Tám mươi năm (80) làm nhân chứng cho một giai đoạn lịch sử Việt Nam (1) Trần B́nh Nam |
Tôi
sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933. Đến ngày 17 tháng 7 năm
2013 tôi được 80 tuổi chẵn, tôi quyết
định thôi không bàn về thế sự nữa và
để th́ giờ luận bàn về các vấn
đề liên quan đến nhân sinh (*). Tám
mươi năm, một quảng đường dài
và tùy theo hoàn cảnh của từng cá nhân và
biến chuyển của xă hội có thể chỉ là
một phút thoáng qua như một cái chớp mắt,
nhưng cũng có thể là một cuộc sóng gió
của một đời người . Ai
là người Việt Nam sinh ra và đă sống trong
khoảng thời gian 80 năm đó đều
phải trải qua những sóng gió lịch sử trên
đất nước Việt Nam như tôi. Tôi sinh ra
khi người Pháp bắt đầu củng cố
chế độ thuộc địa tại Đông Dương.
Lớn lên được giáo dục nửa Tây
nửa ta, trong khi toàn quốc đang kinh qua cuộc kháng
chiến đánh đuổi người Pháp. Người
Pháp thua trận rút về. Việt Nam chia đôi.
Miền Bắc cho phe Cộng, miền Nam cho người
quốc gia. Người Mỹ đến giúp người
quốc gia chận đứng ư đồ xích hóa
miền Nam của cộng sản. Chiến tranh dai
dẳng kết thúc năm 1975 với phe cộng toàn
thắng. Hằng trăm ngàn người từ
miền Nam bỏ nước ra đi t́m tự do gây
ra một làn sóng tị nạn lớn chưa từng
có trong lịch sử Việt Nam. Là
một trong những thuyền nhân rời bỏ
Việt Nam trong màn chót của bi kịch Việt Nam, tám
mươi năm qua tôi đă là một nhân chứng
bất đắc dĩ cho thảm kịch Việt Nam
. Những
ǵ tôi viết sau đây là lời một nhân
chứng của một tấn thảm kịch mà trong
đó những người thuộc thế hệ tôi
từng chia sẻ. Lời chứng có thể vui hay
buồn, có thể hợp nhĩ với lớp người
này và không hợp nhĩ với lớp người
kia tùy theo chỗ đứng của mỗi người,
nhưng tôi bảo đảm một điều là tôi
làm chứng cho sự thật ít nhất từ chỗ
đứng của tôi. **
Trần B́nh Nam ** *** Thiếu
thời: Ḍng
dơi họ Trần tôi xuất phát từ tỉnh Sơn
Nam, Bắc Việt (nay là Nam Định, hướng
đông nam thành phố Hà Nội 74km). Gia phả ghi
rằng trong thập niên 1530s cố tổ tôi chống
họ Mạc theo ông Nguyễn Kim vào Thanh Hóa, và năm
1558 theo Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim) đi sâu hơn
vào miền Nam. Cố
tổ tôi là sĩ quan cấp nhỏ của Chúa
Nguyễn, được Chúa Nguyễn cấp
ruộng đất tại làng Thành Trung (cách Huế
30km) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên. Thành Trung trở thành chánh quán của
họ Trần Văn. Vào thế kỷ thứ 19, con cháu
họ Trần đa số trở thành nông dân
sống với ruộng đất. Thập
niên 1910, người Pháp mở trường Bá Công
ở Huế (Bá Công là trăm
nghề) để đào tạo cán sự trung
cấp cho các ngành điện lực, điện
thoại, điện báo, hỏa xa và hành chánh. Ông
nội tôi xin cho Ba tôi vào học trường Bá Công.
Ở Huế Ba tôi gặp Mẹ tôi và hai người
xây tổ ấm trên một khoảnh đất trong vườn
nhà của ông ngoại tôi ở Phường Đúc.
Ông ngoại tôi thuộc ḍng quận công Lê Chất,
một trong những viên tướng đă giúp vua Gia
Long đánh bại nhà Tây Sơn thiết lập nên
triều đại nhà Nguyễn vào đầu thế
kỷ 19. Tôi
là con út trong gia đ́nh, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933, có
hai anh và hai chị. Ba tôi cho con trai đi học. Hai
chị tôi ở nhà giúp Mẹ buôn bán và bếp núc
theo truyền thống các gia đ́nh Việt Nam
thời đó. Hai chị tôi chỉ biết đọc
chữ quốc ngữ . Anh
cả tôi, Trần Văn Bách bị lính Pháp bắn
chết năm 1946 lúc 18 tuổi tại Bến Cát,
Thủ Dầu Một khi Pháp theo chân quân Anh trở
lại Việt Nam sau một thời gian bị Nhật
đảo chánh. Thời
gian “toàn quốc kháng chiến” bắt đầu
từ cuối năm 1946, gia đ́nh tôi tản cư
về Thành Trung. Đầu năm 1947 sau khi quân Pháp tái
chiếm Huế, ba mẹ tôi hồi cư trở
về Phường Đúc. Ba tôi làm nghề xây
cất, Mẹ tôi buôn bán với chị áp tôi.
Chị đầu đă đi lấy chồng. Tôi
được vào học lớp nhất trường
tiểu học Trần Quốc Toản . Năm
1948 tôi thi đậu kỳ thi tuyển vào học trường
Trung học Khải Định. Chương tŕnh trung
học gồm 7 năm và
muốn tốt nghiệp trung học học sinh
phải qua 3 kỳ thi. Kỳ thi trung học sau 4 năm.
Hai năm sau thi Tú tài I và năm cuối thi Tú Tài II. Năm
1950 anh thứ nh́ tôi, Trần Thanh Dương đi kháng
chiến chống Pháp. Lúc đầu ra Vinh thuộc
tỉnh Nghệ An học trung học, sau đó vào khu
5 thuộc tỉnh B́nh Định. Sau khi kư hiệp
định Genève, anh không ở trong thành phần
tập kết ra Bắc, trở về Huế mang theo
vợ và 4 con. Chị đầu tôi chết v́
bệnh ung thư năm 1980. Hiện nay tôi c̣n một
ông anh và một bà chị đều trên 80 tuổi.
Anh tôi sống ở Nha Trang, chị tôi sống ở
Huế . Trong
hai năm 1954-55, quân đội Pháp rút dần ra
khỏi Việt Nam, người Mỹ đến giúp
củng cố chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ông
Diệm đối mặt với nhiều khó khăn.
Các giáo phái Ḥa Hảo, Cao Đài với sự
tiếp tay của các tướng Nguyễn Văn Hinh,
Nguyễn Vỹ thân Pháp hoạt động gây
bất ổn tại Sài G̣n. Tuy vậy ông Diệm,
với sự giúp đỡ của người Mỹ
đă ổn định t́nh h́nh và định cư
được khoảng một triệu người dân
miền Bắc, đa số là tín đồ Thiên chúa
giáo trốn chạy cọng sản. Ông Diệm tổ
chức trưng cầu dân ư truất phế Bảo
Đại, quốc trưởng bù nh́n do Pháp dựng
nên và thành lập nước Việt Nam Cộng Ḥa
(VNCH). Năm
1954, sau khi đổ Tú tài I tại Huế, tôi vào Sài
g̣n theo học trường Cao đẳng Vô Tuyến
Điện, đồng thời tự luyện thi Tú Tài
II để hoàn tất chương tŕnh trung học. Thời
gian đó, thanh niên đến tuổi đều
phải nhập ngũ nên học sinh lớp cuối
trung học và đại học ai cũng t́m một
đường để đi. Tôi thi đỗ
kỳ thi tuyển của Hải quân VNCH tuyển
mộ sinh viên sang học tại trường Hải
quân Pháp. Chương tŕnh này do người Pháp
viện trợ. Cuộc tuyển mộ năm 1955 là
cuộc tuyển mộ cuối cùng. Tôi theo học khóa
đào tạo kỹ sư Hải quân. Chương tŕnh
học 3 năm. Hai năm đầu học tại trường
Sĩ Quan Hải quân ở Brest, trong tỉnh Finistère, bên
bờ Đại Tây Dương. Năm thứ ba các
sinh viên, lúc này đă lên Thiếu úy, sẽ được
đi thực tập một năm trên chiến
hạm Jeanne d’Arc chạy ṿng quanh thế giới để
các tân sĩ quan có cơ hội tiếp xúc với các
quốc gia khác. Khóa
tôi, học xong năm
thứ hai cuối năm 1957 vào lúc quan hệ giữa
chính quyền VNCH và Pháp trở nên căng thẳng,
Hải quân Pháp gởi trả chúng tôi về Sài g̣n. Tôi
được bổ nhiệm đến Hải Vân
Hạm Hát Giang (HQ 400). Vài tháng sau chuyển qua Hộ
Tống Hạm Đống Đa (HQ 03). HQ 03 sắp
sửa đi Subic Bay, một căn cứ sửa
chữa tàu bè của Hạm đội 7 Hải quân
Hoa Kỳ để đại tu bổ. Tháng
6 năm 1958, tàu c̣n ở Subic Bay, tôi được
lệnh thuyên chuyển đến Trung Tâm Huấn
Luyện Hải Quân tại Nha Trang (TTHL/HQNT). Trung tâm
huấn luyện này do Hải quân Pháp xây cất năm
1952 để đào
tạo binh sĩ Hải quân gồm sĩ quan và
thủy thủ các ngành chuyên nghiệp để làm
việc với Hải quân Pháp, và vừa được
chính thức chuyển giao cho Hải quân Việt Nam. Trường
SQHQ là một trong những trường thuộc
TTHL/HQNT. Tháng 10 /1958 tôi
đến đơn vị mới. Lúc đó trường
đang huấn luyện khóa 8 SQHQ. Việt ngữ
được dùng làm chuyển ngữ
thay v́ dùng chữ Pháp như các khóa trước.
Cuốn “Danh từ Khoa
học” Pháp ngữ - Việt ngữ của giáo sư
Hoàng Xuân Hăn đă giúp chúng tôi nhiều trong việc
biên soạn tài liệu huấn luyện. Nhưng các môn
học Hải quân cần nhiều danh từ kỹ
thuật hơn nên chúng tôi hết sức chật
vật đánh đu với chữ nghĩa chuyên môn. Tôi
phục vụ Hải quân 16 năm và làm việc liên
tục tại TTHL/HQNT
13 năm, dưới quyền của 8 trong 9 vị
Chỉ huy trưởng của Trung tâm từ ngày thành
lập cho đến khi kết thúc chiến tranh (**).
Tôi đến Nha Trang với cấp Thiếu úy và
giải ngũ ở cấp Trung Tá năm 1971 sau khi
đắc cử dân biểu đại diện thành
phố Nha Trang tại Quốc hội VNCH khóa
2.
