Thế Lực của Xă hội Dân Sự


Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS
January 29, 2013

 

Chúng ta sẽ hiểu rơ thế lực của Xă hội Dân Sự[1] sau khi xác định xong h́nh thức tổ chức,vị trí đối chiếu và vai tṛ thực thi Dân Chủ của Xă Hội Dân Sự [XHDS] trong không gian và thời gian hiện đại.

H́nh Thức Tổ Chức

XHDS là tổng hợp các chủ thể pháp nhân[2]nhằm đáp ứng, tương trợ và bảo trọng quyền lợi, mục tiêu và phẩm giá tập thể của công dân, của dân chúng trong nước và trong cộng đồng thế giới, theo định hướng nhân bản tự quyết, tự duy.

Muốn hữu hiệu, XHDS cần tự nguyện đoàn ngũ hoá thành “Tổ chức XHDS”, dưới h́nh thức tổ chức bất vụ lợi,[3] độc lập, hoặc tổ chức phi chính phủ,[4] để hoạt động trong các lĩnh vực xă hội, kinh tế, từ thiện, giáo dục, tôn giáo, nghề nghiệp, điều nghiên, văn học, nghệ thuật, các phong trào dân vận bảo trọng nhân quyền v.v.

Khi tự nguyện thành lập đúng theo khuôn khổ “tập thể mở rộng”, căn cứ vào thủ tục pháp định liên hệ, tổ chức XHDS có dịp công khai, minh bạch hoá mục tiêu và sứ mạng theo đuổi, với kết quả đóng góp thế lực và ảnh hưởng nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực sinh hoạt cộng đồng.

Sinh hoạt hợp pháp của tổ chức XHDS cũng cho phép lượng giá chính thể hiện hữu là dân chủ cởi mở [a] nếu tôn trọng hoạt động chính thống của XHDS; [b] c̣n không sẽ phải coi là chuyên chế, phản dân chủ, khi cấm đoán, ḱm kẹp, kiểm soát các tổ chức tập thể này.

XHDS phải được minh thị tôn trọng như một nhu cầu chính đáng của dân, do dân, v́ dân. Mọi h́nh thức tổ chức XHDS khác đều có tính cách trá h́nh, lươn lẹo, vừa phản động ngược chiều, vừa vô hiệu, phí phạm nhân lực, tài lực.

Nếu thiếu minh bạch, thiếu sinh lực tổ chức, thiếu sở trường và mục tiêu đúng đắn, mọi sinh hoạt tạm bợ, giả tạo, nhất là loại dàn dựng cơ sở man trá theo nhu cầu phiệt “Xă Hội Chủ nghĩa”, sẽ tức khắc phản nghịch, phản tác dụng, không thực sự giúp được bất cứ ai [a] người chủ trương ma thuật, [b] giới “thừa hưởng” bánh vẽ trên thiên đường lường gạt, [c] lẫn phe đầu nậu đảng, tài, quân phiệt.

XHDS, vốn thuộc về văn hoá mở rộng của tập thể đại chúng tự duy, tự khởi, tự trọng, chỉ ích lợi nếu quy tụ chung quang đời sống chân thực của công dân và con người làm chuẩn. XHDS về mặt căn bản pháp định hay theo tiêu chuẩn công lư phải là một tổ chức thiện nguyện, nhân bản, đạo đức, không tư lợi.

Vị trí Đối Chiếu

Vậy XHDS nằm trong khu vực dân sự, lấy “sự việc” của “công dân” làm căn bản đo lường. Khu vực sinh hoạt của XHDS [a] khác với khu vực cá nhân, gia đ́nh, [b] khác với khu vực tư lợi kinh tế thị trường, và [c] cũng khác với khu vực chính quyền.

[A] Khu vực XHDS khác với khu vực cá nhân, gia đ́nh, nhóm đảng

Ở địa vị cá nhân, gia đ́nh, bè nhóm, người dân hành động

  • v́ quyền lợi, mục tiêu riêng rẽ và chỉ gây dựng được những ảnh hưởng có lợi ích hạn hẹp cho cá nhân, gia đ́nh, bè nhóm như sáng tạo một tác phẩm; sinh hoạt theo nội quy đảng; hay theo “đường lối” cai trị của nhà cầm quyền;
  • nhưng chưa hoạt động theo tiêu chuẩn “tập thể mở rộng” của XHDS độc lập, với sứ mạng của một hội nghiên cứu văn học, khoa học; một hiệp hội từ thiện; một tổ chức bảo vệ nhân quyền.

