Theo Con Đường Dân Tộc Cách Mạng KS Nguyễn văn Phảy |
Hôm nay ngày
30.4.2013 đánh dấu 38 năm ngày miền Nam Việt
Nam hoàn toàn bị sụp đỗ. Là một quân nhân
của quân lực VNCH đă chiến đấu
bảo vệ nền Tự Do Dân Chủ tại
miền Nam, không khỏi ngậm ngùi thương
tiếc đến đồng đội đă Vị
Quốc Vong Thân. Tuy
nhiên chúng ta luôn hảnh diện và tự hào. Chúng ta
đă cống hiến cuộc đời ḿnh trong quân
ngũ, hy sinh v́ Tổ Quốc, chiến đấu v́
toàn dân. Đă có bao lớp người ngă gục
để bảo vệ màu cờ chính nghĩa và ǵn
giữ non sông, để đồng bào ta có
được những thời gian năm dài tháng
rộng sống trong không khí tự do và ăn no
mặc ấm trước 30.4.1975. Bối
cảnh năm 1975: Nh́n
về quá khứ, t́nh h́nh chính trị đầu năm
1975 có nhiều điểm bất lợi cho ta. Thế
chiến lược ở Đông Nam Á có phần thay
đổi. Do đó lực lượng quân đội
và ngay cả guồng máy quốc gia từ thế
chủ động trở nên thụ động,
rồi cuối cùng đi đến thất bại.
Hậu quả của sự thất bại đó là hàng
triệu người Việt Nam phải sống trong
cảnh nghèo đói, lạc hậu và oan ức. Hàng
ngàn nhà tù trại giam, trại cải tạo mọc lên
sau 30.4.1975. Hàng ngàn người bị gông cùm
xiềng xích cũng như bị thanh trừng, bị
giết cá nhân hoặc tập thể. Hàng trăm ngàn
người đă bị cướp mất nhà
cửa và bị đẩy vào rừng sâu nước
độc được gọi là vùng kinh tế
mới. Hàng trăm ngàn người đă bị xô
đuổi ra khơi và hầu hết bị chết
ch́m trên biển cả mênh mông. Việt
Nam có nhiều cơ hội để phát triển nhưng
v́ có nhiều chính sách sai lầm của chế độ
nên đă đưa cả một dân tộc Việt
đến đà suy vong, đă làm cho cả nước
chậm tiến nếu không nói là thụt lùi theo
thời đại, nhất là biến miền Nam
Việt Nam giàu có trở thành nghèo đói, biến xă
hội hưng thịnh trở thành một xă hội băng
hoại và điêu tàn. Nền văn hoá, thuần phong
mỹ tục không c̣n như xưa. Hầu như
tất cả người dân Việt Nam đều
sống với tâm lư sợ hải v́ thù hằn, nghi
kỵ lẫn nhau. Mọi quyền Tự Do, Dân
Chủ, Dân Sinh, Dân Quyền và Nhân Quyền là
những yếu tố cần thiết để phát
triển kinh tế th́ đều bị tước
đọat và ngăn cấm. Mối tương
quan giữa Cộng sản Việt Nam và Trung cộng: -
Ngày 14.9.1958: Phạm Văn Đồng là Thủ tướng
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đă kư
công hàm xác nhận và tôn trọng hải phận 12
hải lư khi TC tuyên bố chủ quyền quần
đảo Tây Sa (Hoàng sa) và quần đảo Nam Sa
(Trường Sa) thuộc Trung cộng (TC) vào ngày
4.9.1958.
