chết). Bên kia là cánh
‘ngoại giao’ của ngoại trưởng Dean Rusk, ông
Harriman, với ông thứ trưởng Ngoại Giao
Hilsman, đại sứ Cabot Lodge, và phần lớn các
thượng nghị sĩ và dân biểu DC, cho rằng
TT Diệm qua ảnh hưởng xấu của ông Nhu,
đă trở thành một nhà độc tài chỉ mang
hại cho cuộc chiến chống CSBV. Họ chủ trương
bằng mọi giá phải ép TT Diệm loại trừ
ông cố vấn Nhu, nếu cần th́ loại trừ
luôn cả TT Diệm, kể cả việc dùng biện
pháp đảo chánh bằng quân đội. TT Kennedy ban đầu giữ thái độ
trung lập v́ khi c̣n là thượng nghị sĩ dưới
thời TT Eisenhower, ông đă là một trong những người
hậu thuẫn mạnh việc đưa ông Diệm
về nước làm thủ tướng. Nhưng bây
giờ th́ ông càng ngày càng thấy nhiều khó khăn,
nhất là qua truyền thông bôi bác mỗi ngày khiến
tinh thần ông bị chao đảo, cũng như
biến cố Phật giáo mà ông thấy khó bào
chữa. TT Kennedy tuy trẻ tuổi, nhưng lại là
cáo già chính trị, bổ nhiệm ông Cabot Lodge làm
đại sứ với toàn quyền quyết định
mọi chuyện trực tiếp với tổng
thống. Ông Lodge là ứng cử viên phó của ông
Nixon. Liên danh Nixon-Lodge vừa bị liên danh Kennedy-Johnson
hạ. TT Kennedy bổ nhiệm ông đối lập CH
Lodge để làm mộc đỡ đạn CH cho ông,
đồng thời cũng loại được
một đối thủ cho việc tái tranh cử năm
1964 của ông. Về phiá VNCH th́ một số tướng
lănh đă rục rịch tính chuyện đảo chánh,
lật đổ TT Diệm v́ họ cho rằng ông này
đă thất bại, mất hậu thuẫn dân,
khiến VC ngày càng lớn mạnh, đe dọa đến
sự tồn vong của cả miền Nam. Có tin không
kiểm chứng được là ban đầu có
tới ba nhóm âm mưu đảo chánh: trung tướng
Trần Văn Đôn, trung tướng Trần Thiện
Khiêm, và đại tá Đỗ Mậu, rồi sau đó,
cả ba nhóm hợp nhất lại dưới quyền
trung tướng Dương Văn Minh. Nhưng các tướng
cũng chỉ có thể đảo chánh nếu nhận
được bảo đảm của Mỹ, kiểu
như sẽ không can thiệp cản trở đảo
chánh, hay nếu đảo chánh thành công, sẽ
tiếp tục nh́n nhận chính quyền mới và
tiếp tục hậu thuẫn cuộc chiến
chống CSBV. Chứ nếu đảo chánh xong, Mỹ rút
đi không yểm trợ cho cuộc chiến th́ nguy
nặng v́ VNCH sẽ không thể nào đương
đầu được với CSBV vẫn nhận
được viện trợ quân sự hùng hậu
từ khối Liên Xô và TC. Hậu thuẫn đó đến tay các tướng
qua công điện số 243 ngày 24/8/63 của
thứ trưởng Hilsman, đúng ba ngày sau khi ông Nhu ra
lệnh Lực Lượng Đặc Biệt tấn công
các chùa ngày 21/8, và hai ngày trước khi ông Lodge chính
thức tŕnh ủy nhiệm thư đại sứ. Ngày
đó là ngày cuối tuần, hầu hết nội các
đều đi khỏi Hoa Thịnh Đốn, kể
cả TT Kennedy đi biển Cape Cod, Massachusetts câu cá. Ông
Hilsman thảo công điện muốn gửi cho ông
Lodge, nhưng cần TT Kennedy cho phép. Ông chỉ thị
cho phụ tá Forrestal đọc công hàm qua điện
thoại cho TT Kennedy, xin chấp nhận. Đây là đoạn văn quan trọng
nhất của ‘công hàm lịch sử’ (kẻ viết