Nhưng nếu những cá nhân, tập thể gia đ́nh lại đứng ra hô hào, đề xướng các chương tŕnh từ thiện bảo trợ một mục tiêu, một sứ mạng bác ái, phụng sự xă hội, nghề nghiệp, văn hoá, giáo dục mở rộng, có ích lợi chung, không hạn hẹp, không trục lợi, th́ cá nhân đó, gia đ́nh đó có đủ tư cách sinh hoạt trong phạm vi của khu vực XHDS, miễn:

  • giữ thế phân định minh bạch, không mập mờ lẫn lộn về sổ sách, ngân quư, quyền lợi giữa hai khu vực riêng tư [cá nhân, gia đ́nh, bè nhóm] và hiệp hội;
  • không biệt đăi, không kỳ thị. Đó là lư do tại sao các nhân vật [có liêm sỉ] phải từ chối một chức vụ quan trọng trong tổ chức XHDS, hay bất cứ mốt chức vụ công quyền nào khác, để tránh trường hợp mập mờ, tranh chấp quyền lợi [conflict of interests] có thể xẩy ra.

Ngược lại, với tư cách đại nhiệm cơ sở XHDS, các quản trị viên, thành viên và người hỗ trợ hiệp hội sẽ được bù đắp, và nếu cần, được miễn trách, miễn hay giảm thuế, căn cứ vào mức độ tham gia, đóng góp, và tư cách công minh, không lạm quyền, lạm dụng của họ.

Kể từ những năm 1990, với sự h́nh thành của các Phong Trào Tân Xă Hội [New Social Movements] tại thế giới tự do, sinh hoạt XHDS đă đột phát mạnh để trở thành khối thế lực thứ ba [third sector][5] thực thi chiến lược xây dựng trật tự toàn cầu, trong một không gian nhân bản không ranh giới,

  • th́ sinh hoạt của XHDS đă chuyển hướng áp dụng những chương tŕnhthiện nguyện thuần xă hội,
  • trong khi nhu cầu tranh đấu chính trị c̣n lại được tụ tập thành Xă Hội Chính Trị [Political Society] của các hội đoàn tranh đấu về ư thức hệ, chống đối các tai ương cai trị chuyên chế, các bạo hành công lực, công quyền.

Riêng tại các quốc gia mà mực độ tự do công dân c̣n quá thấp, với cơ cấu công quyền chuyên chế c̣n lấn át quá mạnh, như tại Việt Nam ngày nay, th́ khía cạnh chính trị khó có thể tách ra khỏi mục tiêu sinh hoạt của các tổ chức XHDS: vừa giúp đỡ xây dựng xă hội thiếu thốn về mặt vật chất, kinh tế, giáo dục, vừa bênh vực xă hội lâm nạn, bị ngược đăi tinh thần, mất tự do, mất phẩm giá con người, bị truất quyền công dân, mất quyền sở hữu.

[B] Khu vực XHDS khác với khu vực vụ tư lợi kinh tế thị trường.[6]

Trong khi các doanh nhân, các pháp nhân xí nghiệp, công ty thương mại đều sinh hoạt mong lấy lời [tư lợi] v́ đầu tư vốn liếng, máy móc [cơ sở tư bản],[7] sáng kiến, th́ các hiệp hội từ thiện, nghiệp đoàn, các tổ chức khuyến học, bảo tồn văn hoá, bảo vệ tự do nhân quyền v.v. lại là những pháp nhân thiện nguyện, bất vụ lợi, sinh hoạt với mục đích cung cấp ích lợi chung cho đại chúng qua những đơn vị nhận lợi ích theo nhu cầu hơn là theo khả năng.

Do đó, trong lănh vực XHDS, căn bản trao đổi không tùy thuộc vào yếu tố cung cầu trên thị trường mà căn cứ:

  • hoặc vào t́nh trạng khẩn trương và nỗ lực cứu độ nạn nhân, kẻ thất thế;
  • hoặc vào lư tưởng bảo vệ tự do, phẩm giá con người;
  • hoặc vào giá trị của tư tưởng sáng tạo, nhân bản cần bảo vệ, chu toàn, khai triển.