-
Ngày 19.1.1974: Từ nhiều năm Trung cộng đă
cung cấp, tiếp tế vũ khí đạn dược,
quân trang quân dụng, lương thực ngày càng
nhiều cho Việt cộng và ngay cả việc TC
đưa trên 300.000 quân qua đồn trú tại
Bắc Việt để Việt cộng giảm
nhẹ sự pḥng thủ miền Bắc, rảnh tay,
gia tăng áp lực cũng như mở nhiều
cuộc tấn công tại miền Nam Việt Nam
nhằm làm suy yếu lực lượng VNCH. Lợi
dụng t́nh thế đó v́ có chủ đích, Mao
Trạch Đông chỉ đạo cho tổ lănh đạo
Trung cộng 6 người gồm Diệp Kiếm Anh,
Đặng Tiểu B́nh, Vương Hồng Văn, Trương
Xuân Kiều, Trần Tích Liên, Tô Chấn Hoa họp ngày
đêm để thực hiện kế hoạch
chiếm biển Đông. Trung
cộng đă dùng một lực lượng phối
hợp hải, lục, không quân thật hùng hậu do
Phó Đô Đốc Phương Quang Kinh
đương kiêm là Tư Lệnh Phó Hạm Đội
Nam Hải của TC chỉ huy chiến thuật,
gồm có nhiều chiến hạm tối tân ngay
cả tàu ngầm và phi cơ chiến đấu
của TC để xâm chiếm nhóm đảo
Nguyệt Thiềm nằm phía Tây của quần đảo
Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH vào thời điểm
đó. -
Ngày 14.3.1988: Tại quần đảo Trường Sa
thuộc chủ quyền Việt Nam, Trung cộng đă
bắn giết 64 bộ đội hải quân (HQ)
cộng sản Việt Nam (CSVN) và bắn ch́m 3
chiến hạm của CSVN mà bộ đội HQ CSVN
không được phép bắn trả. Trung cộng
đă chiếm đảo Gạc Ma và 5 ḥn đảo
nhỏ khác. Một số người Việt chúng ta
có cả các vị học giả, biên khảo, chính
trị gia đă nghi ngờ và cho rằng có thể
đó là trận chiến nguỵ tạo giữa
cộng sản Việt Nam và Trung cộng để
CSVN dâng hiến đảo Gạc Ma và thêm các đảo
khác cho TC nhằm để trả nợ trước
áp lực của TC. Trận chiến nầy nhà nước
CSVN đă ém nhẹm không cho dân Việt Nam biết cho
tới khi TC phổ biến tin tức nầy lên liên
mạng internet năm 2007 bằng Youtube. -
Ngày 30.12.1999: Tại Hà Nội, hai ngoại trưởng
Nguyễn Mạnh Cầm của Việt Nam và
Đường Gia Triền của Trung cộng chính
thức kư „Hiệp ước biên giới trên đất
liền“, theo đó Ải Nam Quan thuộc về Trung
Hoa. Qua Hiệp ước nầy, CSVN đă dâng
hiến cho Trung cộng nhiều ngàn cây số vuông
đất đai ở biên giới Trung-Việt.
Bản Hiệp ước này được Quốc
hội Trung cộng thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và
Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 9 tháng 6 cùng năm.
Việc cắm mốc biên giới bắt đầu
từ năm 2001 đến cuối năm 2008 th́ xong.
Cột mốc Ải Nam Quan đă được
dời vào sâu bên trong biên giới Trung-Việt hướng
về phía Việt Nam khoảng 300 đến 400 mét. -
Ngày 25.12.2000: Hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ là
thoả hiệp được kư kết giữa nhà nước
CSVN và Trung cộng tại Bắc Kinh nhằm xác định
biên giới lănh hải, thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế trong vịnh Bắc
Bộ. Hiệp định này thay thế Công Ước
Pháp-Thanh 1887 [1a].
Qua Hiệp định năm
2000, CSVN lại dâng hiến thêm nhiều ngàn cây
số vuông biển ở vịnh Bắc Bộ cho Trung
cộng. Từ đó, TC có nhiều điều
kiện thuận lợi xâm chiếm biển Đông
của Việt Nam, cũng như Việt Nam để
mất đi nhiều tấn hải sản hàng năm
ở vùng biển nầy và chưa kể đến tài
nguyên dưới đáy biển và khía cạnh
chiến thuật. Nhiều
năm qua, Trung Cộng đă tiếp tục bành trướng
ở biển Đông. Chúng dùng tàu hải giám, dùng tàu
chiến nguỵ trang tàu đánh cá, đă ngăn
cản ngư dân Việt Nam đánh cá, cướp tài
sản hải nghiệp của đồng bào ta. Chúng
dùng tàu hải giám ủi ch́m ghe đánh cá cũng như
dùng tàu cảnh sát biển bắn cháy ghe của ngư
dân Việt Nam tại nhóm đảo Nguyệt
Thiềm của quần đảo Hoàng Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam. Chúng cắt dây cáp của
tàu Nghiên Cứu Hải Dương của Việt Nam.