Tôi
kết hôn với Nguyễn Thị Phương
Thảo năm 1959 và lúc giải ngũ tôi có 5 người
con: 2 trai, 3 gái tất cả đều sinh ra và
lớn lên tại Nha Trang. Tại
Quốc hội Bản
Hiến pháp Đệ nhị Cộng ḥa công bố ngày
18/3/1967 ấn định tổ chức bầu cử
Tổng thống và Thượng nghị viện,
Hạ nghị viện vào cuối năm. Hai tướng
Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ ra
ứng cử trong một liên danh tổng thống - phó
tổng thống và đắc cử nhiệm kỳ
1967-1971. Ông Kỳ chịu đứng phó cho ông
Thiệu với lời hứa của ông Thiệu giao
Quốc hội cho Kỳ kiểm soát. Kỳ định
dùng Quốc hội xây dựng thế chính trị cho
ḿnh, nhưng sau đó
Thiệu đă khéo léo lấy hết quyền của
Kỳ. Vào cuối nhiệm kỳ 1967-1971 Thiệu
nắm chắc hành pháp trong tay và đàn em của
Thiệu trong Quốc
hội cũng lấn áp ảnh hưởng của
Kỳ. Tại
Quốc hội tôi gia nhập khối đối
lập Dân Tộc Xă Hội (DTXH) . Khối DTXH gồm
hai nhóm chính trị: Dân Tộc và Xă Hội. Nhóm
Xă Hội thành lập trong pháp nhiệm 1967-1971
gồm các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng
(VNQDĐ) do dân biểu Phan Thiệp cầm đầu
và một số dân biểu độc lập có khuynh
hướng Phật giáo và một vài dân biểu khác
trong vùng Sài g̣n, Gia Định như bác sĩ Hồ
Văn Minh, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận … Nhóm Xă
Hội chống khuynh hướng độc tài
của tổng thống Thiệu . Nhóm
Dân Tộc gồm các dân biểu được giáo
hội Phật giáo ủng hộ. Giáo hội Phật
giáo tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội năm
1967, nhưng quyết định tham dự cuộc
bầu cử năm 1971 và giúp 19 dân biểu đa
số gốc miền
Trung vào quốc hội, trong đó có tôi đắc
cử tại thị xă Nha Trang. Hai dân biểu uy tín
nhất là Lê Đ́nh Duyên và Lư Trường Trân. Hai
nhóm Xă Hội và Dân Tộc là ṇng cốt của
khối đối lập DTXH gồm 29 dân biểu.
Trong khối c̣n có các dân biểu thuộc nhóm tướng
Dương Văn Minh như Hồ Ngọc Nhuận,
Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Lư Quư Chung và 3
dân biểu độc lập: Trần Văn Tuyên
ở Sài g̣n, Đinh Xuân Dũng ở Phan thiết và
Trần Cao Đễ ở Vũng Tàu .
Lúc đầu, giáo hội Phật Giáo định
ủng hộ Lê Đ́nh Duyên làm trưởng
khối. Duyên là con trai của bác sĩ Lê Đ́nh Thám,
người chấn hưng phong trào Phật giáo
tại miền Trung trong thập niên 1930. Các nhà lănh
đạo Phật giáo như Thượng tọa Thích
Trí Quang, Thích Thiện Minh và hấu hết các nhà lănh
đạo Phật giáo đương thời đều
do chương tŕnh chấn hưng của bác sĩ Thám
đào tạo . Nhưng
sau cùng các vị lănh đạo Phật giáo ủng
hộ luật sư Trần Văn Tuyên
làm trưởng khối. Tuyên sinh năm 1913
tại tỉnh Tuyên Quang, Bắc Việt, phía bắc Hà
Nội 128 km. Ông gia nhập
VNQDĐ năm 16 tuổi,và sau khi tốt
nghiệp cử nhân luật tại Hà Nội ông
được bổ nhiệm tri huyện tại
tỉnh Tuyên Quang. Nhưng ông từ chức sớm
về Hà Nội
dạy học tại trường trung học tư
thục Thăng Long. Ông Vơ Nguyên Giáp đang dạy
Sử tại đó và hai người quen biết nhau.
Nhưng hai người đi theo hai con đường
chính trị khác nhau và trở thành địch thủ
nhau cho đến năm1975, Giáp trở thành kẻ
chiến thắng, Tuyên chết trong tù. Tuyên là một
trong những nhân vật kư tên vào bản Tuyên ngôn
Caravelle năm 1960 (2) kêu gọi tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm cải tổ và bị ông
Diệm cầm tù. Sau
khi Diệm bị lật đổ, ông Tuyên trở thành
Phó thủ tướng cho Thủ tướng Phan Huy Quát.
Nhưng chỉ trong 4 tháng (tháng 2 đến tháng 6-
1965), Quát không chịu nổi áp lực của quân nhân
từ chức trao quyền cho các ông tướng. Tuyên
trở về hành nghề luật sư, sau đó
được bầu làm thủ lănh Luật sư
đoàn. Ông ra ứng cử dân biểu nhiệm
kỳ 1971-1975 và đắc cử tại Saigon – Gia
Định đại diện hai Quận 1 & 3. Quyết
định ủng hộ ông Tuyên làm trưởng
khối DTXH là một quyết định chính trị
khôn khéo của giáo hội Phật giáo. Tuyên đă gíúp
giữ cho khối đối lập không tan rả trước
nhiều lực xâu xé.
Trước hết, tổng thống Thiệu không
muốn làm việc với đối lập mà ông cho
là thân Cộng; thứ hai là nỗ lực của
cộng sản độn nhập vào để thao túng;
và sau cùng Hoa Kỳ không có một chương tŕnh giúp
xây dựng dân chủ v́ mục tiêu của Hoa Kỳ
vào thời gian đó là chấm dứt chiến tranh và
rút quân. Trong
nhiệm kỳ 1967-71 Thiệu
gạt bỏ ảnh hưởng chính trị
của Kỳ. Trong nhiệm kỳ 2 (1971-75) Thiệu
chọn ông Trần Văn Hương đứng phó.
Hương là một giáo sư trung học, nguyên
hội trưởng Hội Hồng Thập Tự
Việt Nam và có thời làm Đô trưởng Sài g̣n.
Ông Hương có uy tín với nhóm Liên trường,
gồm các cựu học sinh các trường Trung
học lớn ở Nam
bộ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm
1971, liên danh Thiệu
– Hương ra tranh
cử một ḿnh v́ vào phút chót cả hai ứng
cử viên Dương văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ
đều rút tên. Tuy nhiên với sự ủng hộ
của Hoa Kỳ, ông Thiệu vẫn theo đường
lối cứng rắn.
Lập trường của khối DTXH đối
với cuộc thương thuyết tại Paris là
đạt được một thỏa ước chính
trị dựa trên nguyên tắc dân tộc tự
quyết để nhân dân miền Nam tự chọn
lấy chế độ chính trị của ḿnh. Nhưng
Tuyên biết sự việc không đơn giản như
vậy. Ông nghi ngờ chương tŕnh thương
thuyết của tổng thổng Nixon và bộ trưởng
Ngoại giao Henry Kissinger. Năm 1972 ông Ronald Reagan có công
việc riêng tạt qua Sài g̣n đến thăm Tuyên
để đáp lễ chuyến thăm của Tuyên năm
1965 tại Sacramento. Năm 1965 Tuyên là Phó thủ tướng
đi công cán và ông Reagan đang làm thống đốc
bang California. Trong một buổi họp Khối Tuyên
cho biết ông Reagan hỏi theo ư ông th́ nên chấm
dứt cuộc chiến Việt Nam bằng cách nào. Qua
câu chuyện với ông Reagan Tuyên có cảm tưởng
Hoa Kỳ sẽ đi đến một thỏa ước
chấm dứt chiến tranh bất lợi cho VNCH.
Khối DTXH ủng hộ lập trường của
tổng thống Thiệu là không chấp nhận
một thỏa ước không có điều khoản
buộc quân đội Bắc việt phải rút
về miền Bắc cùng một lúc với quân đội
Hoa Kỳ và đồng minh. Tuy
nhiên dưới áp lực cắt viện trợ đi
đôi với lời hứa của tổng thống
Nixon sẽ can thiệp quân sự mạnh mẽ -
nếu Hà nội vi phạm thỏa ước tung quân
đánh miền Nam - Thiệu
miễn cưỡng đồng ư kư Hiệp
định Paris ngày 27/1/1973. Hiệp định không
bắt buộc quân đội Bắc Việt rút quân. Trước
Tết Nguyên Đán Quư Sửu, nhằm ngày 2/2/1973
khối DTXH tuyệt thực trước thềm
quốc hội phản đối Hoa Kỳ kư kết
hiệp định Paris. Tuyên nói Hiệp định này
sẽ làm miền Nam mất vào tay cộng sản.
Về mặt thực tế, c̣n nước c̣n tát,
Tuyên thuyết phục hai bên thi hành nghiêm chỉnh
Hiệp định, cho rằng đó là cách duy
nhất để cứu miền Nam. Do đó khối
DTXH ủng hộ và đứng ra thành lập Lực
lượng Thứ ba tham gia Hội
đồng Ḥa hợp Ḥa giải Dân tộc ba thành
phần quy định bởi Hiệp định và
có nhiệm vụ tổ chức bầu cử. Tuy nhiên,
hai bên tiếp tục vi phạm hiệp định
bằng cách lấn đất giành dân và Hội đồng
Ḥa Hợp Ḥa giải Dân tộc chưa bao giờ
được h́nh thành. Tuyên
từng tham gia cuộc thương thuyết tại Genève
chấm dứt chiến tranh Pháp- Việt chia đôi
Việt Nam năm 1954. Ông biết cộng sản
sẽ không ngừng tay chừng nào họ chưa
chiếm được miền Nam, và muốn tồn
tại không có phương cách nào khác hơn là xây
dựng một miền Nam dân chủ có một nền
kinh tế tự lập vững mạnh. Tuyên
nghĩ nếu Nam Hàn có thể đứng vững trước
tham vọng thôn tính của cộng sản Bắn Hàn
tại sao miền Nam Việt Nam lại không?
Hơn nữa VNCH c̣n nhận được
nhiều viện trợ của Hoa Kỳ hơn Nam Hàn.