Vốn liếng của XHDS là “vốn xă hội” [Social Capital], vốn nhân bản, với sự đóng góp liên tục, trường kỳ về mặt nhân lực và kiến thức của người dân. Trong vị trí của XHDS, công dân

  • vừa là “đối tác” trợ lực đầu tư sáng kiến và tâm thức,
  • vừa là cứu cánh tập thể hưởng thụ phúc lợi, an sinh, quyền lợi và phẩm giá của mọi công dân, của con người nói chung trong cộng đồng toàn cầu.

Sinh hoạt bất vụ lợi cũng cần phương tiện cụ thể, tiền bạc, cơ sở sinh hoạt. Nhưng chỉ khác là những hạ tầng cơ sở tài lực và điều hành đó không làm lợi cho thành viên các tổ chức hiệp hội, mà phải được phân minh, để riêng thành các chương mục phục vụ công ích, theo tiêu chuẩn của nội quy [By-laws] và định nghĩa căn bản của XHDS:

  • gây quỹ cứu trợ chẳng hạn, th́ phải t́m cách thu xếp trao gửi tiền, tặng phẩm tới tay nạn nhân, tới thành phần cần cứu độ, trợ giúp;
  • chứ không v́ lợi ích riêng tư, hay biệt đăi bè nhóm;
  • cũng không thể a ṭng, dễ dăi với kẻ phạm pháp, với chính quyền địa phương bất chính, để gây ra t́nh trạng thất thoát, làm thiệt hại cho nạn nhân, cho dân chúng thực sự có nhu cầu.

Vậy sinh hoạt bất vụ lợi của một hiệp hội cần:

  • phân tách tiền tài thu nhập, cần có ngân khoản rơ rệt, riêng biệt; có sổ sách chứng minh kế toán khả quan;
  • để không “nhập nhằng” trở thành của cải riêng tư của các thành viên, quản trị viên.

Ngoài ra, nguồn tài lực do các chương tŕnh gây quỹ và đóng góp của giới hảo tâm vẫn là yếu tố hỗ trợ quan trọng cho các sinh hoạt thuộc phạm vi XHDS. Có ngân quỹ mới có dịch vụ cộng đồng, mới có các dự án bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền trong mọi sinh hoạt xă hội, nghề nghiệp, giúp đỡ từ thiện, cải tiến môi sinh, bảo vệ môi trường. Có tài chính mới có dự án nghiên cứu y tế cộng cộng, mới thực hiện được những chương tŕnh sáng tạo văn nghệ, phát huy giáo dục v.v.

Nhưng cần nhất, mọi thủ tục tài chính, thu và chi phải được thực hiện theo đúng thủ tục, đúng tiêu chuẩn công bằng, minh bạch, không lạm quyền tư lợi, không a ṭng tham nhũng.

Như đă nói trước đây, nếu những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh lại đứng ra hô hào, đề xướng các chương tŕnh từ thiện bảo trợ một mục tiêu, một sứ mạng bác ái, phụng sự xă hội, nghề nghiệp, văn hoá, giáo dục mở rộng, có ích lợi chung, không hạn hẹp, không trục lợi, hay v́ trách nhiệm đạo đức xí nghiệp[8], th́ các chương tŕnh từ thiện, đạo đức của xí nghiệp, cơ sở kinh doanh liên hệ có đủ tư cách sinh hoạt trong phạm vi và thep tiêu chuẩn XHDS, miễn các chương tŕnh “đặc nhiệm” này:

  • giữ thế phân định minh bạch, không mập mờ lẫn lộn về sổ sách, ngân quư, quyền lợi giữa hai khu vực kinh doanh tư lợi và hiệp hội bất vụ lợi;
  • không biệt đăi, không kỳ thị.

[C] Khu vực XHDS khác với khu vực công quyền [chính quyền, chính phủ, nhà nước],[9] v́ như tại Hoa Kỳ, XHDS xây dựng căn bản dân quyền trên năm trụ lực:

  1. tự do tư tưởng, tôn giáo;
  2. tự do ngôn luận, chính kiến;
  3. tự do báo chí, thông tin;
  4. tự do hội họp, tổ chức đoàn ngũ tập thể;
  5. tự do phê phán công quyền.