Ngoài ra chúng xem đất liền, biển đảo
của Việt Nam như là của chúng. Chúng c̣n có
những hành động thô bạo đối với
công nhân và dân chúng Việt Nam ngay trên đất
Việt. Chúng muốn làm ǵ th́ tuỳ tiện, toàn dân
Việt Nam rất là than oán mà nhà nước Việt
Nam th́ thờ ơ và không can thiệp thích đáng
để bảo vệ quyền lợi của người
dân Việt Nam. Trước
những cảnh tượng đó, câu hỏi
được nêu ra là chúng ta phải làm ǵ trước
hiểm hoạ xâm lăng của ngoại bang và đất
nước tụt hậu? Để
trả lời câu hỏi đó, trước hết chúng
ta phải xác định ḿnh là ai nếu đang định
cư ở hải ngoại. Tựu trung, ai ai cũng nói
rằng ḿnh là người Việt, là người
mang trong người máu đỏ da vàng thuộc ḍng
giống Rồng Tiên. Vậy th́ chúng ta không thể
chối bỏ đất nước mà chúng ta đă
được sinh ra và lớn lên, đang có
khoảng 87 triệu người sinh sống, như cá
không thể chối bỏ ḍng sông hay biển cả.
Chúng ta phải có trách nhiệm đối với
đất nước mà từ đó chúng ta đă
được nuôi dưỡng và trưởng thành. Ngạn
ngữ Tây phương có câu: Bạn đừng bao giờ quên cái nôi mà nơi
đó bạn được lớn lên Khi
chúng ta hiểu rơ như thế và bắt tay vào hành
động th́ hy vọng đất nước chúng
ta mới tồn tại và thăng tiến. Nhưng
muốn hành động đúng, mỗi người
trong chúng ta phải có tư tưởng đúng, và
muốn có tư tưởng đúng th́ chúng ta
phải có nhận thức đúng, suy nghĩ đúng.
Đó là hệ tư duy của con người để
đạt kết quả tốt đẹp. Cấp lănh
đạo của một quốc gia lại hơn ai
hết cần phải nắm vững điều đó.
Chính quyền chọn định chế chính trị
không thích hợp với quần chúng, với ư
nguyện toàn dân, thực hiện chính sách sai lầm
th́ đưa cả nước xuống bờ vực
thẳm. Vậy
chúng ta hảy t́m hiểu xem lư do tại sao đất
nước chúng ta vào thế kỷ 21 mà người
dân vẫn c̣n bị áp bức, nghèo đói và lạc
hậu. Chúng ta có thể nói rằng Con
Đường Dân Tộc Cách Mạng mà
dân tộc chúng ta tiến hành chưa thành công, đất
nước chưa được giải phóng, người
dân chưa được Tự Do Dân Chủ, quốc
gia chưa có một định chế chính trị pháp
quyền thật sự. Nền kinh tế th́ tụt
hậu, xă hội th́ băng hoại, mọi tầng
lớp công dân chưa có cơ hội đóng góp cho
việc kiến thiết đất nước. Đất
nước chúng ta vẫn c̣n nằm trong ṿng luẩn
quẩn về chính thể và chậm tiến, trong khi
đó chúng ta có 3 triệu người ở hải
ngoại với khoảng 400.000 chuyên gia và chuyên viên,
và khoảng 87
triệu người trong nước với một
nguồn nhân lực dồi dào. Vậy
chúng ta hảy t́m hiểu xem Con Đường Dân
Tộc Cách Mạng đă được tiến hành
như thế nào để trang bị cho chúng ta
một cái nh́n thiết thực nhằm góp phần
đấu tranh và xây dựng cũng như canh tân
đất nước. Đó cũng là trách nhiệm
của toàn dân Việt Nam chứ không riêng ǵ của
một đảng phái, của một lực lượng,
tổ chức hay của một nhóm người nào. Nghĩa
là, muốn giải phóng đất nước thoát
