Tháng 3-2015 đừng quên tháng 3-1972 Việt Cộng Tàn Sát Đồng Bào trong mùa Hè Đỏ Lửa |
Mường Giang Tờ mờ sáng Chúa nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn bộ binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng hơn 90.000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn thiết giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng không quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại vỹ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn. Hai mươi hai năm sau đó vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cộng sản Đệ tam quốc tế Bắc Việt, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lănh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đă xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm các sư đoàn chủ lực 304, 308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126, 31, 246, 270, đặc công, hai trung đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu phi quân sự, pháo tập và tấn công biển người vào lănh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị. Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giồng v́ cả hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được kư tại Postdam (7-1945) và Genève (20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt kư vào văn bản. C̣n hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu ŕa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nỗi nhục nhược tiểu mà thôi. Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cộng sản quốc tế c̣n sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua ǵ Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Dông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cộng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xă hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, th́ lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc Việt th́ lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch, tại hội nghị Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. C̣n Mỹ th́ có ǵ để nóí, khi Nixon và Kissiger đă quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẽo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị. Ngậm máu phun người trước dơ miêng ḿnh, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẽ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau nay các văn nô Hà Nội, trong đó có cán gái Dương Thu Hương (tiểu thuyết Vô Đề), đều là chuyện b́nh thường và xảy ra hằng ngày như cơm bửa. Bởi vậy giờ đâu c̣n ai tin những chuyện QLVNCH hăm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa băi thường dân Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngăi hay mới đây là chuyện Mỹ gài ḿn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn băi ḿn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, B́nh Đinh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, th́ đoạn đường xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đă trở nên Đại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng Nhân Loại. Hăy đọc G.H. Turley, nguyên Đại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố Quảng Trị không ngờ tôi đă làm nhân chứng, cho một h́nh ảnh thăm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lư do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng, thiết giáp để trực xạ vào đoàn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đă gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít.. .C̣n kư giả A.R.Isaaca th́ viết vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nh́n thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Đại Lộ Kinh Ḥang. Kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc c̣n nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đă biến dạng sau hai tháng dăi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng v́ quá nhiều, nên vẫn c̣n nhiều xác kẹt trong xe, suốt hai bên đường quốc lộ số 1 . Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dă man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào ḿnh, là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong ḷng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người... Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và những người Việt Cộng do Hồ Chí Minh ươm trồng, không c̣n một chút t́nh VN và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói. 1 - Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến: Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước bởi ḍng Bến Hải. Đây là một con sông nhỏ phát nguyên từ dăy Trường Sơn, chảy ra Đông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước khi xảy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ c̣n có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Điều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dă man của bộ đội miền bắc, đi tới đâu, th́ đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng. Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lănh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hăn và Mỹ Chánh mà cả ba đă vô t́nh qua sự sắp xếp của lịch sử, trở thành ba con sông biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN. Tỉnh c̣n có hai quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát. Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069 khi vua Lư Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chàm là Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng B́nh và một phần Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân Công Chúa v́ nước quên ḿnh, chịu gă cho vua Chế Mân, để đem về cho Đại Việt hai châu Ô và Lư. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Ḥang được vào trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu Phong. V́ là đất cổ của Đại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Đường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Đinh Công Tráng. Thành cổ Đinh Cộng Tráng được xây dựng từ năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi ṿng hào, rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự pḥng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ Văn Giai tư lệnh SD3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến Quảng Trị, trong trận mùa hè năm 1972. Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến, so với những năm về trước. Do trên, các cấp lănh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đă tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ có ư đồ tấn công qua sông Bến Hải. Đây chính là lư do đă giao trọng trách pḥng thủ miền giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hính thành được vài tháng. Đó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, v́ là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và các đơn vị DPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.. Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm pḥng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SD3BB pḥng thủ vỹ tuyến: Trung đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Đính chỉ huy trách nhiệm pḥng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực lượng DPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ. 2 - Trận chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị: Đúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại tướng Vơ Nguyên Giáp tổng tư lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Để mở đường qua sông,, pháo binh cộng sản, với các loại đại bác ṇng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SD3BB đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, v́ pháo kích và các cuộc tấn công biển người.. Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mănh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ. Đại chiến long trời lỡ đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài G̣n và Đà Nẳng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn c̣n chưa t́n là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đă làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên, trên các con đường di tản trước biển giặc. Măi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lử đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48 mới được tăng cường cho SD3BB tại mặt trận Đông Hà. Ngay lúc đó, SD308 cộng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. C̣n SD304 th́ tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, c̣n hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt. Rồi th́ căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đă làm mồi cho đạn pháo b́nh và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, v́ vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả, không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai có thể ngờ tới. Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cộng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ., trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, c̣n căn cứ Fuller và Khe Gió th́ di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TD8TQLC, bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đêm 2-4. T́nh h́nh chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc t́nh cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm, khiên cho các cấp chỉ huy của SD3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, v́ không t́m ra kế hoạch nào, để ổn định t́nh thế. Rồi Bộ Tư Lệnh tiền phương của SD3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TD3PB/TQLC và TD7TQLC, lănh thêm nhiệm vụ pḥng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly. 6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bổng có tin TQLC Hoa Kỳ đă đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TD3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Đông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, v́ bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Đông Hà. Ngày 3-4, Trung Đoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng ḿn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung Tá Phạm Văn Đính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TD1 Pháo binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt. Đây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Đông Dương lần 2. T́nh h́nh đă quá nguy ngập, nên cầu Đông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lử đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị. Ngày 4-4, Lử đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, v́ không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. V́ quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lử đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị.. Riêng TD7 TQLC v́ quân số c̣n nguyên vẹn, nên được lệnh giữ c̣n đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ c̣n có TD1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố mà thôi. Do t́nh h́nh quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SD3 là 2 và 57, hai Lử đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Đoàn Biệt Động Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Địa Phương Quân + NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng v́ lệnh chỉ huy không thống nhất, giữa Tướng Hoàng Xuân Lăm (Tư lệnh QĐ1) từ Đà Nẳng và Chuẩn tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh SD3BB) tại chiến trường, khiến cho t́nh thế đă không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đă thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đă ban lệnh di tản.
Lúc đó Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Đồng thời phải giải tỏa quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc lộ 1. T́nh trạng này, đă làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh. Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà c̣n khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá. Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc pḥng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh SD3BB, đă viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đă thất hứa, đă cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và pḥng thủ vững chắc gấp 100 lân thị xă An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.
Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân ḿnh. Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh, đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với t́nh đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù. Trần Đức, một người lính nhẩy dù, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Đại Lộ Kinh Hoàng, đă không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe. Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ c̣n bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như c̣n mong bờ đất dưới ruộng che chở cho ḿnh thoát tầm đạn giặc. Đó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lư và B40.Th́ ra cộng quân đă đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đă bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. H́nh ảnh này trong trận tấn công “Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972” ghi sâu măi măi trong kư ức của những người đă chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng sản Bắc Việt. Đoạn đường mang tên “Đại Lộ Kinh Hoàng” nay không c̣n xác chết, không c̣n dấu vết của tội ác. Họ đă được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước đắm ch́m trong tù gông nô lệ của thực dân VC, v́ vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đ́nh ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không c̣n thân nhân th́ mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đă chết tức tưởi mà đến nay họ c̣n u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ dược là 30 năm sau, người đời vẫn c̣n nhớ thương họ. Vào ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đă tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Dỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị., mặc dù chính quyền địa phương đă cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ tŕ chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đă mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát. Mới đây báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950. Báo viết lính Mỹ gài ḿn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà tiến quân Bắc Cao. Sau đó v́ hốt hoảng hay lư do nào khác, khiến lính Mỹ hạ sát hằng trăm người tị nạn đang trốn dưới ṿm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ nghe mờ mịt và đang trong ṿng tranh căi. Khi viết tin trên, không biết VC có khi nào sám hối về những hành động bắn giết đồng bào ḿnh, trong cuộc chiến vừa qua và sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay. Đau đớn và nhục nhă nhất là VC lúc nào cũng xua công an bộ đội tàn sát người dân vô tội khắp nước, trong khi đó th́ qú mọp sát đất dang biển bán đảo cho Tàu Đỏ một cách đê hèn. Nhưng đâu có ǵ lạ v́ mang nợ th́ phải trả nợ thế thôi. Bởi vậy ngậm máu phun người, trước dơ miệng ḿnh và trên hết chỉ làm tṛ cười cho kẻ khác mà thôi. Ba chục năm máu lửa (1945-1975) chỉ v́ trành dành quyền lực mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đă t́m đủ mọi cách, trong đó bi thảm nhất là đem giang sơn gấm vốc Hồng Lạc để đánh đổi với Tàu đỏ để có súng đạn và phương tiện mang về giết hại đồng bào. Rồi cũng chỉ v́ muốn bảo vệ chiếc ngai vàng đẳm máu, đảng CSVN lại cúi đầu nhắm mắt đem cẩm tú non sông Việt bán dần ṃn cho giặc cướp phương Bắc. Trong khi đó vẫn thẳng tay tàn sát đồng bào ḿnh. Nghiệt
ngă của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy
mà c̣n nhiều tên việt gian tại hải ngoại
cứ dững dưng ca tụng Hồ và đ̣i ḥa
họp hoà giải với ṿng ôm lớn cùng VC. Tháng 3-2015
|