Thật vậy, căn cứ vào Tu chính Thứ Nhất [10] của Hiến Pháp Hoa Kỳ,[11] nhà Lập Pháp không được biệt đăi một tôn giáo, lẫn cấm đoán tự do tín ngưỡng liên hệ; không được cản trở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền hội họp ôn hoà và thỉnh cầu chính quyền sửa sai.[12] Rơ rệt, XHDS giữ thế đứng hiến định của “khối lực thứ ba” trong việc xây dựng & bảo tŕ nền tảng dân chủ tại Hoa Kỳ.

Việc đăng kư một tổ chức bất vụ lợi, với tư cách pháp nhân độc lập, rất thông thường trên thế giới tự do. Luật lệ Hoa Kỳ tại các Tiểu Bang liên hệ tới trụ sở khai báo của tổ chức đều ấn định một số quy tắc tổ chức dưới h́nh thức kê khai lập hội [articles of incorporation], ghi rơ hội danh, mục đích, trụ sở, người đứng khai, thành phần sáng lập viên hay hội đồng quản trị. Sau khi có giấy chứng nhận lập hội, việc đầu tiên cần thi hành là xin số khai báo của Hội với Cơ Quan Thuế Vụ IRS [EIN: Emplower Identification Number] để mở chương mục riêng cho Hội, và sau vài năm sinh hoạt, xin miễn-giảm Thuế Liên Bang dưới quan hệ pháp lư 501(C)(3) và kế tiếp, dành cho các hiệp hội, tổ chức bất vụ lợi có mục tiêu tôn giáo, giáo dục, từ thiện v.v.

Có lẽ sau mục tiêu “tôn giáo”, mục tiêu “từ thiện” được hưởng ứng nhiều nhất trên mọi địa bàn, quốc nội & quốc ngoại, trong thế giới tự do. Hoa Kỳ đ̣i hỏi các hiệp hội, kể cả các hiệp quỹ tư [private foundation], nhưRockefeller FoundationBill & Melinda Gates Foundation, khi sử dụng danh nghĩa “từ thiện” phải có sứ mạng đích thực phục vụ “công ích chung” [public interests],[13] nghĩa là phải cung cấp ích lợi cho tập thể mở rộng, cho dân chúng trong nước và trên toàn cầu, chứ không dành cho tư nhân, gia đ́nh, bè nhóm.

Riêng Anh Quốc, cắn cứ vào Đạo Luật Từ Thiện 2006,[14] ấn định quy chế/mục tiêu từ thiện một cách rất bao quát, gồm có:

  1. đề pḥng và giải trừ nghèo khổ
  2. phát huy giáo dục
  3. phát huy tôn giáo
  4. phát huy y tế công cộng & giải pháp cứu sống người
  5. phát huy cộng đồng công dân
  6. phát huy nghệ thuật, văn hoá, truyền thống, khoa học
  7. phát huy thể thao không chuyên nghiệp
  8. phát huy nhân quyền, tôn giáo qua đường lối hoà giải chủng tộc, b́nh quyền và đa dạng hoá
  9. cải tiến & bảo vệ môi trường
  10. cứu độ nạn nhân có nhu cầu cấp cúu v́ tuổi thơ ấu, bệnh tật, tàn phế, nghèo túng, thất thế về các mặt xă hội khác.
  11. phát huy bảo vệ súc vật v.v.

Cần Ghi Rơ:

Tất cả các tổ chức bất vụ lợi và hiệp quỹ tư trên đều có tính cách XHDS: của dân, do dân, v́ dân. Các thành viền, từ sáng lập viên, hội viên, ban quản trị đều là dân trăm phần trăm. Họ lập hội v́ nghĩa cử, v́ trách nhiệm công dân, v́ quyền lợi tập thể, v́ phẩm giá con người, trong nước và toàn cầu.

Các hiệp hội này sống nhờ những đóng góp nhân từ, gây quỹ, tặng giữ cá nhân, hội đoàn, pháp nhân kinh doanh, công ty thương mại có chương mục từ thiện. Họ đóng góp tới đâu sẽ được giảm thuế tương xứng tới đó. Đó là cách thức trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào sinh hoạt hiệp hội và từ thiền quảng đại. Chúng ta đă thấy nhà hảo tâm tỷ phú Warren Buffett đă trao tặng 31 tỷ Mỹ Kim cho Quỹ Bill & Melinda Gates Foundation để cùng làm việc nghĩa. Dù có nhận tiền đóng góp trên, các hiệp hội vẫn toàn quyền hành động theo đường lối của hội, căn cứ vào mục đích và sứ mạng đảm nhận. Họ không hề bị bất cứ thế lực nào ḱm kẹp, ngoài việc phải thi hành sứ mạng từ thiện theo đúng tiêu chuẩn hiệp hội, một cách công minh, hợp lệ, hợp luân lư căn bản.

