Tại sao chính quyền CSVN vẫn tồn tại?Và
họ c̣n tồn tại bao lâu?
Nam Phương phỏng vấn Gs. Nguyễn Mạnh Hùng |
Hỏi: Dù
có rất nhiều áp lực của quần chúng hơn
bao giờ hết và ngay cả trong nội bộ đảng,
tại sao chính quyền CSVN vẫn tồn tại? Và
họ c̣n tồn tại bao lâu? Hay các áp lực quá
yếu nên sẽ không có ǵ thay đổi? Đáp: Quả
thật chính quyền CSVN đang chịu áp lực thay
đổi ngày càng gia tăng; áp lực ấy c̣n
lớn hơn các áp lực đă làm sụp đổ
các chế độ cộng sản Đông Âu
cuối thập niên 1980. Ở Đông Âu, đó là
kết hợp của đ̣i hỏi tự do dân
chủ với chủ nghĩa dân tộc bởi v́ người
dân cho rằng chính quyền của họ quá lệ
thuộc vào Nga Xô. Hai yếu tố ấy đều
có ở Việt Nam ngày nay, cộng thêm với bất
măn của quần chúng đối với nạn tham
nhũng lan tràn, t́nh trạng bất công xă hội,
khoảng cách giàu-nghèo quá lớn, và bất măn
của nông dân trước hành động chiếm
đất mà không có bồi thường thỏa
đáng của chính quyền đôi khi đẩy người
ta vào t́nh trạng tuyệt vọng. Với những áp
lực ấy, chính quyền cộng sản như
đang ngồi trên một thùng thuôc súng, nó có
thể nổ tung bất cứ lúc nào. Hiện tượng
”tức nước vỡ bờ” chỉ trong ṿng 2
tháng đă làm sụp đổ chính quyển độc
tài ở Tunisia đầu năm 2011 là một đe
dọa thường trực đối với chế
độ hiên hữu ở Việt Nam. Lư
do chính khiến chế độ CSVN tồn tại v́
họ kiểm soát được phương
tiện đàn áp và dám sử dụng phương
tiện ấy. Đó là lư do khiến cho
cuộc tranh đấu của sinh viên Trung Quốc
ở Thiên An Môn năm 1989 và cuộc “cách
mạng áo cà sa” (saffron revolution) ở Miến Điện
năm 2007 bị dập tắt, trong khi các đ̣i
hỏi lật đổ độc tài lai thành công
ở Đông Âu. Nếu
không phải là nhà tướng số và tin tướng
số th́ khó ai dám đoán chắc chính quyến CSVN c̣n
tồn tại được bao lâu, chỉ biết
với những áp lực kể trên, nó không thể
tồn tại măi măi dưới h́nh thức này. Áp
lực thay đổi ở Việt Nam hiện này chưa
đủ mạnh để chính quyền chùn tay trong
việc xử dụng phương tiên đàn áp, nhưng
không đủ mạnh không có nghĩa là nó cứ
yếu măi. Tương quan giữa cố gắng duy tŕ
nguyên trạng và áp lực thay đổi có ảnh hưởng
hỗ tương. Quần chúng càng bất măn th́ áp
lực đàn áp hoặc thay đổi càng gia tăng, đến
một lúc nào đó khả năng kiểm soát phương
tiện đàn áp và ư chí sư dụng phương
tiện ấy sẽ kém đi. Lúc ấy thay đổi
sẽ đến, hoặc bằng thương
thuyết và tương nhượng như trường
hợp Đông Âu, hoăc bạo loạn như trong
“Mùa Xuân Á Rập.” Hỏi: Làm
sao để có dân chủ thực sự ờ
Việt Nam? Đáp: Đây
là một câu hỏi chính đáng nhưng khó có câu
trả lời khiến mọi người thỏa măn.
Vả chăng, nói th́ dễ mà làm th́ khó. Tôi xin
trả lời câu hỏi của ông trong tinh thần
ấy và trong giới hạn sự hiểu biết
của tôi. Hiện
nay, Việt Nam đang sống trong một chế độ
độc tài, độc đảng; nghĩa là không
có dân chủ. Muốn có dân chủ th́ trước
hết phải gỡ bỏ chế độ ấy
đi. Có 4 phương cách chính để thay đổi
chế độ. -Cách
thứ nhất là cải tổ từ bên trên, như
ở Nga dưới thời Gorbachev, Đài Loan dưới
thời Tưởng Kinh Quốc. -Cách
thứ hai
là bẳng điều đ́nh, tương nhượng
(đôi khi xảy ra sau các cuộc biểu t́nh, xuông
đường, và đàn áp), như ở Ba Lan, Hung
Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đại Hàn. -Cách
thứ ba là bẳng bạo loạn bộc phát,
lật đổ như ở Tunisia, Lybia, và Ai Cập.