khỏi lạc hậu và nghèo đói, áp bức oan trái
để tái thiết và phục hưng đất nước
Việt Nam th́ chúng ta phải tiếp nối tiến hành
cuộc „Cách Mạng Dân Tộc“. Thực
ra, tinh thần Cách Mạng Dân Tộc này không phải
vài chục năm nay mới có hay ngày nay mới
bắt đầu, mà chúng ta đang tiếp tục công
cuộc Cách Mạng Dân Tộc của các bậc
tiền nhân đă bắt đầu từ hơn
thế kỷ nay, từ những năm cuối thế
kỷ 19. Nếu
chúng ta nhận thấy rơ trang sử đấu tranh
oai hùng của dân tộc ta trong thời gian
qua cũng như rút ra những khuyết điểm,
thiết tưởng chúng ta đă thấy rơ bổn
phận và trách nhiệm của ḿnh ngày hôm nay cũng
như chúng ta phải tiếp nối lịch sử như
thế nào rồi. Chúng
ta hảy lần lược t́m hiểu một số
dữ kiện sau đây: 1)
Cuộc
đấu tranh của Dân tộc Việt Nam trong
những ngày đầu của chế độ Pháp
thuộc Từ
khi Nguyễn Ánh đă bị nhà Tây Sơn đánh lui
ra tới Phú quốc, cuối cùng Nguyễn Ánh qua Xiêm
La, liên lạc với nhà truyền giáo người Pháp
tên là Bá Đa Lộc. Từ đó Nguyễn Ánh
dựa vào thế lực của Tây phương, đặc
biệt là Pháp để đánh bại nhà Tây Sơn
khi nội bộ anh em nhà Tây Sơn bất hoà với
nhau. Nguyễn Ánh lên ngôi Vua năm 1802 lấy niên
hiệu là Gia Long. Sau
20 năm trị v́ của triều đại nhà
Nguyễn, Việt Nam đă bắt đầu rơi vào
cảnh lệ thuộc ngoại bang và từ đó dân
tộc ta lâm vào hoàn cảnh bị nô lệ lầm
than. Năm
1859, chiến hạm Pháp đầu tiên bắn phá vào
Đà Nẵng, bắt đầu quân đội Pháp có
mặt trên đất nước ta. Hiệp ước
1884 dưới thời vua Tự Đức, đă nhường
cho Pháp nhiều tỉnh và nhiều nơi quan
trọng. Trước
nguy cơ mất nước và sự nhục nhă
của dân tộc, thành phần sĩ phu và dân chúng
đă nỗi lên khắp nơi. Đêm mùng 5 tháng 7 năm
1885, Tôn Thất Thuyết đă tổ chức một
cuộc tấn công bất ngờ vào thành Mang Cá
ở Huế. Bị thất bại, Tôn Thất
Thuyết đă đưa vua Hàm Nghi trốn khỏi
kinh thành Huế và di chuyển ra ngoài phía Bắc
miền Trung và truyền hịch Cần Vương.
Đồng thời kêu gọi toàn dân đứng lên
kháng chiến chống Pháp. Đáp lời kêu gọi
nầy, nhiều đạo binh Cần Vương
đă được thành lập. Nhưng
đến năm 1888 v́ có tên Việt gian Trương
Quang Ngọc làm phản, chỉ điểm nên vua Hàm
Nghi bị bắt. Năm 1896 phong trào Cần Vương
cũng bị tan ră sau khi Phan Đ́nh Phùng chết. Vào
thời gian nầy, ngoài Bắc có Nguyễn Thiện
Thuật đứng ra lập chiến khu Băi Sậy làm
cứ điểm chống Pháp. Sau đó có Nguyễn
Cao từ bỏ chức Bắc Kỳ Tán Lư Quân
Vụ về hợp tác với Nguyễn Thiện
Thuật. Ông ta rất tích cực trong việc mộ
nghĩa binh, trông nom và luyện tập binh lính và thường
kéo quân nguỵ trang theo lối du kích, đánh đồn
bót của quân Pháp chiếm trú, gây cho Pháp nhiều
thiệt hại nặng nề đáng kể. Cuối
năm 1897, cứ điểm Băi Sậy bị bao vây,
Nguyễn Thiện thuật phải bỏ chạy sang
Trung Hoa, t́m cách giải cứu căn cứ nhưng không
kịp nữa. Căn cứ Băi Sậy bị hoả công.