Nhưng ông cũng biết có một khác biệt quan
trọng. Hoa Kỳ muốn rời Nam Việt Nam, trong
khi họ muốn ở lại Nam Hàn. C̣n nữa, Nam
Việt Nam không có người lănh đạo vững
vàng như ông Pak Chung Hee. Tổng thống Thiệu và
các tướng lănh của ông đều xuất thân
từ ḷ đào tạo quân sự của người
Pháp mục đích để phục vụ nỗ
lực Pháp trở lại Việt Nam chứ không
phải để tranh đấu cho nền độc
lập của đất nước. Trong
khi đó khối DTXH gồm 3 nhóm đồng sàng
dị mộng. Nhóm thân Phật giáo chống Thiệu,
nhóm Quốc Dân Đảng lo xây dựng lực lượng
và thanh thế cho đảng, nhóm thân tướng Dương
Văn Minh có chương tŕnh ủng hộ ông Minh
trở lại nắm quyền. Nhờ uy tín của Tuyên
Khối DTXH mới không tan ră. Ngoài ra Tuyên c̣n liên minh
với một thành phần Công giáo do linh mục
Trần Hữu Thanh cầm đầu để
chống tham nhũng và đ̣i nới lỏng chế
độ kiểm duyệt báo chí. Tuyên
biết t́nh thế rất khó khăn. Ông trăn
trở t́m gỉải pháp. Ông nghĩ
đến quan hệ quốc tế; ông nghĩ
đến việc ủng hộ tướng Minh thay
Thiệu … Thế địa lư chính trị vào
thời gian đó cho thấy miền Nam có thể
sống c̣n v́ Trung quốc không muốn một
Việt Nam thống nhất. Cái lo của Trung quốc
là sự hiện diện của quân đội Mỹ
ở biên giới phía nam th́ sau hiệp định
Paris Mỹ đă rút hết. Nhưng
con đường ủng hộ tướng Minh để
chấm dứt chiến tranh trong ḥa b́nh là một con
đường ảo tưởng. Sau khi kư hiệp
định Paris, Hoa Kỳ chỉ muốn yên ổn rút
quân không bị quân đội VNCH ngăn cản. Và
giải pháp Dương Văn Minh h́nh như là
một “âm mưu” bất thành văn giữa Hà
Nội và Hoa Kỳ do ṭa đại sứ Hoa Kỳ
tại Sài g̣n đạo diễn . Đường
lối ủng hộ tướng Minh giải thích
tại sao vào tháng 2 năm 1975 có một điện tín
từ khối DTXH đánh đi từ Sài g̣n gởi
cho quốc hội Mỹ yêu cầu đừng
chấp thuận $300 triệu mỹ kim viện trợ
cho VNCH. Sự thật là đầu năm 1975, tổng
thống Ford yêu cầu quốc hội giải tỏa
ngân khoản đó, nhưng quốc hội Hoa Kỳ
không muốn viện trợ nữa và câu giờ
bằng cách cử một phái đoàn dân biểu
đi Sài g̣n để xem xét t́nh h́nh. Nhóm này gồm
bà dân biểu Bella Abzug và Paul McClosky, hai dân biểu
chống chiến tranh mạnh mẽ nhất tại
quốc hội . Đến Saig̣n, bà Abzug tiếp xúc
với Hồ Ngọc Nhuận, - một dân biểu có
cảm t́nh với Mặt Trận Giải Phóng
miền Nam và là người tích cực ủng hộ
giải pháp Dương Văn Minh thay Thiệu – và nói
với Nhuận rằng trong mọi trường
hợp quốc hội Hoa Kỳ cũng sẽ không
giải tỏa ngân khoản này. Nhuận xem đây là
cơ hội tốt épThiệu hợp tác với Minh
để t́m một giải pháp chung, nên sau khi
thảo luận với một số dân biểu thân tướng
Minh họp tại tư thất tướng Minh,
Nhuận thảo một điện văn và thuyết
phục một số dân biểu khối DTXH kư vào
gởi cho quốc hội Hoa Kỳ. Nh́n lại nếu
Hoa Kỳ viện trợ thêm 300 triệu mỹ kim vũ
khí vào lúc muộn màng đó cũng không cứu
được miền Nam nếu không muốn nói
chỉ làm cho cuộc chiến kéo dài thêm vài tuần
lễ hay vài tháng và thêm tổn thất nhân mạng
cho cả hai bên. Hà
nội mở mặt trận đánh qua biên giới phía
bắc năm 1972 chiếm tỉnh Quảng Trị và
uy hiếp thành phố Huế, đồng thời
đánh vào cao nguyên miền Trung và tạo áp lực vào
thủ đô bằng mặt trận B́nh Dương
phía bắc Sài g̣n. Quân đội VNCH chận
được cuộc tiến quân của Bắc
Việt trên cả ba
mặt trận, và tổng thốngThiệu đă nhân
t́nh h́nh căng thẳng ép Quốc hội thông qua Luật Ủy quyền cho phép Tổng thống cai
trị bằng sắc luật trong một thời gian
giới hạn. Với Luật Ủy quyền,
tổng thống Thiệu được tự do hành
động không c̣n lo ngại tiếng nói của
đối lập. Năm
1974 Thiệu tu chính Hiến pháp để ông có
thể ra ứng cử nhiệm kỳ thứ 3
(1075-79). Lập luận của Thiệu là t́nh h́nh
đang khẩn trương, “không
ai thay ngựa giữa ḍng”. Cộng quân chiếm
đất ǵành dân khắp nơi, trong khi Hoa Kỳ
tiếp tục cắt giảm viện trợ, ngay
cả căn bản “một đổi một” theo hiệp định
Paris cũng không
được tôn trọng. Khối DTXH chống
Luật Ủy quyền và tu chính Hiến Pháp. Nhưng
tin Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng
Sa của VNCH ngày 19/1 đă làm cho mọi tiếng nói
chống đối trở nên mờ nhạt. Câu
chuyện Trung quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974 vào
thời điểm đó rất lờ mờ (3).
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngoài khơi
khoảng 380 km cách Đà Nẵng và được
một đơn vị địa phương quân
VNCH trấn giữ. Tổng thống Thiệu không thông
báo ǵ cho quốc hội biết t́nh h́nh căng
thẳng ngoài hải đảo. Quốc hội
biết khi tin tức quốc tế loan tải Trung
quốc đă chiếm Hoàng Sa sau một trận
hải chiến với Hải quân VNVH . Tổng
thống Thiệu là người đích thân ra
lệnh nổ súng bảo vệ Hoàng Sa mà không thông báo
cho ṭa đại sứ Hoa Kỳ biết như
một thông lệ khi
ông có những quyết định quan trọng. Biến
cố Hoàng sa diễn ra trong khi hạm đội 7
của Hoa Kỳ có mặt quanh đó, nhưng không can
thiệp, ngay cả khi bộ Tư lệnh Hải quân
Việt Nam yêu cầu
cứu thủy thủ chiến hạm HQ 10 bị đánh
ch́m đang trôi dạt trên biển, Hoa Kỳ cũng làm
ngơ. Hoa Kỳ có thể biết kế hoạch
đánh chiếm Hoàng Sa của Trung quốc và đắc
ư với kế hoạch này. Hoa Kỳ biết Hà
nội sẽ chiếm miền Nam, nên nếu Hoàng Sa
nằm trong tay Trung quốc c̣n hơn nằm trong tay Hà
Nội, v́ Nga – một đồng minh của miền
Bắc- có thể xử dụng để từ
Biển Đông ḍm ngó eo biển Malacca dẫn vào Thái
B́nh Dương. Có nhiều chỉ dẫn cho thấy
h́nh như có một thỏa thuận ngầm giữa
Hoa Kỳ và Trung quốc để Trung quốc
chiếm Hoàng Sa trước khi Sài g̣n sụp đổ
(4) . Ngày
27/4/1975 đối lập rơi vào một trường
hợp khó xử khi lưỡng viện quốc
hội thảo luận một văn bản cho phép
tổng thống Trần Văn Hương
(vừa được Thiệu từ chức trao
quyền) giao quyền
tổng thống cho tướng Dương Văn Minh.
Bản văn trên nguyên tắc vi phạm Hiến pháp
v́ không có điều khoản nào cho phép một
sự trao quyền như vậy, nhưng quốc
hội không có sự chọn lựa nào khác. Năm Sư
đoàn quân cộng sản với xe tăng và
trọng pháo đang vây hăm Sài g̣n và cho biết
họ chỉ nói chuyện với tướng Minh
về gỉải pháp thành lập chính phủ liên
hiệp để chấm dứt chiến tranh. Trước
giờ biểu quyết, dân biểu Trần Cao Đễ
nói với Tuyên rằng quốc hội đang vi
phạm Hiến pháp. Tuyên trả lời: “Chúng ta hy
sinh Hiến pháp để cứu nước”. Nh́n
lại, quyết nghị nhường quyền chỉ
là một sự “câu giờ” do đại sứ Pháp
Merillon và đại sứ Hoa Kỳ Martin đạo
diễn để ṭa đại sứ Hoa Kỳ có th́
giờ rút đi an toàn. Trong
nhiệm kỳ 1967-71 tại quốc hội xem như
không có đối lập, ngoại trừ hai dân
biểu Trần Ngọc Châu và Phan Thiệp trong nhóm Xă
Hội. Châu là một dân biểu độc lập
đại diện tỉnh Kiến Ḥa, nơi ông hai
lần làm tỉnh trưởng, lần đầu dưới
thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, lần
thứ hai sau khi Diệm bị lật đổ. Châu
bất đồng ư kiến với cố vấn Hoa
Kỳ về cách
thức điều hành chương tŕnh “b́nh định
nông thôn” và ra ứng cử dân biểu để có
tiếng nói đối với các vấn đề
quốc gia. Châu không minh thị chống Thiệu và
chống Kỳ và được ông chủ tịch
quốc hội Nguyễn Bá Lương, người
của Kỳ, ủng hộ vào chức vụ Tổng
Thư Kư quốc hội. Châu
là bạn quân ngũ với Thiệu, nhưng làm
việc chặt chẽ với ṭa đại sứ Hoa
Kỳ, nên Thiệu nghi Châu tạo thanh thế riêng
để chống ḿnh. Sai lầm lớn của Châu là
tiếp xúc với ông anh ruột Trần Ngọc
Hiền, một điệp viên cao cấp của Hà
nội mà không báo cáo cho Thiệu biết. Châu chỉ
báo cáo cho ṭa đại sứ Hoa Kỳ để che
lưng. Khi Hiền bị bắt sự việc vỡ
lở, Hoa Kỳ không xác nhận Châu có cho ṭa đại
sứ biết và Thiệu có cớ bắt Châu
đưa ra ṭa án quân sự xử 20 năm tù. Lúc
đó Thiệu đă quét hết tay chân của Kỳ
trong quân đội và trong bộ máy hành chánh. Sau khi
bỏ tù Châu, ông Thiệu có thế nắm luôn
quốc hội . Cuộc
bầu cử dân biểu nhiệm kỳ hai, 1971-75,
tổ chức tương đối dân chủ. Ngoài
việc nắm hết phiếu của miền cao nguyên
và đồng bằng sông Cửu Long, Thiệu để
cho các ứng cử viên các tỉnh miền Trung và vùng
Sàig̣n – Gia Định tự do tranh cử. Phật giáo
và VNQDĐ thắng lớn tại các tỉnh miền
Trung; nhóm Liên trường ủng hộ tướng
Minh và một số thân Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam thắng tại vùng thủ đô. Sau
bầu cử nhóm các dân biểu này trở thành ṇng
cốt đối lập . Nhiệm
kỳ 2, tại quốc hội có hai khối Dân
Chủ và Cộng Ḥa
thân chính, có khối DTXH đối lập, có nhóm
Quốc gia trung lập. Đối
lập tự do phát biểu
ư kiến trước diễn đàn Quốc
hội, nhưng đối lập không có phiếu
đa số để thông qua một bộ luật nào.
Phiếu đa số nằm trong tay các dân biểu thân
chính và được dùng để thông qua các
bộ luật ông Thiệu cần. Ông Thiệu không
chịu làm việc với đối lập. Ông cho
đối lập là vô tích sự bị thao túng
bởi các nhóm chống chiến tranh và thân cộng.