-Cách
thứ tư có thể, có thể thôi, là bằng
một cuộc nội chiến như đang xảy ra
ở Syria. Kinh
nghiệm chuyển đổi thể chế độc
tài từ Đông Âu, qua Bắc Á dến Trung Đông
cho thấy chuyển đổi qua phương thức
ḥa b́nh dễ dẫn đến dân chủ hơn là
qua bạo loạn v́
bạo loạn, nếu kéo dài, thường tạo
điều kiện cho sự phát triển của
những phong trào quá khích với những lănh tụ
quá khích. V́ thế, tầm nh́n, khả năng, và
sự chọn lựa của nhà lănh đạo chính
quyền đương nhiệm cũng là yếu
tố rất quan trọng trong tiến tŕnh dân chủ
hóa. Lật
đổ hay thay thế được chế độ
độc tài không nhất thiết dẫn đến
chế độ dân chủ. Dân chủ không
phải là hậu quả tự nhiên hay tất yếu
của sự sụp đổ một chính quyền
độc tài. Dân chủ cũng không nhất
thiết là kết quả của một cuộc bàu
cử tự do. Đôi khi cuộc bàu cử tự
do sau cách mạng có thể dẫn đến một
chính phủ do đại đa số bàu lên, nhưng
lại không phải là một chính quyền dân
chủ, như trường hợp Iran dưới các
ayatollahs, và Ai Cập dưới sự lănh đạo
của Muslim Brotherhood . Người ta gọi hiện tượng
này là dân chủ phi tự do (illiberal
democracy). Hơn nữa, dân chủ cũng không
nhất thiết đưa đến một chính
quyền hữu hiệu, một điều kiện
rất cần thiết của một quốc gia
chậm tiến. Những ǵ xảy ra ở Ai
Cập và sự tê liệt của chính quyên Mỹ
trong thời gian gần đây bắt nguồn từ
đ̣i hỏi của các chính trị gia quá khích là
những trường hợp điển h́nh. Việc
xây dựng dân chủ sau thời cộng sản là
một công tác quan trọng và khó khăn chẳng kém
ǵ việc lật đổ chế độ. Vậy,
thế nào là dân chủ, và dân chủ đ̣i hỏi
những điều kiện ǵ? Các
học giả không đồng ư với nhau về
số điều kiện cần có của nền dân
chủ. Có người đề nghị 8 điều
kiện (như Robert A. Dahl), có người đúc
kết thành 3 điều kiện (như Georg Sorensen). Nói
chung, dân chủ đ̣i hỏi những yếu tố
cốt lơi tối thiểu sau đây: 1.
Dân chủ, nói nôm na, là người dân phải làm
chủ ḿnh. Điều này có nghĩa là người
dân có quyền tham dự vào việc làm chính sách
công (public policy) có ảnh hưởng đến
họ. Nhưng, trừ trường hợp trưng
cầu dân ư, không phải lúc nào người dân cũng
có thể trực tiếp tham dự vào việc làm chính
sách chung, cho nên họ phải có quyền bàu người
đại diện cho họ làm chuyện ấy.
Việc này được thực hiện qua thể
thức bàu cử tự do. 2.