Sau đó Nguyễn Cao về làng Kim Giản, phủ
Ứng Hoà mở trường dạy học. Có
sự điềm chỉ nên Pháp biết, cho người
đến dụ dỗ ông nhưng ông một mực
từ chối và cuối cùng ông cắn lưỡi
tự tử. Chúng
ta cũng có thể nhận định rằng,
những cuộc kháng chiến như vậy mang tính
chất tranh thủ giành lại nền độc
lập cho Tổ Quốc, nhưng cũng là để
phục hồi một nền quân chủ, phục
vụ quyền lợi của một ḍng họ. Để
tiếp nối những trang sử oai hùng ấy, sau
khi phong trào Cần Vương tan ră, lớp người
trẻ đă đứng lên khai phá cho một giai
đoạn mới. Đó là giai đọan Dân
Tộc Cách Mạng. 2)
Phát
khởi công cuộc Dân Tộc Cách Mạng Trong
thời gian nầy đáng kể nhất là Phan
Bội Châu, Nguyễn Chu Trinh, Nguyễn Thượng
Hiền, Tăng Bạt Hổ… Phan
Bội Châu: Vào
đầu thế kỷ 20 và nhất là từ năm
1900 đến 1925, Phan Bội Châu đă giữ
một vai tṛ trọng đại trong nỗ lực giành
độc lập cho đất nước. Tiên sinh là
nhịp cầu giữa thế hệ sĩ phu nho
học và thế hệ trí thức tân học,
giữa tư tưởng chính trị nho giáo và các
chủ thuyết chính trị cận đại. Khởi
xướng và lănh đạo bởi Phan Bội Châu,
phong trào tranh thủ độc lập mất dần tính
cách Cần Vương để trở thành một
phong trào Dân Tộc Cách Mạng, mở rộng
tiếp thu tư tưởng dân chủ của Tây phương,
tư tưởng canh tân của Nhật Bản. Phan
Bội Châu đă thành lập nhóm Tân Đảng
với mục đích khôi phục cho Việt Nam và xây
dựng một chính thể Quân Chủ Lập Hiến
[1]. Rồi
đến năm 1904, Tân Đảng được
cải tổ thành Việt Nam Duy Tân Hội. Đây là
lần đầu tiên tại Việt Nam xuất
hiện một tổ chức đấu tranh có quy
củ. Qua Việt Nam Duy Tân Hội, Phan Bội Châu
đă phát động phong trào Đông Du để
đào tạo nhân tài cho quốc gia từ nước
ngoài, đồng thời mở Đông Kinh Nghĩa
Thục để nâng cao dân trí trong nước [2].
Với
những nỗ lực đấu tranh trên b́nh diện
văn hoá nầy cùng với tác phẩm Việt Nam
Vong Quốc Sử, Phan tiên sinh đă làm bừng
dậy ḷng yêu nước của nghĩa sĩ
Việt Nam và kêu gọi toàn dân vùng lên hành động.
Có thể nói rằng Phan Bội Châu là người
đầu tiên đă thực hiện một cách quy mô
cuộc vận động cách mạng, nghĩa là
đă gieo một làn gió mới vào ḷng người
Việt Nam. Nỗ lực của Phan Bội Châu đă
làm thức tỉnh toàn thể dân tộc ta và mở
đường cho biết bao công cuộc vận động
Cách Mạng của các lực lượng dân tộc
sau nầy. Sau
gần mười năm vận động văn hoá,
đến năm 1912, do ảnh hưởng cuộc Cách
mạng Tân Hợi [3]
thành công ở Trung Hoa, Phan Bội Châu và các chiến
hữu của Phan tiên sinh đă thành lập Việt
Nam Quang Phục Hội để đưa Cách
Mạng Dân Tộc sang một giai đoạn mới:
Đó là giai đoạn dùng vũ lực để
đạt mục tiêu cách mạng là giải phóng quê
hương, dành lại Độc Lập Tự Do.