tạm dịch): “… chúng ta phải cho
cấp lănh đạo quân sự [VN] biết nước
Mỹ sẽ không thể nào tiếp tục giúp đỡ
chính phủ VN bằng quân sự và kinh tế trừ
phi những biện pháp trên [thoả măn
đ̣i hỏi của Phật giáo] được thi hành ngay trong đó phải
có sự loại bỏ ông bà Nhu. Chúng ta muốn cho
Diệm mọi cơ hội hợp lư để
loại bỏ ông bà Nhu, nhưng nếu ông ấy ngoan
cố, th́ chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận
hậu quả tất nhiên là chúng ta không thể
tiếp tục hậu thuẫn Diệm. Ông có thể
cho cấp lănh đạo quân sự [VN] biết chúng ta sẽ trực tiếp hậu
thuẫn họ trong thời gian chuyển tiếp khi
guồng máy chính quyền trung ương đổ
vỡ”. (Phần trong ngoặc […] là phụ chú
của kẻ viết này) Rơ ràng đây là chỉ thị cho đại
sứ Lodge phải áp lực các tướng đảo
chánh lật đổ TT Diệm v́ ai cũng biết không
có cách nào TT Diệm chịu “loại bỏ” ông bà
Nhu hết. TT Kennedy chỉ thị ông Forrestal phải xin
ư kiến của các viên chức cao cấp nhất trong
nội các. Ông Forrestal tuân lệnh, một lúc sau
gọi lại, cho biết tất cả đồng ư, và
TT Kennedy chấp nhận cho gửi công hàm. Ông Forrestal
thật ra đă nói láo. Ông chỉ thông báo và
được sự chấp nhận của một ḿnh
ông Averell Harriman. Qua sáng Thứ Hai, họp nội các khẩn
cấp, bộ trưởng QP McNamara, giám đốc CIA
McCone, và cựu đại sứ Nolting kịch liệt
phản đối, và xác nhận họ không hề
được hỏi ư về công hàm này. TT Kennedy
họp ba ngày liền. Hai phe tranh căi kịch liệt. TT
Kennedy ban đầu tức giận muốn cách chức
hai ông Hilsman và Forrestal, nhưng sau ba ngày tranh căi, đă
đổi ư. Lư do chính là nội dung công hàm đă
được đại sứ Lodge thông báo cho các tướng
lănh ngay sau khi nhận được rồi. Ông Lodge
chủ trương loại bỏ ông Diệm nên mau
mắn chụp cơ hội ông Hilsman tặng. TT Kennedy
đành chấp nhận. Qua ngày 29/8/63, TT Kennedy gửi một công
điện tuyệt mật, chỉ cho đại sứ
Lodge đọc, xác nhận chỉ thị đảo chánh
TT Diệm, để giữ thể diện, chứng
minh đă không có mâu thuẫn trong nội các. Nhưng qua ngày hôm sau, TT Kennedy lại đổi
ư, v́ lo ngại phe đảo chính thất bại v́
lực lượng pḥng thủ Sàig̣n khi đó nằm
trong tay tướng Tôn Thất Đính, là người
của TT Diệm. Đại sứ Lodge trả lời
lại là các tướng lănh VN sẽ đảo chánh
trong vài ngày tới, chậm nhất đầu tháng Chín,
và ông nhấn mạnh với TT Kennedy “Chúng ta đă lao ḿnh vào một
tiến tŕnh không thể quay trở lại trong tự
trọng được”. TT Kennedy trả lời lại là ông, với
tư cách tổng thống, giành quyền quyết định
tối hậu, không có ǵ là “không
quay trở lại được”. Dù
vậy, Đệ Thất Hạm Đội cũng
được điều động tới lănh
hải VN, chuẩn bị di tản thường dân
Mỹ ngay nếu có đánh nhau lớn tại Sàig̣n
giữa phe đảo chánh và TT Diệm. Ngay sau đó,
đại sứ Lodge thông báo lại, cho biết tướng
Dương Văn Minh đă hoăn kế hoạch đảo
chánh, để có thêm thời giờ thu phục tướng