Chế độ cộng sản, kể cả cái gọi là “nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam” [NCHXHCNVN], đă nhập nhằng bày đặt một số tổ chức tập đoàn, cũng dâng cao danh nghĩa dân chủ trá h́nh, với khẩu hiệu “sao chép lậu” — nên rất nhiều hà t́, sai quấy, kiểu “nói-như-vẹm” hay “nói-như-vẹt”, thành vô nghĩa: của dân, do dân, v́ dân [sic]. Đó là hiện tượng quái dị của các “tập đoàn dân sự” [sic] lấy tên là “Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam” [MTTQVN] từ cấp thành phố, tỉnh, tới cấp huyện, và các “Câu Lạc Bộ” đủ thứ [liên minh, liên kết với MTTQVN], đều được thành lập bởi đảng viên cộng sản hoặc chuẩn-đảng viên-khăn-quàng-đỏ.

Tất cả các tổ chức này chỉ phục vụ cho một thiểu số thống trị ước lượng gần 3,1 triệu đảng viên, chiếm 3,73% dân số cả nước.[15] Trên giấy trắng mực đen, họ đă xác nhận các tổ chức này chỉ là loại trá h́nh “dân sự”, mà đáng lẽ phải trắng trợn gọi là tổ chức “đảng sự”, thực tế “của đảng ta, do đảng ta, v́ đảng ta”. Cái hiện tương này rất dễ hiểu, khi họ ghi nhận rơ ràng qua Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi):

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội.”

Đó là lư do tại sao có nhà biên khảo theo “xă hội chủ nghĩa” lại nhận định rằng:

“XHDS ở VN cơ bản không mang tính đối kháng trong nó và với nhà nước. Tính đồng thuận và đoàn kết xă hội của XHDS khá cao, nhưng các tổ chức hoạt động c̣n phân tán, tính pháp lư chưa đủ và cần thiết”.[16]

Vậy, cái sắc thái “…không mang tính đối kháng trong nó và với nhà nước…đồng thuận và đoàn kết…” của các tổ chức này là do thế kẹt “chỉ đâu ăn nấy” hoặc “chỉ đâu đánh nấy”, theo chiều dọc của “Đảng ta”, từ đỉnh cao rớt xuống.

Do đó, chúng tôi đề nghị với quư biên khảo gia kể từ nay nên gạt bỏ thuật ngữ Xă Hội Dân Sự [XHDS] đối với các “hội ma” này tại Việt Nam, mà nên đặt các tổ chức đó vào thực trạng của nó, mà chúng tôi mạn phép tạo một thuật ngữ mới là “Xă Hội Đảng Sự” [XHĐS], dịch ra tiếng Anh-Mỹ là “Nomenklatura Society” [NS], cho thuận lư, thuận cảnh, vừa “logic”[sic]/thuần lư, vừa hợp thời trang, hợp đảng, hợp cán, v́ XHĐS đó, từ mấy chục năm nay chỉ là loại Xă Hội điếu đóm, nhem nhuốc, dần dà lột xác thành Xă Hội Mafia đỏ ăn chia, ăn đủ hàng họ, đất đai, vàng bạc, rác rưởi. Không đảng viên nào dám chê. Nhất chí!

Vai Tṛ Thực Thi Dân Chủ

Trên thực tế, các nhà cầm quyền cộng sản rất e ngại sự h́nh thành thực sự, đúng nghĩa của XHDS, v́ coi “khối thế lực thứ ba” — độc lập, tự chủ, tự quyết — này dẽ gây trở ngại cho chính sách công quyền một chiều, độc đoán, toàn trị của họ.