Ông không hy vọng ǵ vào sự lănh đạo của
Tuyên. Tiếng
nói của đối lập do đó không có ảnh hưởng
ǵ. Trong khi đó Hoa Kỳ có ảnh hưởng đến
toàn bộ sinh hoạt của miền Nam từ xă
hội, kinh tế đến quân sự. Nhưng ṭa
đại sứ Hoa Kỳ cũng xem đối
lập như một món hàng trang trí, một thứ b́nh
phong bênh vực Thiệu trước sự tố cáo
của báo chí là Hoa Kỳ dung dưỡng ông
Thiệu độc tài. Thời Đệ nhị
Cộng Ḥa là thời gian Hoa Kỳ quá bận tâm vào
việc chấm dứt chiến tranh. Ṭa
đại sứ Hoa Kỳ quan hệ với đối
lập qua việc tiếp xúc với Tuyên. Ông có tên
trong danh sách khách mời tham dự các sinh hoạt có tính
chính trị và quan hệ xă hội (PR) của ṭa
đại sứ và cũng là khách của các viên
chức quan trọng tại ṭa đại sứ Hoa
Kỳ. Tuy nhiên trong các buổi họp hằng tuần
của Khối, ông ít khi nói đến các cuộc
tiếp xúc này. Có lẽ v́ chẳng có ǵ để nói. Yếu
tố chính của sinh hoạt dân chủ què quặt v́
người Việt chưa có truyền thống sinh
hoạt dân chủ. Cho đến thời điểm
đó Việt Nam chưa từng có kinh nghiệm dân
chủ. Không kể
thời phong kiến, thời gian chiến tranh chống
Pháp giành độc lập (1946-54), một bên là
Cộng sản, một bên là Việt Nam tự do thân
Pháp có cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng
với một ủy viên toàn quyền người Pháp
quyết định mọi việc. Dưới Đệ
Nhất Cộng Ḥa, Việt Nam có một Hiến pháp
dân chủ nhưng chỉ để xem chơi không bao
giờ được vận dụng. Ông Diệm không
dung túng bất cứ ư kiến đối lập nào
trên báo chí hay tại quốc hội. Hiến Pháp 1967
dân chủ hơn nhưng do điều kiện
chiến tranh chưa bao giờ được áp
dụng một cách nghiêm chỉnh. Nh́n
lại tôi có cảm tưởng ông Tuyên có thông tin
nhiều phía để đoán biết tương lai
vô vọng của miền Nam. Kinh tế èo ọp. Ngân
sách cho quân đội gần một triệu người
gồm Bộ binh, Không quân, Hải quân gồm trang
bị và lương bổng đều được
Hoa Kỳ viện trợ. Bàn tay của cơ quan Trung
ương T́nh báo Hoa Kỳ (CIA) vươn tới
tất cả các cơ cấu quốc gia từ quân
đội, hành chánh đến quốc hội.Theo tài
liệu “The CIA And the
Generals” của cơ quan CIA giải mật ngày
19/2/2009, có ít nhất 20 Dân biểu và Thượng
nghị sĩ đối lập lẫn thân chính
quyền có quan hệ với CIA. Và chương tŕnh
của Hoa Kỳ là đạt được một
thỏa ước tại Paris, lấy lại tù binh và
rút khỏi miền Nam một cách an toàn. Trong
bối cảnh chính trị đó ông Tuyên đă thành
công giữ cho đối lập không bể. Ông
biết chiến tranh Việt Nam là một cuộc
chiến nhiệm chức giữa Hoa Kỳ và liên minh
lỏng lẻo Nga- Tàu. Và như một quy luật,
chiến tranh nhiệm chức có thể giải
quyết giữa các siêu cường và nếu may
mắn nhân dân miền Nam có thể tránh được
ách cộng sản. Kinh
nghiệm chính trị cho ông biết muốn chống
cộng sản cần có dân chủ nên suốt
cuộc đời ông là đấu tranh xây dựng dân
chủ. Đó là lư do ông đứng về phía đối
lập, chống Diệm, chống Thiệu và sau cùng
nghi ngờ chính sách của Hoa Kỳ tại Việt
Nam. Ông
Tuyên thỉnh thoảng nói đến một “Liên
Minh Quốc tế v́ Dân chủ”. Ông cho biết lúc làm
Phó thủ tướng cho thủ tướng Quát khi
du hành qua Phi châu ông đă nêu ư kiến “liên minh”
với các nhà lănh đạo Phi châu như
Đại Tá Houari Boumedieene của Algeria, tổng
thống Habib Bourguiba của Tunisia,
tổng thống Gamal Ađel Nasser của Ai Câp. Các
vị ấy tỏ ư tán thành và hứa sẽ cùng làm
việc với chính phủ Quát để thiết
lập một liên minh như vậy. Rất tiếc chính
phủ Quát không tồn tại lâu và Tuyên trở
về hành nghề luật sư . Cho
đến phút chót ông Tuyên vẫn giữ tư cách
một người yêu nước, một nhà chính
trị và một người lănh đạo. Ông không
bỏ đất nước ra đi khi cộng
sản vào Sài g̣n. Một ngày trước đó, ông
từ chối đề nghị của Joe Bennett, tham
vấn chính trị ṭa đại sứ Hoa Kỳ cung
cấp phương tiện đưa ông rời
khỏi nước. Con
trai của ông Tuyên là Trần Tử Huyền
(California, Hoa Kỳ) cho biết
sau khi cộng sản chiếm Sài g̣n tướng
Vơ Nguyên Giáp gởi một sĩ quan cấp tá đến
thăm và hứa sẽ vận động với
Ủy ban Quân quản Sàig̣n – Gia Định không
buộc ông ra tŕnh diện học tập. Tuy vậy,
ông vẫn ra tŕnh diện để - theo lời ông -
chia sẻ số phận với đồng bạn và
đồng chí của ông. Ủy
ban Quân quản đưa ông Tuyên đến trại
tập trung Long Thành, không xa Sài g̣n cùng với
khoảng 3.000 viên chức cao cấp của chính
phủ VNCH. Sau 9 bài gỉảng căn bản,
cọng sản phát giấy mực yêu cầu mọi
người viết bản tự thú nói “tội
lỗi” của ḿnh đối với nhân dân. Ông
Tuyên viết trong bản tự thú : “Tôi
không pham tội ǵ đối với nhân dân. Các ông có
thể liệt tôi vào thành phần chống chủ nghĩa
cộng sản, chống đế quốc và chống
độc tài” . Mùa Thu năm 1976, cộng sản
chuyển ông ra một trại tù tại tỉnh Hà Tây.
Ngày 27 tháng 10 ông chết trong một hoàn cảnh
rất đáng nghi ngờ. Có lẽ cộng sản
đă quyết định số phận của ông
sau lời khai ở Long Thành.
Nằm xuống luật sư Trần Văn Tuyên
đă hiến cả cuộc đời cho đất
nước . Đêm
29 tháng 4 năm 1975 là một đêm dài chấm
dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông
nam Á. Một thất bại thê thảm! Nếu
quyết định của Hoa Kỳ can thiệp giúp
miền Nam ngăn chận cuộc xâm lăng của
cộng sản và xây dựng một nước dân
chủ là đúng về mặt chiến lược,
th́ Hoa Kỳ đă thất bại v́ lănh đạo
chiến tranh yếu kém về cả hai mặt quân
sự và chính trị. Ông
bộ trưởng quốc pḥng McNamara lănh đạo
cuộc chiến tranh chống du kích bằng điện
toán và “đếm xác chết” là hỏng. Hoa
Kỳ không có một chiến lược chiến
tranh v́ không biết Trung quốc sẽ phản ứng
thế nào. Hoa Kỳ không muốn chạm trán với
Trung quốc trong một cuộc chiến trên đất
liền như tại Triều Tiên một lần
nữa . Sau
khi Hoa Kỳ giúp các tướng lật đổ ông
Ngô Đ́nh Diệm và đổ quân vào Việt Nam,
Hoa Kỳ tin rằng sức mạnh quân sự của
ḿnh sẽ làm cho Bắc Việt nản chí và Nam
Việt Nam sẽ có ḥa b́nh để xây dựng.
Rất tiếc lănh đạo Hoa Kỳ đă bó tay các
ông tướng không cho trải quân đóng kín biên
giới phía Bắc dọc theo vĩ tuyến 17 từ
bờ biển tỉnh Quảng Trị qua Lào đến
tận sông Cửu Long để cắt đường
của Hà Nội đưa quân và tiếp liệu vào
miền Nam. Trong cuộc gặp tổng thổng Johnson
tại Guam ngày 20/3/1967, Phó tổng thống Nguyễn
Cao Kỳ đă đưa ra đề nghị này (Vietnam
War: Day by Day của John S. Bowman, trang102) nhưng Hoa
Kỳ không dám phiêu lưu. Nh́n lại nếu đă
chận đường tiếp vận của Bắc
việt một cách rốt ráo Nam Việt Nam có thể
đă sống c̣n. Trung lập hóa Lào dưới
mắt chính quyền Kennedy tưởng là đắc sách
đă đưa đến thất bại. Một
lư do khác không kém phần quan trọng đưa đến
thất bại là v́ thiếu kinh nghiệm dân chủ,
không có Xă hội Dân sự và không có người lănh
đạo có tài. Sách lược chống cộng
sản của đối lập đặt tiền
đề vào chính sách thay Thiệu là một sai
lầm, chỉ làm cho Thiệu yếu đi trong khi
chẳng làm cho các thành phần chống Cộng đoàn
kết với nhau. Mặt khác cộng sản đă
rất thành công trong chính sách xâm nhập vào các cơ
cấu của miền Nam: Vũ Ngọc
Nhạ, Huỳnh Văn Trọng vào Phủ
tổng thống, Phạm Ngọc Ẩn trong giới
truyền thông, Phạm Ngọc Thảo trong quân đội,
và Lư Quư Chung, Nguyễn Văn Hàm … trong quốc
hội . Kết
thúc chiến tranh Khi
cộng sản đánh Ban Mê Thuột mở màn
cuộc tấn công 1975 tôi đang ở Nha Trang. Tôi
linh tính đây có thể là cú đấm cuối cùng.
Năm
ngày trước khi cộng sản chiếm Nha Trang, tôi
vào Sàig̣n tham khảo ư kiến về t́nh h́nh với
tướng Minh. Ông ta rất lạc quan, mặc dù lúc
đó cộng sản đă chiếm Vùng I Chiến
thuật gồm Huế và Đà nẵng và một
bộ phận của Sư đoàn 10 Bắc việt
do tướng Vũ Lăng chỉ huy đang đe
dọa đèo Phượng Hoàng trên quốc lộ 21,
do một lữ đoàn Dù từ Đà Nẵng rút
về bảo vệ. Quốc lộ 21 là con đường
chính từ Ban Mê Thuột về Nha Trang qua thị
trấn Ninh Ḥa. Vào
cuối tháng Ba, quân đội cộng sản áp đảo
quân Dù, chiếm đèo Phượng Hoàng tiến
về Ninh ḥa, từ đó theo cải lộ tuyến
do quân đội Nam Hàn xây cất tiến về Nam
qua ngả Cam Ranh, không vào thành phố Nha Trang. Chính
quyền Nha Trang tan ră và một đơn vị quân
đội Bắc Việt đă được
gởi đến để ổn định t́nh h́nh. Đế
tránh t́nh h́nh rối loạn ở Nha Trang, gia đ́nh
tôi chuẩn bị di tản vào Sàig̣n. Nhưng
cuối cùng tôi quyết định ở lại.