Điển h́nh là cuộc khởi nghĩa Duy Tân và
khởi nghĩa Thái Nguyên do Hoàng Hoa Thám tức là
Đề Thám lănh đạo. Tuy các cuộc khởi nghĩa chưa đưa Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc tới thành công, nhưng đă thổi lên một luồng không khí mới vào tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Năm
1913, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng Châu
khiến công cuộc Cách Mạng Dân Tộc do tiên sinh
chủ xướng cũng bị suy sụp theo. Phan
Chu Trinh: Song
song với công cuộc cách mạng do Phan Bội Châu lănh
đạo là một phong trào đấu tranh ôn hoà,
đặt nặng vấn đề Dân quyền và Dân
chủ do Phan Chu Trinh chủ xướng. Phan Chu Trinh hô
hào mở mang dân trí, xoá bỏ những điều
hủ lậu, sửa đổi thuế khoá, làm
thức tỉnh đồng bào về các quyền
tự do dân chủ. Kết quả của phong trào Phan
Chu Trinh là cuộc biểu t́nh đ̣i giảm sưu,
giảm thuế vào năm 1908 tại các tỉnh
Quảng Ngăi, Quảng Nam, Nghệ An, Hà Tỉnh… Cũng
như phong trào Cách Mạng bạo động của
Phan Bội Châu, cuộc đấu tranh ôn hoà của
Phan Chu Trinh cũng không đạt được
mục đích, và bản thân Phan Chu Trinh cũng
bị bắt và bị đày đi đảo Côn Sơn.
Phạm
Hồng Thái: Dầu
sao các công tŕnh của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
đă làm thức tỉnh dân tộc Việt Nam để
dư âm lan truyền cho tới năm 1924 khi một
sinh viên trong phong trào Đông Du, liệt sĩ Phạm
Hồng Thái ném bom Sa Điện để ám sát toàn
quyền Merlin. Tiếng bom nầy đă làm rung động
thế giới khiến dư luận quốc tế
phải quan tâm tới thảm trạng Việt Nam và
tiếng bom nầy cũng đă đóng góp vào
việc thúc đẩy một thế hệ trẻ
mới đứng lên nối chí Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Phạm Hồng Thái [4]. Đó
là thế hệ Nguyễn Thái Học với Việt
Nam Quốc Dân Đảng, Trương Tử Anh
với Đại Việt Quốc Dân Đảng, Lư
Đông A với Đại Việt Duy Tân Đảng… 3)
Các lực lượng Dân Tộc Cách Mạng tại
miền Bắc Nguyễn
Thái Học,
sinh viên trường Cao Đẳng Thương
Mại Đông Dương, với hai chiến hữu
Phạm Tuấn Tài và Hoàng Phạm Trần thành
lập Nam Đồng Thư Xă. Với Nam Đồng
Thư Xă các chiến hữu chuyên nghiên cứu chính
trị và phổ biến những tư tưởng
mới bất lợi cho thực dân Pháp. Do
đó một thời gian sau, Nam Đồng Thư Xă
bị cấm hoạt động. Đó là năm 1927,
Nguyễn Thái Học cùng các chiến hữu đă
chuyển qua một hướng đấu tranh khác là
thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ).
Chủ trương của VNQDĐ là dùng bạo
lực để dành lại độc lập cho
Việt Nam và xây dựng một chính thể cộng
hoà. Nhờ ở ḷng dân đă thức tỉnh và
mức độ căm phẩm thực dân, nên VNQDĐ
đă bành trướng thế lực mau lẹ,
nhất là ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam
và các vùng phụ cận. Năm
1929 VNQDĐ ám sát tên thực dân mộ phu đồn
điền Bazin. Sau vụ ám sát nầy, thực dân Pháp
rất là lo ngại. Đó là hành động
trừng phạt mạnh mẽ của VNQDĐ đối
với thực dân Pháp. Trước những đe
doạ đó, chúng gia tăng khủng bố và đàn
áp dữ dội các tổ chức của VNQDĐ. Trước
t́nh thế nguy cập nầy, Nguyễn thái Học
đă phải cấp thời tổ chức tổng
khởi nghĩa mà nỗ lực chính nhắm vào
một số tỉnh miền Bắc Việt Nam như
Yên Bái, Lâm Thao, Hải Dương. Cuộc
khởi nghĩa nầy không thành công, Nguyễn thái
Học cùng 12 đồng chí bị bắt và bị
xử tử ngày 17.6.1930. Toàn thể dân tộc VN
một lần nữa vùng lên đầu chiếc khăn
tang. Cái
chết của Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng
chí đă khiến hàng ngũ VNQDĐ dần dần
tan vỡ. Một số đảng viên thoát được
màng lưới lùng bắt của thực dân Pháp
đă phải lánh ra ngoại quốc. Măi
đến ngày 10 tháng 3 năm 1938, Trương Tử Anh
đă kết hợp nhiều thanh niên trí thức thành
lập Đại Việt Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ)
với chủ thuyết „Dân Tộc Sinh Tồn“.