Ngày hôm nay, những ai có lương tri và lương tâm đều công nhận rằng XHDS, với “Vốn Xă Hội” [Social Capital] và đặc tính văn hoá tân xă hội, đă

  • một mặt tạo dựng sức mạnh liên đới phát huy và bảo trọng nền dân chủ chân chính,
  • mặt khác tiếp tục t́m phương thức giảm thiểu xung đột, va chạm, mâu thuẫn, đối kháng trong xă hội.

Cái ưu điểm của XHDS là tính cách năng động của các tổ chức dân sự tự nguyện trong việc

  • ảnh hưởng, định hướng chính sách đối nội vá đối ngoại;
  • thay dổi, phát huy đời sống kinh tế, xă hội, văn hoá giáo dục;
  • tăng cường mức độ an ninh trong nước và ngoài nước.

Hoa Kỳ đă chứng minh sự liên hệ kết sinh mật thiết giữa năng độ đa nguyên và đa dạng của XHDS với sự bảo trọng và phát huy của nền dân chủ hữu hiệu. Đó là sự nẩy mầm dân chủ từ hạ tầng cơ sở [XHDS, từ ư dân, sáng kiến, yêu sách, đ̣i hỏi, khuyến cáo] lên tới thượng tầng cơ sở của hệ thống chính quyền [Nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp] có trách nhiệm đối với dân, đối với đất nước.

Vai tṛ của XHDS nhấn mạnh vào việc phát huy và bảo trọng dân chủ bằng cách:

[a] thực thi giá trị của dân chủ đa nguyên, đa dạng;

[b] hội nhập bằng hoà giải giữa nhiều khía cạnh của một vấn đề, v́ công ích và quyền lợi chung;

[c] bắc cầu giữa nhiều khối, nhóm, quyền lợi riêng rẽ, bằng cách nới rộng các vị thế tranh chấp, để cùng xây dựng một giải pháp ôn hoà khả chấp, khả thi chung;[17]

[d] giảm bớt mức độ quá khích của hành động và dùng lương tri để chuẩn định theo nhu cầu, quyền lợi và vị thế của dân;

[e] sử dụng tối đa các phương thức và kinh nghiệm sẵn có trong nước và trên toàn cầu về đường lối và kỹ thuật tranh đấu xây dựng dân chủ, kiến tạo hoà b́nh;

[f] liên kết với những thế lực song hành, cùng sứ mạng, cùng mục tiêu, mà cứu cánh là dân, là nhân loại;

[g] gây vốn xă hội bằng giải pháp hài hoà, công minh, công bằng;

[h] gây vốn điều hành và tạo niềm tin về mặt kỹ thuật của từng dự án xây dựng dân chủ.

Những thập nguyên gần đây, theo gương thế giới tự do, một số quốc gia đă vươn lên từ truyền thống chuyên chế. Năm 1998, Indonesia đă thoát khỏi tai ách độc tài của Suharto, sau khi ông ta bị dồn vào thế phải từ chức và bị truy tố về tội tham nhũng, với số tài sản phi pháp ước lương trên dưới 30 tỷ Mỹ Kim. Ngày hôm nay, Indonesia hưởng một chế độ cởi mở hơn, nhờ có tác động của các cơ sở XHDS, mỗi lúc mỗi phát khởi và liên kết chặt chẽ.

Nhờ có sự phát động của nhiều cơ sở XHDS tại Ethiopa, Quốc Hôi trở thành đa nguyên, nên đă chuyển hướng, đ̣i hỏi chính phủ Mặt Trận Cách Mạnh Ethopia [Ethopian People’s Revolutionary Front] phải chấm dứt kiểm duyệt báo chí và bắt bớ nhà báo ủng hộ sinh hoạt cua XHDS trong nước. Đó cũng là thành quả của hành động dân chủ hoá, qua hiện tượng đôn đốc thay đổi từ dưới lên,[18] từ ḷng dân khởi nghĩa.

Trong cùng giai đoạn từ 1998 tới 2004, chúng ta cũng đă chứng kiến vai tṛ năng động của XHDS tại Georgia, Ukraine, Slovakia, Croatia, Serbia trong việc thực hiện những cuộc bầu cử tự do đưa tới hiện tượng dân chủ mỗi lúc mỗi sáng tỏ tại những xứ sở này.