Trong cuộc bàu cử này, người dân phải có
sự lựa chọn thực sự. Điều này có
nghĩa là phải có sự cạnh tranh giữa
những người và tổ chức muốn đại
diện cho dân. Chế độ độc đảng
không thể là một chế độ dân chủ. 3. Dân
chủ có nghĩa là chính sách công phải phản ánh
sự lưa chọn của đa số, nhưng
quyền bất đồng chính kiến của
thiểu số phải được bảo vệ, v́
khi hoàn cảnh hay nhu cầu thay đổi, phe
thiểu số hôm nay có thể trở thành đa
số ngày mai. Điều này có nghĩa là các
quyền căn bản của người dân phải
được luật pháp và thủ tục chính
trị bảo vệ. Để
tránh lạc đường vào một nền dân
chủ phi tự do, ba điều kiện tối
thiểu của một nền dân chủ đích
thực là: Bầu
cự tự do, cạnh tranh chính trị, và tôn
trọng các quyền căn bản và bất khả xâm
phạm của người dân. Lư
thuyết là như vậy, nhưng làm thế nào để
áp dụng lư thuyệt ấy vào thực tế? Đối
với những quốc gia chậm tiến về phương
diên chính trị, th́ trong lúc ban đầu, yếu
tố quan trọng nhất là tầm nh́n,
bản lănh, khả năng của các nhà lănh đạo
chính trị. -Đó
là lư do tại sao cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ 1776, dù
các nhà lập quốc không hoàn toàn đồng ư
với nhau về bản chất và quyền hạn
của chính quyền liên bang, vẫn đem đến
ngay một nền dân chủ vững vàng, trong khi
-cuộc Cách Mạng Pháp 1789 phải trải qua
một thời kỳ cực quyền mới đi
đến dân chủ. Gần
đây hơn, cái nh́n sáng suốt và cải tổ chính
trị ngay trong nội bộ Quốc Dân Đảng
của -Tưởng
Kinh Quốc đă giúp cho Đài Loan chuyển đổi
tương đối ôn ḥa từ một chế
độ độc tài sang chế độ dân
chủ. -Ở
Đại Hàn, cạnh tranh và tương nhượng
giữa Roh Tae Woo, Kim Young Sam, và Kim Dae Jung sau những
cuộc biểu t́nh và đàn áp đẫm máu cũng
giúp cho nước này đi từ một chế độ
độc tài sang dân chủ. -Tiến
tŕnh này có thể đang xảy ra ở
Miến Điện. Cuộc
tranh đấu lật đổ chế đô độc
tài có nhiều triển vọng thành công hơn
nếu phong trào chống đối được lănh
đạo bởi một nhân vật có tầm vóc và
trí tuệ, trung thành với quy luật dân
chủ, và được sự ủng hộ
của quần chúng cũng
như sự kính nể, dù miễn cưỡng,
của một số người lănh đạo chính
quyền độc tài, như Vaclav Havel ở Tiệp
Khắc. Càng tốt hơn khi nhân vật này được
hậu thuẫn bởi một lực lượng
có tổ chức và đoàn kết, như Lech
Walesa ở Ba Lan, Nelson Mandela ở Nam Phi, Kim Dae Jung
ở Đại Hàn. Sức
mạnh của tổ chức không những chỉ quan
trọng trong khi tranh đấu mà c̣n ngay sau khi chính
quyền độc tài bị lật đổ.
Nếu những người hay tổ chức tranh
đấu cho dân chủ không đoàn kết , chia
rẽ nhau, và không thu phục được sự
ủng hộ của quần chúng th́ cuộc tranh
đấu của họ dễ bị “cướp tay
trên” bởi những thành phần phản dân
chủ. V́
vai tṛ của nhà lănh đạo lúc đầu quan
trọng như thế, họ thường được
dân chúng thán phục và ủng hộ, và họ dễ
biến thể từ một nhà dân chủ thành
một nhà đôc tài, nếu họ không tự
chế và không có lực lượng ḱm hăm họ. Nước
Mỹ có thể không có những cuộc bàu cử
Tổng Thống đều đặn như ngày nay
nếu George Washington không cương quyết từ
chối mọi đề nghị ông tiếp tục
ứng cử Tổng Thống khi nhiệm kỳ
chấm dứt. Người ta cho rằng sau khi đánh
thắng quận Anh giành độc lập cho nước
Mỹ, tướng George Washington được toàn dân
biết ơn và ngưỡng mộ đến nỗi
họ có thể bằng ḷng cho ông làm vua nước
này, nếu ông muốn. Tuy
yếu tố cá nhân lănh đạo quan trọng như
thế, một nền dân chủ bền vững c̣n
đ̣i hỏi nhà lănh đạo phải xây dựng định
chế mạnh để nó có thể tồn tại
sau khi ḿnh rời chính quyền và có khả năng
duy tŕ ổn định chính trị dù dưới
một nhà lănh đạo không xuất chúng. Đó là
lư do tại sao Mustafa Kemal được ghi công là
người không những đă đem lại độc
lập và canh tân cho Thổ Nhĩ Kỳ mà c̣n lập
ra một đảng chính trị, Đảng Cộng
Ḥa Nhân Dân (Republican People’s Party) và cho phép sự thành
lập một đảng đối lập, Đảng
Cộng Ḥa Cấp Tiến (Progressive Republican Party) làm
nền móng cho chế độ đa đảng
tiếp tục sứ mệnh canh tân đất nước
sau khi ông qua đời. Đó
là những bài học lịch sử, nó có thể giúp
cho người ta tránh được những lỗi
lầm. Đó là lư thuyết. Áp dụng lư thuyết
như thề nào để đem đến dân
chủ đích thực và bền vững cho Việt
Nam tùy thuộc vào khả năng, tầm nh́n, và
sự chọn lựa của các nhà tranh đấu cũng
như của các nhà lănh đạo chính quyền
đượng nhiệm.
|