Những ngày cuối dân chúng Nha Trang không ngớt
đến văn pḥng tôi hỏi về t́nh h́nh
với sự lo âu và phi trường dân sự Nha
Trang không c̣n an toàn nữa. Ngày
1 tháng 4 là một ngày hỗn loạn tại Nha Trang.
Chính quyền đă bỏ chạy, thành phố bỏ
ngỏ. Nhà tù dân sự và quân lao không c̣n ai canh gác.
Tù nhân tràn ngập đường phố. Để
tránh điều rủi ro trong hỗn loạn tôi và
hai dân biểu Nguyễn Công Hoan và Trần Văn Thung
thuê thuyền ra tránh nạn tại đảo Vĩnh
Nguyên, không xa ngoài bờ biển Nha Trang Thung
là dân biểu tỉnh Khánh Ḥa. Nguyễn Công Hoan là dân
biểu tỉnh Phú Yên. Cả hai đều cùng tôi
ở trong khối Dân Tộc Xă hội. Hai ngày sau tôi
trở về Nha Trang và nằm im trong nhà chờ đợi,
mặc cho rủi may của số phận.
Cộng quân đă kiểm soát Nha Trang và thành
phố im lặng một cách đáng sợ. Các
đơn vị cộng sản đặt súng pḥng không
nhiều nơi trong thành phố. Có tin Không quân VNCH
từ căn cứ Không quân Phan Rang bay ra tấn công
đánh sập các cây cầu trên quốc lộ 1
dẫn vào Nam. Thành phố đầy rác rưởi,
và ṭa lănh sự Hoa Kỳ bị phá tung. Qua
đài BBC chương tŕnh Việt ngữ tôi theo dơi
cuộc tiến quân của cộng sản. Ngày 20/4 các
sư đoàn của tướng Văn Tiến Dũng
uy hiếp tuyến pḥng thủ Sài g̣n tại Long Khánh
do Sư đoàn 23 của Chuẩn tướng Lê Minh
Đảo trấn giữ. Trong khi đó đại
sứ Martin ngày đêm làm việc với bộ trưởng
ngoại giao Kissinger để t́m một giải pháp
chính trị. Về phần tướng Dương Văn
Minh, ông và các phụ tá cũng đang vận dụng
ảnh hưởng t́m kiếm một giải pháp
chấm dứt chiến tranh. Nh́n lại có lẽ các
nỗ lực của đại sứ Martin chỉ
nhằm đáng lạc hướng, câu giờ, tránh
hỗn loạn để có thể rút toàn bộ nhân
sự c̣n lại
tại ṭa đại sứ Hoa Kỳ ra khỏi
Việt Nam một cách an toàn. Khi
tiếng súng im trên toàn quốc, tôi theo lệnh
của chính quyền cộng sản đăng kư tên
họ chức vụ tại đồn công an Phường
và được lệnh về nhà đợi
lệnh. Giữa tháng Năm, khoảng nửa đêm,
đại úy công an Nguyễn Văn Linh (TBN: trùng tên với
TBT Nguyễn Văn Linh),
trưởng ty công an thị xă Nha Trang cùng với hai
công an vũ trang và vài du kích địa phương
đến nhà vây bắt tôi ở địa chỉ
số 2 đường Trần Văn Ơn. Ông Linh
mang tôi về Ty Công an lúc đó đóng tại nhà cũ
của ông Tuấn, giám đốc chi nhánh Nha Trang
của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nằm trên
đường Duy Tân (nay là đường Trần
Phú). Sau đó công an đưa tôi về giam tại
trung tâm thẩm vấn cũng nằm trên đường
Duy Tân. Mấy tuẫn lễ sau tôi được
chuyển lên trại Lam Sơn, thuộc quận Ninh Ḥa,
tại đó đang có lớp “học tập” cho hàng
ngàn viên chức chính phủ và sĩ quan quân lực
VNCH. Lam Sơn nguyên là một Trung tâm huấn luyện
lính. “Học viên” được sắp xếp
ở trong những căn nhà trống, mỗi nhà
một số. Tôi đến trễ, hầu như
đă hết nhà trống, họ nhét tôi vào nhà
số10 gồm sĩ quan và binh sĩ Dù bị bắt
tại đèo Phượng Hoàng. Trại
Lam sơn do quân đội Bắc việt quản lư.
Qua 9 bài căn bản họ giảng giải chiến
lược chiến tranh qua từng gia đoạn
từ khởi đầu chống Pháp cho đến
chiến thắng cuối cùng và “chính sách khoan
hồng” của chính phủ cộng sản. Sau
hai tháng ở trại Lam Sơn tôi được
chuyển về nhà lao dân sự Nha Trang giam chung
với thường phạm. Mục đích của
cộng sản là đồng hóa chúng tôi với
tội phạm xă hội. Sau đó họ đưa tôi
lên giam tại trại Đồng Găng nằm sâu
trong vùng rừng núi tỉnh Khánh Ḥa. Đồng Găng
là chiến khu cộng sản dùng để ẩn náu
và tung các cuộc tấn công trong tỉnh. Khi tôi đến
tại đó có khoảng 400 tù nhân sống chật
chội trong những nhà trống, và tù nhân đang
bận rộn đốn tre, đan tranh để làm
thêm nhà ở. Giám trại là Thiếu tá Yết,
một sĩ quan công an Bắc việt và một sĩ
quan thuộc Mặt Trận Giải phóng phụ tá. Ở
đây tù nhân được gọi là phạm nhân
chứ không dùng từ cải
tạo nữa, cứ 2 người chia nhau một
chiếc giường tre chỉ vừa đủ đặt
lưng. Ban đêm sương xuống nhanh và mang theo cái
lạnh của núi rừng. Mỗi trại được
đốt một bếp củi với những khúc cây
lớn để sưởi ấm và rọi sáng
để lính canh giờ nào cũng có thể thấy
chúng tôi. Bữa ăn hằng ngày chỉ có cơm và
một chút thức ăn thường là rau trong nước
loăng có tí muối . Ở
trại Đồng Găng tôi nhớ một người
tù, Ngô Viết Xiêm, đại úy cảnh sát em
ruột của kiến trúc sư nổi tiếng Ngô
Viết Thụ. Ông Thụ là kiến trúc sư vẽ
họa đồ xây cất trường vơ bị
Đà Lạt. Xiêm giỏi về máy móc và làm trưởng
xưởng sửa xe của trại.
Đại úy Xiêm được lính canh tù
nể v́ ông là người bảo tŕ sửa chữa
xe gắn máy cho họ chạy tốt. Ngoài việc
đánh đấm lính cộng sản hoàn toàn mù
tịt về máy móc. Một hôm Thiếu Tá Yết
chỉ định tôi làm Phó trưởng toán kỹ
thuật (trưởng toán là một người tù
đến trại trước tôi) xem chọn các sĩ
quan tù nhân có tay
nghề lập các ban chế tạo dụng cụ
hữu ích cho trại. Tôi lập xưởng rèn, xưởng
may, xưởng thiết, xưởng g̣ và một ḷ
than sản xuất than đá do sáng kiến của
một đại úy công binh. Các sĩ quân quân đội
VNCH chứng tỏ rất có khả năng, làm ǵ cũng
được. Chúng tôi thiết lập được
một nhà máy điện nhỏ chạy bằng động
cơ nổ có thể thắp sáng chừng 50 bóng
đèn 100 watts. Pḥng làm việc của Thiếu Tá
Yết được trang bị một đèn
neon và một hệ thống âm thanh để
mỗi buổi chiều ông có thể nói chuyện
với tù nhân. Thiếu tá Yết rất hài ḷng
với các phương tiện mới giữa rừng
Đồng Găng . Ngày
2 tháng 9 năm 1975, trại Đồng Găng chuẩn
bị mừng lễ Độc lập đánh dấu
ngày 2/9/1945. Ông Yết ra lệnh chúng tôi làm sân
khấu và biểu diễn văn nghệ .Ông dự tính
mời các giới chức cao cấp quân, dân, chính
từ Nha Trang đến để chứng kiến ánh
sáng đèn điện giữa rừng Đồng Găng.
Một trục trặc nhỏ. Trước giờ
buổi lễ bắt đầu, cái máy nổ
chạy bằng xăng kéo máy phát điện làm reo
không chịu nổ. Ông Yết thường ngày ăn
nói nhẹ nhàng, gọi tôi đến văn pḥng và
nghiêm khắc bảo tôi “anh làm sao tôi không cần
biết, nhưng đến giờ làm lễ mà không có
điện th́ tôi cùm anh”. Cùm là một h́nh phạt
dành cho những tù nhân khó trị. Tôi đă có
dịp chứng kiến người bị cùm. Khi
bị cùm, trong vài ngày cái cùm sắt cắt thịt cườm
chân vào tận xương. Và thế
cùm không cho người bị cùm cử động
dễ dàng nên cơ thể dần dần tê cứng.
Khi được tháo cùm, người tù phải
ngồi tại chỗ tập cử động
hằng giờ may ra mới bước đi được.
Tôi biết ông Yết không dọa tôi. Ông nghi tôi
muốn phá sự thành công của buổi lễ. Tôi
không có ư phá, nhưng tôi không khỏi nghi ngờ ông
thượng sĩ an ninh, một chuyên viên điện
khí của Không quân, người giúp tôi đắc
lực nhất trong việc thiết đặt nhà máy
điện. Thỉnh thoảng ông vẫn thắc
mắc riêng với tôi, tại sao ḿnh phải tự
nguyện làm việc này. Tôi không nói với ông ta
được ǵ nhiều chỉ nhắc ông ta câu
chuyên viên đại tá người Anh trong cuốn
phim “Cầu sông Kwai”. Người sĩ quan Anh đâu
muốn phục vụ cho quân Nhật mà chỉ
muốn cho quân Nhật biết người Anh không
tầm thường, và bày việc đế qua th́
giờ buồn tủi của người thất
trận. Phút chót, hú hồn máy chạy và buổi
lễ thành công dưới ánh đèn điện và
âm thanh giữa rừng thẳm. Nhờ
sự vận động của Hồ Ngọc
Nhuận, lúc này là thành phần của Ủy ban Nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Đăng
Chiếm, một viên chức cao cấp của Mặt
Trận Giải phóng miền Nam kư giấy phóng thích tôi
và yêu cầu công an Nha Trang gởi tôi vào Sài g̣n theo
học một lớp dành cho trí thức “tiến
bộ” của miền Nam. Tuy đảng Cộng
sản Việt Nam nắm quyền lực trong tay, Hà
nội vẫn giữ một bề ngoài miền Nam do
Mặt Trận Giải Phóng chiến thắng và
quản lư. Ra
khỏi trại cuối tháng 9 tôi vào Sài g̣n. Khóa
học được tổ chức tại Trung tâm
Việt Mỹ cũ trên đường Mạc Đỉnh
Chi. Có hơn 100 học viện, tôi nhớ vài tên
tuổi quen thuộc như Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh, nhạc sĩ
Nguyễn Hữu Ba, cựu tổng trưởng bộ
Xă Hội Trần Ngọc Liễng, đặc biệt
là dân biểu Đinh Văn Đệ (có lẽ
được giao phó công tác theo dơi chúng tôi tại
lớp học). Giảng viên gồm các thành phần
cọng sản gốc miền Nam có chức vụ
trong Mặt Trận hay Chính phủ Lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam như ông
Nguyễn Hộ. Có một lần ông Phạm Hùng,
ủy viên Bộ chính trị đến thăm
lớp học. Ban giám đốc không nói ai chỉ cho
biết có cán bộ cao cấp đến thăm. Sau này
t́nh cờ thấy h́nh đâu đó tôi mới
biết cán bộ cao cấp hôm nào là ông Phạm Hùng,
ủy viên Bộ chính trị.