Và sau những cuộc bầu cử trên, XHDS vẫn phải tiếp tay với chính quyền để đa trạng hoá sự tham dự của công dân có sáng kiến xây dựng vào guồng máy quản trị đất nước chung. Vận động thường xuyên “giữa những cuộc bầu cử” mới thực sự đo lường năng lực tất yếu của XHDS tại bất cứ chính thể nào muốn tham dự cuộc hành tŕnh đưa tới tự do dân chủ, thịnh vượng, an sinh.

Ngay tại các quốc gia mà chế độ chuyên chế c̣n tồn tại dưới h́nh thức “dân-chủ-tiêu-cực/vô-hiệu”,[19] “dân chủ ḱm kẹp”,[20] hay “dân-chủ-không-tự do”[21] như tại Việt Nam, XHDS chân chính vẫn là giải pháp cần thiết đưa tới công thức dân chủ hoá, đem lại thịnh vượng và an ninh cho xứ sở, cho toàn vùng lân cận. V́ dân chủ chỉ có thể thực hiện toàn vẹn khi mọc mầm từ tự do, từ sáng kiến và nghị lực toàn dân làm nền tảng, vốn liếng.

Nhưng mượn vốn [xă hội] th́ phải trả lại cho ṣng phẳng, cho cân đối, cả vốn lẫn lời.

Nếu ngoan cố đ̣i tất cả “của” dân mà không hành đồng cho dân, v́ dân… là thứ chính sách ăn quỵt, ăn không, ắt không lâu bền, cũng có lúc mất cả vốn [ăn cướp] lẫn liếng [ăn có], “mất cả ch́ lẫn chài”, để cùng xụp đổ theo đà phá sản tập thể. Từ đảng tới cán.

C̣n sớm hơn, khi toàn dân thức tỉnh ”phá lưới CS” rách toạc, không biết cấp bá đạo ba đầu sáu tay có kịp bỏ quyền, bỏ của chạy lấy người?

Hăy sớm cảnh tỉnh mà trả lại không gian và chính nghĩa xă hội dân sự trên mảnh đất Việt Nam. Đừng để quá muộn.

TS-LS Lưu Nguyễn Đạt

www.vietthuc.org

[1] Civil Society
[2] Entity [entities]: (1) being or existence, esp. when considered as distinct, independent, or self-contained: He conceived of society as composed of particular entities requiring special treatment. (2) Something that exists as a particular and discrete unit: Persons and corporations are equivalent entities under the law
[3] NPO [Non-Profit-Organizations]/NFPO [Not-for-Profit Organization]
[4] NGO [Non-governmental organizations]
[5] Voluntary or non-profit sector of an economy; EX.: ”intermediary space between business and government where private energy can be deployed for public good.” Also called tertiary sector
[6] Economical Market
[7] Investment capital
[8] Corporate social responsibility (CSR, also called corporate conscience, corporate citizenship, social performance, or sustainable responsible business/ Responsible Business)
[9] State

[10] Amendment I, (1791)
[11] Hiến Pháp Hoa Kỳ [1787]
[12] «Congress shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government for a redress of grievances.” [Amendment I, (1791)].
[13] Public interests. “IRS document P557″. http://www.irs.gov/pub/irs-pdf/p557.pdf. Retrieved 2008-08-27.
[14] The Charities Act 2006 provides the following list of charitable purposes:

  1. the prevention or relief of poverty
  2. the advancement of education
  3. the advancement of religion
  4. the advancement of health or the saving of lives
  5. the advancement of citizenship or community development
  6. the advancement of the arts, culture, heritage or science
  7. the advancement of amateur sport
  8. the advancement of human rights, conflict resolution or reconciliation or the promotion of religious or racial harmony or equality and diversity
  9. the advancement of environmental protection or improvement
  10. the relief of those in need, by reason of youth, age, ill-health, disability, financial hardship or other disadvantage
  11. the advancement of animal welfare
  12. the promotion of the efficiency of the armed forces of the Crown or of the police, fire and rescue services or ambulance services
  13. other purposes currently recognised as charitable and any new charitable purposes which are similar to another charitable purpose.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Wikipedia
[16] Ts. Hồ Bá Thâm – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Tp. Hcm, Xă Hội Dân Sự, Tính ĐặcThù Và Vấn Đề ở Việt Nam
[17] build consensus and strengthen the moderate middle ground
[18] “making change from the bottom up”
[19] “feckless democracy”
[20] “control democracy”
[21] “illiberal democracy”

trở lại