Đính. Kết quả đă đi vào lịch sử: tướng
Đính sau đó tham gia vào cuộc đảo chánh
xẩy ra hai tháng sau, ngày 1/11/63. Qua công điện trên, ta có thể thấy
một cách rơ ràng là chính quyền Kennedy đă
chuyển qua giai đoạn tích cực áp lực các tướng
lật đổ TT Diệm, chứ không c̣n thụ
động chấp nhận hay nhắm mắt cho các tướng
đảo chánh. Phe ‘diều hầu’ chống TT
Diệm trong chính quyền Mỹ đă thắng. Mấy chục năm sau, TT Johnson giải thích
TT Kennedy đă bị ép vào thế phải lật đổ
TT Diệm v́ sự chống đối quá mạnh
của truyền thông đă ảnh hưởng bất
lợi trên dư luận quần chúng Mỹ. Trong vấn đề này, có câu hỏi
lớn là TT Kennedy có ra lệnh giết TT Diệm không.
Các tài liệu từ phiá Mỹ đều cho thấy
TT Kennedy dường như hết sức ngỡ ngàng và
xúc động khi nghe tin TT Diệm đă bị
giết, nghĩa là ông hoàn toàn không ngờ chuyện này
có thể xẩy ra, chứ đừng nói tới
chuyện ra lệnh giết. Tất cả những tài
liệu này thật ra chỉ xuất phát từ phe
muốn bào chữa cho TT Kennedy. Câu chuyện nghe không có lư chút nào. TT Kennedy
không dại ǵ công khai hay chính thức ra lệnh
giết thật, nhưng trong một cuộc đảo
chánh bằng vơ lực, với bên đảo chánh huy
động cả sư đoàn về bao vây đánh
Dinh Gia Long, thật khó tránh được thảm sát.
Hơn nữa, cũng phải hiểu các tướng
đă đặt sinh mạng ḿnh lên bàn cân th́ khó có
thể có giải pháp yên ổn cho TT Diệm được,
nhất là khi c̣n nhiều tướng có vẻ vẫn
sẵn sàng nghe lệnh TT Diệm phản công lại như
các tướng Nguyễn Khánh trên Vùng II và Huỳnh Văn
Cao dưới Vùng IV. Chưa kể lực lượng
nhẩy dù đang bực bội thấy đại tá tư
lệnh Cao Văn Viên bị nhóm đảo chánh bắt
giữ.
TT Kennedy và TT Ngô Đ́nh Diệm Nếu TT Kennedy ngỡ ngàng khi nghe tin TT
Diệm bị giết th́ một là ông quá ngây thơ
đến độ vô lư, hai là ông mần tuồng.
Phải nói là khi ra lệnh cho đại sứ Lodge xúc
tiến giúp các tướng đảo chánh th́ ông
đă biết rủi ro ông Diệm bị giết
rất cao và ông đă chấp nhận rủi ro đó,
cho dù có thể ông đă âm thầm cầu mong cho TT
Diệm được an toàn. Cuộc đảo chánh năm 63 là
một biến cố ‘đổi đời’, làm suy
yếu nền tảng chính trị và quân sự của
chính quyền VNCH, với hậu quả rơ nét nhất là
cấp lănh đạo quân sự VNCH cả mấy năm
sau vẫn bận ‘chỉnh lư’ nhau, mỗi lần
đều thay đổi các tư lệnh và chỉ huy
địa phương như chong chóng để
củng cố vị thế cá nhân, bất cần
hậu quả trên cuộc chiến chống VC v́ ỷ
y cuộc chiến đă có Mỹ lo. Lúc sau này, đă có những tranh luận có
phải TT Kennedy đă muốn rút khỏi Nam VN không. Phe
cho rằng có, đă dựa trên việc TT Kennedy đă
ra lệnh nghiên cứu một kế hoạch rút
khỏi Nam VN để ông cứu xét. Thật ra,
việc ra lệnh này là chuyện b́nh thường v́
TT Kennedy muốn có kế hoạch cho mọi lựa
chọn, không có nghĩa ông muốn rút. Nếu muốn
rút thật, th́ không dại ǵ ông lại phải
hậu thuẫn đảo chánh cho rắc rối.