ĐVQDĐ phát triển mạnh mẽ tại các
tỉnh miền Bắc Việt Nam, quyết chống
lại cộng sản vào những năm 1945-1946
với một số chiến khu miền Thượng
Du Bắc Việt. Sau đó Trương Tử Anh
bị cộng sản sát hại vào năm 1946. ĐVQDĐ
dần dần bị tan ră [5]. Tiếp
nối công cuộc Cách Mạng Dân Tộc của
lớp người đi trước, vào năm 1943 Lư Đông A thành lập đảng Đại
Việt Duy Tân (ĐVDT). Nhưng vào khoảng tháng 3 năm
1946 Lư Đông A đột nhiên mất tích, đảng
ĐVDT cùng suy dần theo. Ngoài
các đảng chính nầy, c̣n có một số đảng
phái khác như Việt Nam Độc Lập Đảng
của Nguyễn Thế Truyền, Đại Việt Dân
Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam, Đại
Việt Quốc Xă Đảng của Nguyễn Văn
Tiếu .v.v. Tuy nhiên đây chỉ là những thành
phần lẻ tẻ, không tạo được
ảnh hưởng ǵ mấy trong đại cuộc Cách
Mạng Dân Tộc của Việt Nam. Song
song với những lực lượng Dân Tộc Cách
Mạng miền Bắc th́ ở miền Nam cũng có
những lực lượng được h́nh thành. 4)
Các lực lượng Dân Tộc Cách Mạng tại
miền Nam Ở
miền nam có 2 lực lượng quan trọng
nhất là Phật Giáo Hoà Hảo và Cao Đài. 4.1)
Phật Giáo Hoà Hảo: Nguyên
thuỷ là Bửu Sơn Kỳ Hương do đức
Phật Thầy Tây An sáng lặp năm 1849. Măi đến
năm 1939, tại xă Hoà Hảo, Đức Giáo
chủ Huỳnh Phú Sổ
chấn chỉnh lại nền đạo, đổi
tên thành Phật Giáo Hoà Hảo. Đức Huỳnh Phú
Sổ vừa là Giáo chủ lănh đạo một tôn
giáo và cũng là một lănh tụ cách mạng. Ông
đă sáng lập Việt Nam Dân Chủ Xă Hội
Đảng. Năm 1947, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
đă bị cộng sản sát hại [6]. Lê
Quang Vinh tức Ba Cụt
(1923-1956) là biệt danh của một thủ lĩnh quân
sự của giáo phái Hoà Hảo chống lại
thực dân Pháp và Việt Minh vào những năm
cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950.
Ông cũng là một trong những thủ lănh ly khai
của Ḥa Hảo chống lại chính quyền
Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm
vào những năm 1954-1956, sau đó bị
bắt sống và bị xử tử. 4.2)
Cao Đài:
Cao Đài là một tôn giáo do Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc sáng
lập từ năm 1920. Đạo Cao Đài phát
triển mạnh ở miền Đông Nam Việt Nam như
ở Tây Ninh, Hậu Nghĩa v.v. Ngoài tổ chức tôn
giáo c̣n có tổ chức chính trị là Việt Nam
Phục Quốc Hội với lực lượng vơ
trang là Quân Đội Cao Đài. Đáng chú ư hơn
cả là Tổ Chức của tướng Trịnh
Minh Thế. Ông
tổ chức và lập chiến khu chống thực dân
Pháp lẫn cộng sản Việt Nam, phát triển Dân
Tộc Cách Mạng qua Mặt Trận Quốc Gia Kháng
Chiến. Người
quốc gia có tinh thần dân tộc đang gặp
phải nỗi khó khăn như đứng ở
giữa ngă ba đường. Trịnh Minh Thế
bị tử thương trong một cuộc hành quân
tại cầu Tân Thuận năm 1955. Do đó con
đường Cách Mạng Dân Tộc của ông cũng
bị gián đoạn [7]. Nh́n
chung các cuộc đấu tranh của những Lực
Lượng Dân Tộc Cách Mạng đều bị
thất bại. Chúng ta hảy kiểm điểm
lại xem với những lư do, những nguyên nhân nào
đưa đến sự thất bại đó
hầu mong các đảng phái Cách Mạng hiện nay
tránh những khuyết điểm trong quá khứ
nhằm đưa cuộc Cách Mạng Dân Tộc
sớm đến thành công. Chúng
ta có thể tóm tắt một số khuyết điểm
chính yếu sau đây: 5.1) Không
nhận diện chính xác kẻ thù và không phơi bày
được đầy đủ tội ác của
kẻ thù một cách rơ rệt, thực tế. Chúng
ta không nắm vững được chúng ta có
những ǵ để lâm trận như khí giới, lương
thực tiếp tế, nhân lực…và cũng không
hiểu được rằng ta lâm trận với
ai, ai là thù, ai là bạn, là đồng minh [8]. Do
đó cuộc đấu tranh không có hướng
đi rơ rệt để trở thành phiêu lưu,
nhất thời, tuỳ hứng, thiển cận
bất nhất và luôn luôn bị động bởi hoàn
cảnh [9].