Ông ta nói nhiều điều về tầm
chiến thắng của đảng Cộng sản, nhưng
tôi chỉ c̣n nhớ một điều,
“các anh có thắc mắc điều ǵ đừng
ngại cứ mạnh dạn hỏi. Thuyết Mác Xít
– Lê ni nít là ch́a khóa của mọi sự việc nên
cán bộ được trang bị bởi thuyết Mác-lê
sẽ giải thích thỏa đáng cho các anh”. Lẽ
dĩ nhiên chúng tôi không ai hỏi ǵ. Chúng tôi biết
thắc mắc nhiều sẽ được hiểu
là chất vấn kẻ chiến thắng và chỉ
mang họa vào thân. Sau
một tháng học tập tôi được cấp
giấy trở về Nha Trang với gia đ́nh. Tôi t́m
cách hội nhập vào xă hội mới. Tôi xin đi
dạy học hay một công việc chuyên môn tại
Ty Xây Dựng thành phố. Tôi là một kỹ sư cơ
khí của Hải quân, và từng dạy học
với tư cách tư nhân tại trường Trung
học Vơ Tánh Nha Trang và phụ trách vài môn lư
thuyết tại trường Khoa Học Đại
Học Huế. Nơi nào cũng chỉ hứa suông . Rời
Việt Nam Năm
1976, sau nhiều nỗ lức tham gia Liên hiệp
quốc như hai nước Việt Nam riêng biệt (để
có hai phiếu tại Liên hiệp quốc) bất thành,
Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định
thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976 Hà
nội tổ chức bầu cử quốc hội toàn
quốc. Lúc này hai tỉnh Phú Yên và Khánh Ḥa nhập
một thành tỉnh Phú Khánh. Chính quyền Phú Khánh yêu
cầu cựu dân biểu Nguyễn Công Hoan đại
diện cho Phú Khánh ra tranh cử (gọi là tranh cử
nhưng với hệ thống bầu cử của
cộng sản ai được đảng chọn
đương nhiên đắc cử). Sau ngày cộng
sản chiếm miền Nam, Hoan thấy nhân dân Phú Yên
chán chế độ mới nên Hoan không muốn
nhận lời mời. Tôi nói với Hoan lời
mời của chính quyền Phú Khánh là một cái
lệnh, từ chối sẽ được xem là
một thái độ chống chế độ và
chắc sẽ không yên thân. Suy nghĩ lại Hoan
nhận lời và trở thành dân biểu của nước
Việt Nam thống nhất .
Quốc
hội mới họp ngày 2/7/1976 thông qua Nghị
quyết đổi tên nước là “Cộng ḥa Xă
hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Sau khoá họp
thứ nhất Hoan cho tôi biết dường như
đảng cộng sản có dự tính thành lập
một vùng Đông Á do Hà nội lănh đạo như
mẫu Đại Đông Á của Nhật Bản
trong đại chiến 2. Tại quốc hội Đảng
phát cho mỗi đại biểu một bản đồ
Đông Á bao gồm nhiều nước không có ranh
giới giữa nhau. Nhưng hai ngày sau Đảng cho
thu lại mà không giải thích. Hoan ghi nhận các
đại biểu gốc Mặt Trận Giải Phóng
có vẻ không vui, và bà Nguyễn Thị B́nh Bộ trưởng
Ngoại giao của Chính phủ Cộng ḥa Miền Nam
Việt Nam, người từng tham dự cuộc
hội đàm Paris có chiều tư lự. Tháng
9 năm 1976, nhân có vụ Trung úy Vikto Belenko của Liên
bang Xô viết lái chiếc máy bay Mig-25 qua Nhật
tị nạn tạo thành tin sốt dẻo trên
thế giới, tôi bàn với Hoan tổ chức
trốn ra nước ngoài. Hoan với tư cách là
đại biểu của Quốc hội một nước
cộng sản sẽ tạo sự chú ư của dư
luận thế giới về sự bất măn của
nhân dân Việt Nam đối với chế độ
mới. Hoan
lo việc thuyền bè, tôi lo tính đường đi.
Ông già vợ của Hoan là một ngư dân khá
giả ở Xóm Cồn, một mơm đất nơi
cảng đánh cá Nha Trang doi ra biển, và với tư
cách dân biểu sự lui tới của Hoan sẽ không
bị nghi ngờ. Tôi nghiên cứu đường
đi bằng cách dùng bản đồ Biển Đông
trong bộ Bách khoa Từ điển
Americana. Tôi dự
phóng hai đường đi. Một về hướng
Đông bắc đi Manila, Phi luật Tân; một
về hướng Tây nam trực chỉ Singapore. Tôi
chọn đường Singapore bởi hai lư do. Thứ
nhất là ngắn hơn đường đi Manila.
Thứ hai chạy hướng Singapore thuyền chúng tôi
sẽ nằm giữa một thủy đạo
quốc tế quan trọng của tàu chở dầu
từ Trung đông qua bắc Thái b́nh Dương cung
cấp dầu cho Nhật Bản. Gặp trở
ngại chúng tôi có nhiều cơ may được giúp
đỡ. Hoan và tôi đồng ư khi đi sẽ
gọi Thung, dân biểu Khánh Ḥa cùng đi. Tôi hỏi
ư Thung và Thung đồng ư
sằn sàng. Chúng
tôi rời Nha Trang đêm 28/3/1977 từ Xóm Cồn trên
một thuyền đánh cá nhỏ chở tất
cả 34 người, trong đó có chừng 7 phụ
nữ và một trẻ em c̣n bồng trên tay. Ngày
đầu biển êm, hôm sau hơi có sóng. Trên
đường tàu bè khá nhiều, ban đêm những
chấm đèn tàu làm cho chúng tôi không thấy cô
đơn giữa trời nước mênh mông. Tôi
biết với tốc độ và xăng nhớt mang
theo thuyền chúng tôi khó vượt 1.300km để
đến Singapore, nên trên đường đi tôi làm
mọi cách để các chiếc tàu lớn chú ư và
vớt chúng tôi . Nhưng không tàu nào mảy may chú ư
đến sự hiện diện của chiếc
thuyền mỏng manh của chúng tôi. Qua đài BBC tôi
biết rằng, các thuyền trưởng tàu buôn thường
gặp phiền phức với chủ tàu khi vớt người
vượt biên v́ phải thay đổi chương
tŕnh di chuyển - chẳng hạn để đổ
người tị nạn lên đất liền - nên
họ thường làm ngơ dù luật thương
thuyền buộc phải cứu nạn nhân trên
biển . Để
tạo sự chú ư đôi khi tôi cho thuyền chạy
chận đường các tàu buôn. Các tàu này thường
tránh rồi tiếp tục đường đi
của họ. Nghĩ lại hành động của chúng
tôi thật điên rồ. Qua
ngày thứ ba, thuyền chết máy. Mấy người
phụ trách máy tàu sửa chữa không được.
Gió bắt đầu lên và thuyền chúng tôi sóng
đánh lắc dữ dội. Mọi người trên
tàu say sóng nằm rẹp hết.
Chiều
ngày thứ ba, biển động mạnh, bầu
trời xám ngắt báo hiệu băo. Thực phẩm
chỉ c̣n gạo sấy để trộn với nước
nấu sôi khi ăn. Nước chỉ c̣n đủ
cho mấy người phụ nữ và chú bé 2
tuổi. Tôi không biết chúng tôi đang ở tọa
độ nào, chỉ đoán chưa xa bờ biển
Nha Trang lắm. Hy vọng đến Singapore trở thành
xa vời, chúng tôi bàn nhau – nếu sửa được
máy - trở về Nha Trang rồi
tính sau. Nhưng vô phương, máy tàu thiếu
nhớt bể không phương sửa chửa. Đêm
đó chúng tôi dùng bất cứ ǵ cháy được
đốt lửa trên boong thuyền để
kêu cứu. 6
giờ chiều hôm sau, 3 tháng Ba, một chiếc tàu
chở dầu khổng lồ, nh́n xa như một trái
núi mang quốc kỳ Nhật Bản đến sát chúng
tôi. Tàu ngừng cách chúng tôi chừng 300 mét sợ
đến quá gần sóng tàu lật thuyền chúng tôi.
Tôi không biết thuyền trưởng đang tính toán
ǵ, chỉ thấy mấy cặp ống nḥm từ
đài chỉ huy đang quan sát chúng tôi. Điều tôi
sợ nhất là tàu bỏ đi. Nghĩ vậy tôi
lấy một quyết định sinh tử nhảy
xuống biển bơi qua tàu.
Tôi muốn nói với họ nếu họ không
cứu, chúng tôi
gồm một số phụ nữ và trẻ em sẽ
bỏ ḿnh trên biển. Chúng tôi không c̣n nước,
không c̣n thức ăn và máy tàu th́ bể . Bơi
đến gần tàu, trước mắt tôi là
một thành tàu thẳng đứng, sau này được
biết là chiếc Ryuko
Maru, một trong những chiếc tàu chở dầu
lớn nhất của Nhật. Tàu này có một sân thượng
bằng phẳng, chỉ cần thay đổi đôi
chút là có thể làm sân bay. Người Nhật sau
Thế chiến 2 được Hoa Kỳ bảo
vệ, nhưng lúc nào cũng
chuẩn bị sẵn sàng để tự
vệ. Hàng không dân sự và hàng hải thương
thuyền Nhật huấn luyện sĩ quan theo chương
tŕnh quân sự để khi cần có thể
chuyển thành sĩ quan Không quân và Hải quân.. Thủy
thủ đoàn thả một chiếc thang dây cho tôi.
Leo đến sàn tàu, vừa lạnh vừa mệt tôi
ngả lăn trên sàn tàu. Một thủy thủ mang
đến phủ lên tôi một cái chăn ấm và
để tôi nằm nghỉ tại chỗ. Thấy
tôi hơi khỏe một sĩ quan trẻ y phục
trắng đến hỏi chuyện tôi. Sau này tôi
biết ông ta là thuyền phó. Sau khi biết chúng tôi là
đoàn người tị
nạn không chịu được chế độ
cộng sản nên đi t́m tự do và hiện đang
rơi vào t́nh cảnh vô vọng. Thuyền phó nói ông
sẽ cho người sửa máy, cung cấp thực
phẩm và chỉ hướng cho chúng tôi đến
một nơi an toàn. Tôi ngồi trên boong tàu chờ
kết quả. Sau này tôi biết các người
thợ máy Nhật cho biết máy cháy không sửa
được, trên tàu Nhật không có máy thay thế
và thuyền trưởng đánh điện về hăng
tàu xin ư kiến. Và lệnh cứu chúng tôi được
chấp thuận đưa chúng tôi về cảng
Yokkaichi gần nhất. Từ nơi vớt chúng tôi
đến Yokkaichi mất 6 ngày biển. Lên
tàu thủy thủ đoàn cho chúng tôi ở một căn
pḥng phía bên phải của thương thuyền và
cho chúng tôi chăn mền và bữa cơm tối
đầu tiên, có mấy lon bia hiệu Sapporo, một
thứ bia b́nh dân của Nhật. Chúng tôi biết chúng
tôi đă sống sót và vượt qua được
đoạn đầu của hành tŕnh tị nạn.