Chỉ cần ngồi yên rồi ra lệnh bỏ
lấy lư do rất chính đáng ông Diệm đă
mất ḷng dân hay các tướng lo đánh lẫn nhau
không lo đánh VC. Nh́n vào những sự kiện lịch
sử trên, ta thấy rơ ta thua không phải năm 75, mà
đă thua từ năm 63 khi truyền thông thiên tả
Mỹ đổ bộ vào miền Nam tiếp tay cho VC
xoay chuyển dư luận quần chúng Mỹ, và khi TT
Diệm bị lật đổ, hay xa hơn, thua từ
năm 62 khi TT Kennedy phạm sai lầm chiến lược
vĩ đại, kư hiệp ước ngớ ngẩn
‘trung lập hóa’ Lào, biến hành lang Lào thành cả
một hệ thống chằng chịt ‘đường
ṃn HCM’. Nếu TT Eisenhower có công lớn giúp TT
Diệm gây dựng nên một nền tảng tương
đối thịnh vượng và hùng mạnh cho
một miền Nam tự do và độc lập, th́ TT
Kennedy lại là người đă lấy những
quyết định cuối cùng đưa đến
việc mất cả VN vào tay VC. Trong lịch sử
Mỹ, TT Kennedy có lẽ là tổng thống được
đánh bóng, thần tượng hóa quá đáng
nhất, trong khi thực tế chỉ là một tổng
thống ăn chơi trác táng tầm thường,
thất bại v́ sai lầm từ Vịnh Con Heo ở
Cuba tới khủng hoảng hỏa tiễn nguyên
tử với Nga, từ thỏa hiệp Lào tới đảo
chánh TT Diệm. ĐỌC THÊM V́ đề tài B́nh Luận tuần này là
chuyện xưa, nên sẽ không có giới thiệu bài
báo Mỹ nào. Chỉ xin giới thiệu vài cuốn sách
viết về TT Kennedy với vấn đề VNCH. Xin lưu ư sách về chiến tranh VN có
cả chục ngàn cuốn. Diễn Đàn này chỉ có
thể giới thiệu vài cuốn có nhiều chi
tiết liên quan đến chủ đề bài viết
thôi. – The Politics of Deception,
JFK’s Secret Discussions on Vietnam, Civil Rights and Cuba –
Patrick Sloyan – The Lost Mandate of Heaven –
Geoffrey Shaw – Fire In The Lake –
Frances Fitzgerald – The CIA,
Vietnam and The Plot to Assassinate John F Kennedy – L.
Fletcher Prouty – Listening In, The Secret White
House Recordings of John F Kennedy – Ted Widmer – Death In November, America in
Vietnam 1963 – Ellen Hammer – Vietnam, August – December
1963 – Department of State (Tài liệu chính
thức của bộ Ngoại Giao Mỹ, phần
lớn liệt kê các công văn chính thức giữa
Hoa Thịnh Đốn và Ṭa Đại Sứ Mỹ,
kể cả một số công văn của CIA) – Chính Đề Việt
Nam – Ngô Đ́nh Nhu – Huyền Thoại Kennedy –
Vũ Linh viết trên Việt Báo 26/11/2013: https://vietbao.com/a213632/huyen-thoai-kennedy Vũ Linh, 23/4/2022 |