Nhật Bản là một quốc gia dân chủ, giàu có
và nổi tiếng về ḷng tốt . Ngày
hôm sau, thuyền phó bắt đầu lập danh sách
tị nạn để báo cáo cho Cơ quan Tị
nạn Liên hiệp quốc (UNHCR
- United Nations High Commisonner for Refugeees). Thung, Hoan và tôi
trao đổi ư kiến có nên để Hoan khai
thật là dân biểu của Hà nội không.
Nhật đă thiết lập bang giao với
Việt Nam và Nhật có thể trả Hoan về
Việt Nam để tránh rắc rối ngoại giao
với Hà Nội. Chiếc Ryuko
Maru đang chạy ngoài bờ biển Việt Nam,
tạt vào Hải pḥng để trả Hoan là
việc quá đơn giản. Chúng tôi đồng ư
tạm dấu lai lịch của Hoan cho đến khi
đến Nhật.
Năm
ngày sau tàu đến Yokkaichi. Khi viên chức UNHCR và
Bộ Di trú lên tàu làm việc, chúng tôi biết đă
đến lúc tiết lộ lai lịch của Hoan. Người
phiên dịch đi theo cơ quan Di trú là anh Trần Văn
Thắng, sinh viên miền Nam học ở Nhật
kẹt lại làm việc cho cơ quan Caritas thuộc
Giáo hội Thiên chúa La Mă giúp người tị
nạn. Khi Thắng nói cho phái đoàn biết lại
lịch Hoan họ có vẻ sửng sốt không tin. Nhưng
sau khi chụp h́nh thẻ dân biểu của Hoan điện
về Bộ Ngoại giao Nhật ở Tokyo xác
nhận đúng, họ không cho báo chí lên tàu tiếp
xúc với chúng tôi. Đêm
hôm đó giới chức cảng Yokkaichi
cho chúng tôi rời tàu bằng một lối riêng
đến một đoàn xe buưt chờ sẵn
đưa chúng tôi về trại tị nạn ở làng
Kominato, thuộc tỉnh Chiba cách Tokyo chừng 110 km.
Khoảng nửa đêm chúng tôi đến trại.
Trại là một trường tiểu học của
Giáo hội Phật giáo Rissho Kosei-Kai nằm bên
cạnh một ngôi chùa nhỏ được biến
cải thành trại tị nạn. Vào thời gian
đó có chừng 300 người Việt tị
nạn ở Nhật dưới sự bảo trợ
của UNHCR và Caritas, một hội thiện
nguyện thuộc Giáo hội Thiên chúa giáo La mă có cơ
sở toàn thế giới . Chúng tôi là nhóm tị
nạn đầu tiên do Phật giáo Nhật phụ trách.
Nhật
Bản không có quy chế nhận người tị
nạn định cư trong nước, chỉ giúp
UNHCR nhận tạm chúng tôi chờ làm thủ tục
định cư tại một nước khác.
Vị trụ tŕ của chùa có nhiệm vụ giúp
đỡ chúng tôi chỗ ăn chỗ ngủ. Tin
có một dân biểu của một nước
cộng sản có mặt trong số người
tị nạn mới tới không được
tiết lộ cho báo chí. Nhưng anh em thông dịch viên
thuộc Tổ chức Người Việt Tự do
(TC/NVTD) đă tiết lộ cho báo chí biết. Tôi
thấy có nhiều phóng viên từ Tokyo đến săn
tin. Hai sinh viên thay nhau làm thông dịch viên cho chúng tôi
là Trần Văn Thắng và Huỳnh Lương
Thiện. Sau này cả hai đều sang định cư
ở Hoa Kỳ. Thắng là giám đốc một công
ty du lịch, và Thiện hiện là chủ nhiệm báo
Mơ ở San Francisco. Do
một sự t́nh cờ tôi tiếp xúc
được với báo chí quốc tế.
Một hôm tôi đang đứng gần chiếc điện
thoại trong trại và nghe reo. Tôi nhấc lên và đầu
giây là một nhà báo của hăng tin CBS. Qua một trao
đổi ngắn tôi xác nhận tôi là một trong
những người tị nạn vừa mới đến
và trong nhóm có ông Nguyễn Công Hoan, dân biểu
của Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Ngay
sau khi đến trại, ông Misei, đại điện
của Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc
tại Nhật đến trại làm thủ tục
định cư chúng tôi. Ông
Misei là một công dân Nhật. Phần chúng tôi, chúng
tôi dự tính, nhân ngày 30 tháng Tư
sắp tới, đánh dấu hai năm ngày
cộng sản chiếm miền Nam, tổ chức
một cuộc họp báo để nói cho thế
giới biết t́nh trạng nhân quyền thê thảm
tại Việt Nam dưới chế độ
cọng sản . TC/NVTD
giúp chúng tôi thuê chỗ họp báo tại một khách
sạn địa phương và thông báo cho báo chí
quốc tế biết. Hoan, Thung và tôi lo viết
bản thông cáo báo chí. Hoan chủ tọa buổi
họp báo và trả lời các câu hỏi, tôi phiên
dịch . Cân
nhắc ảnh hưởng của cuộc họp báo
đối với quan hệ Nhật- Việt, chính
phủ Nhật quyết định ngăn cản
cuộc họp báo và nhờ
ông Misei lo việc này. Một tuần lễ trước
ngày họp báo ông Misei gặp tôi tại văn pḥng
chùa Kominato. Ông nói rằng cuộc họp báo sẽ
làm chính phủ Nhật lúng tung đối
với Việt Nam và chúng tôi có thể bị gởi
về Việt Nam, đó là chưa nói gia đ́nh chúng
tôi ở Việt Nam sẽ bị trả thù. Tôi nói
khi ra đi một ḿnh chúng tôi chấp nhận mọi
t́nh huống, chính phủ Nhật đối đăi
thế nào th́ chúng tôi chịu vậy. Tôi biết chính
phủ Nhật không thể trả chúng tôi về mà
không bị dư luận quốc tế lên án. Ông
Misei xoay qua chuyện người tị nạn và nói
rằng cuộc họp báo sẽ làm cho chính phủ
Nhật từ nay về sau không nhận người
tị nạn nữa, như vậy là thiệt tḥi cho
đồng bào các anh. Tôi trả lời ông Misei
rằng nếu có ai nói cho thế giới biết t́nh
trạng bi đát của đồng bào tôi dưới
chế độ cộng sản th́ họ có thể
chấp nhận bất cứ sự trả thù nào.Tôi
nghĩ ông Mesei chỉ dọa,
v́ Nhật Bản là một nước dân chủ tiên
tiến không thể hành động cấm cửa người
tị nạn nếu đă trôi dạt đến
cửa nhà ḿnh. Sau
cùng ông Misei đưa một đề nghị,
được hiểu là một sự mua chuộc. Ông
nói, các anh có điều cần nói với thế
giới th́ nên nói ở Hoa Kỳ sẽ có tiếng
vang hơn là nói ở đây. Chính phủ Nhật
sẽ trả chi phí để các anh ghi vào video
cassette (lúc đó chưa có dĩa CD) để các
anh phổ biến khi đến Hoa Kỳ. Ông dè
dặt đưa ra hai con số: mỗi cassette
một mỹ kim và thực hiện một
triệu cassette. Tôi nói với ông Misei, t́nh h́nh đàn
áp tại Việt Nam như một nồi nước
đang sôi không thể chờ đợi. Trong
lúc ông Misei áp lực chúng tôi, TC/NVTD vẫn tiến hành
các chuẩn bị họp báo. Ngày họp báo sẽ là
ngày 30/4/1977 tại một khách sạn ở Kominato. Ngày
29/4. một sĩ quan cảnh sát địa phương
gặp tôi yêu cầu làm đơn xin họp báo
với lư do cần chính thức xin phép để
cảnh sát Nhật bảo vệ an ninh cho buổi
họp báo. Ngày
30 nhiều phóng viên quốc tế từ Tokyo đến
dự cuộc họp báo, trong đó có kư giả Henry
Kammp, phóng viên tại Nhật Bản của tờ New
York Times. Sự xuất hiện công khai của Hoan và
lời tố cáo chính sách đàn áp, vi phạm nhân
quyền, và cuộc sống đen tối tại
Việt Nam đă tạo ra một xúc động
lớn. Sau cuộc họp báo, kư giả Kammp thuê
riêng một pḥng trong khách sạn để
phỏng vấn thêm chúng tôi. Ngoài kư giả Henry Kammp
có thêm Huỳnh Lương Thiện và một nữ kư
giả trẻ tuổi lai gốc Việt thư kư riêng
của Kammp nói lưu loát 4 ngôn ngữ, Anh, Pháp,
Việt và Nhật ngữ tham
dự . Báo
chí và các đài truyền h́nh tại Hoa Kỳ đă
loan tải rộng răi nội dung cuộc họp báo
của chúng tôi, ngay các tờ báo địa phương.
Đây là lần đầu tiên dân chúng Hoa Kỳ
biết t́nh trạng Việt Nam sau khi bức màn đêm
29/4/1975 rủ xuống thành phố Sài g̣n. Bài
báo của kư giả Henry Kammp trên tờ New York Times nói
về nạn người vượt biển bỏ nước
ra đi và nhiều người đă bỏ ḿnh v́ băo
táp đă thúc đẩy tổng thống Jimmy Carter xin
quốc hội ngân khoản giúp người tị
nạn. Quốc hội Hoa Kỳ muốn nghe thêm
về t́nh trạng vi phạm nhân quyền tại
Việt Nam, và bà Lê Thị Anh, một người
Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn có liên lạc
với quốc hội đă sắp xếp mời Hoan
qua Hoa Kỳ trước . Sau
cuộc họp báo, giáo hội Rossei Koseikai đưa tôi
về một trại tị nạn khác của người
Việt ở miền Tây Nhật Bản để giúp
Giáo hội tổ chức đời sống cho người
tị nạn tại đó. Bốn tháng sau, tôi và
Thung về Tokyo ở với anh em NVTD
chờ ngày đi định cư tại Hoa
Kỳ. Hằng tuần tôi và Thung đến văn pḥng
trung ương của Giáo hội để lảnh
tiền trợ cấp của Liên hiệp quốc. Tháng
10, 1977 tôi có giấy tờ đi định cư
tại Boston. Người bảo lănh tôi là ông Raymond
Crombie, một công chức quận Quincy, bang Massachusetts
từng làm việc trong ngành chiến tranh chính trị
của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Ông nói
trôi chảy tiếng Việt. Ở Quincy chừng
một tháng tôi về Maryland tạm trú nhà Nguyễn
Đ́nh Điều một người bạn thời
trung học. Điều nguyên là sĩ quan Hải quân
VNCH và khi miền Nam sụp đổ đang theo
học tại trường Cao đẳng Hải quân
Hoa Kỳ ở Monterey. Ông được cấp quy
chế tị nạn I-94.
Ở Maryland tôi kiếm việc làm để có
tiền gởi vợ tôi nuôi con, 5 đứa từ 7
đến 15 tuổi. Rất may vào tháng 2/1978, Thái Doăn
Ngà một bạn thời trung học đang ở
California điện
thoại thăm và giới thiệu tôi với ông giám
đốc sở Ngà đang làm. Ông ta đang kiếm
người cho chương tŕnh CETA (Comprehensive
Employment and Training Act), một chương tŕnh của
chính phủ Liên bang tạo công ăn việc làm và
đào tào chuyên viên. Sau cuộc phỏng vấn
ngắn ngủi ông “tuyên bố” nhận tôi vào chương
tŕnh CETA, học kế toán. Ngà đang làm việc cho
ông trong chương tŕnh này với tư cách trưởng
pḥng kế toán. Ngà rời Việt Nam mấy ngày trước
khi Saig̣n sụp đổ và đến Mỹ đi
học kế toán ngay. Vốn là một giáo sư Toán
đệ nhị cấp ông thăng tiến nhanh chóng
trong ngành kế toán. Ngà mua vé máy bay cho tôi. Hôm sau tôi
ra phi trường Dulles, Washington D.C. lấy vé bay đi
Los Angeles. Đường ra phi trường c̣n đầy
tuyết. Đến Los Angeles Ngà đón, tôi thấy Ngà
chỉ mặc một chiếc sơ mi mỏng dài tay.
Trời California có nắng và không khí mát rượi
báo hiệu mùa Đông sắp tàn, Xuân sắp tới.
Hai ngày sau tôi ở tạm nhà Ngà đi làm. Sự
việc thay đổi nhanh chóng như một giấc
mơ. Bây giờ tôi có việc làm, có chỗ tạm
trú, có lương hằng tháng. Ngoài chi phí để
sống tôi c̣n dư một chút tiền gởi về
cho vợ tôi. Và th́
giờ nghĩ đến mục đích của
việc bỏ nước ra. Cùng
với 10 người bạn tôi tiếp xúc qua thư
từ, điện thoại từ ngày c̣n ở
Nhật, chúng tôi đồng ư thành lập một
tổ chức chính trị gọi là “Tổ chức
Phục hưng Việt Nam (TC/PHVN) làm khí cụ đấu
tranh chống chính sách độc tài độc đảng
của đảng Cộng sản tại Việt Nam.
Buổi họp – chúng tôi sẽ gọi là đại hội - thông qua Cương lĩnh
được tổ chức vào tháng 12 năm 1978
tại thành phố Los Angeles. Đại hội thứ
hai tổ chức một năm sau (1979) và sau đó hai
năm triệu tập một lần Tại đại
hội thông qua Cương lĩnh tôi được
bầu làm chủ tịch sáng lập của TC/PHVN. Chín
thành viên tham dự đều là thành viên sáng
lập. Tôi
giữ chức chủ tịch TC/PHVN trong 9 năm cho
đến đại hội thứ 7 năm 1989. Sau
đó tôi viết b́nh luận về các vấn đề
chính trị thế giới, đặc biệt chú
trọng đến các chuyển biến liên quan đến
Việt Nam và công cuộc đấu tranh phục hưng
đất nước (5). Các
chương tŕnh Việt ngữ của đài
Tiếng nói Hoa Kỳ (Voice of America – VOA), đài BBC,
đài Á châu Tự do (Radio Free Asia – RFA) thường
phỏng vấn tôi trong 20 năm qua. Quan tâm nhất
của tôi hiện nay là Trung quốc đang đe
dọa sự vẹn toàn lănh thổ của Việt
Nam, nhất là kế hoạch chiếm Biển Đông
và sự gặm nhắm biên giới phía bắc
Việt Nam . Tôi
về thăm Việt Nam 2 lần, lần thứ
nhất tháng Ba năm 1999, lần thứ hai tháng Tư
năm 2001. Sau đó hai lần tôi xin chiếu khán
về Việt Nam ( 2003 & 2015) đều bị chính
quyền Việt Nam từ khước
không cấp.
Lần thứ nhất lấy lư do sự có mặt tôi
làm mất an ninh đất nước, lần thứ
hai không giải thích. Một nữ thư kư của ṭa
đại sứ Việt Nam tại thủ đô Hoa
Thịnh Đốn điện thoại báo rất
tiếc không
cấp chiếu khác cho tôi được.
Hoa
Kỳ trở lại tây Thái b́nh Dương Người
Việt Nam và người Mỹ cần rút kinh
nghiệm bài học thất
bại tại miền Nam Việt Nam, nhất là lúc
này Hoa Kỳ đang có chính sách trở lại Tây Thái
B́nh Dương. Biển Đông sẽ là nơi tranh
chấp giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong nhiều
thập niên tới. Biển Đông tiếp giáp
bờ phiá Đông của Việt Nam, qua bao nhiêu
thế kỷ là con đường biển quốc
tế nối liền Ấn độ dương
với tây và bắc Thái B́nh Dương. Các nước
lớn trên thế giới không quan tâm đến
sự quan trọng của Biển Đông, chừng nào
tàu thuyền nước nào cũng được
tự do qua lại. Nhưng từ thập niên 1950 có
dấu hiệu dưới ḷng Biển Đông có
dầu thô và khí đốt và thế giới chú ư
đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nằm giữa Biển Đông. Ai làm chủ hai
quần đảo này sẽ làm chủ một con
đường giao thông huyết mạch, và tài nguyên
dưới đáy trong ṿng 200 hải lư chung quanh. Sau
khi kư hiệp định Paris năm 1973 Hoa Kỳ
chuẩn bị rút quân, và do nhu cầu địa lư
chính trị, đầu năm 1974 đă khuyến khích
Trung quốc (thời gian đó là đồng minh
chiến lược của Hoa Kỳ trong cuộc đối
đầu tay ba Hoa Kỳ- Nga xô viết-Trung quốc,
trong khi Việt Nam là đồng minh của Liên xô)
chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1975 sau khi Hà
Nội chiếm miền Nam, Biển Đông chưa
trở thành cái ao nhà của Liên bang xô viết và Hà
Nội nhờ Trung quốc đóng chốt tại
quần đảo Hoàng Sa. Đầu thập niên 1990
Liên xô sụp đổ, Việt Nam trở lại níu
Trung quốc để duy tŕ chế độ. Nhưng
khi Trung quốc có kế hoạch chiếm toàn bộ
Biển Đông để mở cửa raThái B́nh Dương
công khai tranh chấp thế siêu cường với Hoa
Kỳ th́ đụng chạm đến quyền
lợi của Việt Nam, và cuộc tranh chấp âm
thầm giữa Trung quốc và Việt Nam nảy
mầm. Trong
thế tranh chấp này Hoa Kỳ là lực lượng
đối trọng với Trung quốc của Việt
Nam. Nhưng Hoa Kỳ vừa bị Việt Nam đánh
bại chưa đủ phấn
khởi để đánh bạn với Việt
Nam. Dù nói sẽ trở lại tây Thái b́nh dương
Hoa Kỳ c̣n đứng trước nhiều quyết
định chiến lược cũng như chiến
thuật khó khăn. Trung quốc mở mặt trận
tranh chấp với Hoa Kỳ khắp nơi trên
thế giới, ngay cả kinh tế Hoa Kỳ cũng
không tránh khỏi áp lực của Trung quốc.
Việt Nam luôn luôn dùng lời lẽ ôn ḥa thân
hữu với Trung quốc hơn với Hoa Kỳ, nhưng
không phải đă thần phục Trung quốc như
dư luận của người Việt ở
hải ngọai nghĩ. Việt Nam ở thế khó khăn
và rất ít sự lựa chọn: vừa chơi tṛ thân hữu với Trung quốc vừa
chờ đợi thái độ của Hoa Kỳ ./. Trần
Văn Sơn Bút
hiệu Trần B́nh Nam (1)
Để
viết “Lời nhân chứng” này tôi đă tham
khảo với các cựu dân biểu sau: Trần
Ngọc Châu (Woodland Hills, California), Hồ Ngọc
Nhuận (Sài g̣n), Phan
Thiệp (San Jose, California), Lư Trường Trân (Garden
Grove, California), Đinh xuân Dũng (San Jose, California), và
Trần Cao Đễ (Westminster, California), và luật sư
Trần Tử Huyền (San Francisco, California), con trai ông
Trần Văn Tuyên . (2)
Mười
tám người kư vào
bản Tuyên Ngôn Caravelle gồm các nhân vật từng
làm việc cho chính phủ Bảo Đại thời
gian Pháp trở lại Việt Nam, và từng tham gia chính
quyền sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm
(1955-63) sụp đổ gồm, các ông Trần Văn
Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương,
Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy quát,
Trần Văn Lư, Nguyễn Tiến Hỹ, Trần Văn
Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương
Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên , Phạm
Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương
Phùng, Trần Lê Chất và Trần Văn Vui . (3)
Xem
Hồ Văn Kỳ Thoại “Naval Battle of the Paracels”
trang 153, tuyển tập “Voices
from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)” – do giáo
sư K.W. Taylor , Cornell
Southeast Asia Program Publications xuất
bản ngày 30/4/2015 (4)
Liên
quan đến cuộc nói chuyện với Bắc Kinh
cuối năm 1973, Henry Kissinger
viết trong cuốn Years
of Upheaval
trang 684: “Bây giờ th́ ai
cũng biết rằng, qua chuyến đi của tôi,
tôi và thủ tướng Chu Ân lai và các phụ tá
đă trao đổi chi tiết về t́nh h́nh thế
giới. Chúng tôi không công khai kư kết ǵ nhưng hoàn
toàn đồng ư với nhau về t́nh h́nh mới và
v́ tế nhị đối với sự nhạy
cảm của Liên xô chúng tôi cũng không công bố
ǵ cả.” (5)
Các
bài b́nh luận của tôi đều được
đăng trên mạng www.tranbinhnam.com
Có 478 bài, viết từ tháng 4/1998 đến tháng
7/2013. Các bài b́nh luận viết trước đó
được in trong 4 Tuyển Tập B́nh Luận Chính
Trị. Tập 1 (1991-1994 – Mơ Làng San Francisco xuất
bản 1995). Tập 2 (1995-1996 –Mơ Làng San Francisco
xuất bản, 1997), Tập 3 (1997-1999 (Mơ Làng San
Francisco xuất bản, 2000), Tập 4 (1999-2002 – TC/PHVN
xuất bản 2002). Sau
ngày sinh nhật thứ 80, 17/7/2013 tôi không viết B́nh
Luận Chính Trị nữa. Thỉnh thoảng tôi
viết về các vấn đề nhân sinh hay dịch
các bài báo có tính hữu ích công cọng và đăng
trên mạng tranbinhnam, Mục: “Chuyện
ngắn; Chuyện không chính trị; Tài liệu
dịch”. (*)
www.tranbinhnam.com
àB́nh
luận à
số 479 http://www.tranbinhnam.com/binhluan/Thu_Ngo.html (**) www.tranbinhnam.com àB́nh luận à số 379 http://www.tranbinhnam.com/binhluan/Truong_SQHQ_VaToi.htm |