5.2) Chúng
ta thiếu một tổ chức thống nhất đấu
tranh quy tụ mọi thành phần Dân tộc Việt
Nam. Trong
quá khứ chúng ta có quá nhiều tổ chức, nhưng
đa số hữu danh vô thực phân tán chia rẻ.
Chúng ta có nhiều dân sự mà thiếu nhân sự,
nghĩa là thiếu cán bộ. Do đó cuộc đấu
tranh có tính cách lẻ tẻ rời rạc thiếu
chiều sâu [10]. 5.3) Chúng ta xem
nhẹ việc vận động tổ chức
quần chúng, chỉ chú ư vào một số thành
phần trí thức khoa bảng, trưởng giả. Do
đó, trong quá khứ nhiều tổ chức chỉ
như là một bức tượng gỗ mục
được phủ lên lớp sơn son thiếp vàng.
Nó sẽ bị đỗ vỡ theo thời gian dù không
gặp một tác động nào. 5.4) Chúng
ta không theo sát được mọi biến chuyển
của t́nh h́nh, đặc biệt là t́nh h́nh
quốc tế. Đây
là thiếu sót cực kỳ tai hại v́ t́nh h́nh
quốc tế vào thế kỷ 20 đă ảnh hưởng
sâu xa đến t́nh h́nh quốc nội của các
quốc gia. Sau Đệ Nhị Thế Chiến
một số quốc gia bị trị đă được
độc lập nhờ vào những vận động
chính trị khôn khéo của các quốc gia thuộc
địa. Các
Lực Lượng Cách Mạng luôn bị kèm kẹp
bởi 2 thế lực: Một
bên là cộng sản Việt Nam với sự hỗ
trợ đắc lực của quốc tế
cộng sản đứng đầu là Nga và Tàu,
một bên là thực dân xâm lược Pháp. Để
giải toả thế ḱm kẹp nầy, các lực lượng
chỉ giải quyết trên b́nh diện quốc gia,
trong phạm vi quốc gia, chứ không giải
quyết trên b́nh diện quốc tế. Do đó
khi tạm liên kết với thực dân đế
quốc xâm lược địa phương để
chống cộng sản th́ mất chính nghĩa đấu
tranh. Nhưng nếu tạm liên kết với cộng
sản th́ bị cộng sản ngấm ngầm liên
kết với thực dân tiêu diệt các đảng
phái quốc gia. (Hội Nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990. Bên
trái là Giang Trạch Dân và Lư Bằng. Đứng
giữa Giang Trạch Dân (Chủ tịch nước
TC) nắm tay Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí thư
đảng CSVN). Bên phải là Đỗ Mười và
Phạm Văn Đồng). Mời xem tài liệu: http://tulipgarden9.blogspot.de/2013/07/tuong-cong-san-viet-nam-ha-thanh-chau.html Hơn
100 năm trôi qua là chứng tích của suốt
một hành tŕnh đầy máu và nước mắt
đầy thất bại và tan vỡ của các
Lực Lượng Dân Tộc Cách Mạng của toàn
dân Việt Nam. Những sự thất bại đó
đă đưa dân tộc Việt Nam đến
thảm hoạ diệt vong. Có thể nước
Việt Nam sẽ bị xoá tên trên bản đồ
thế giới. Theo Wikileaks, qua hội nghị ở Thành
Đô (Tứ Xuyên), Trung cộng năm 1990, những
điều bí mật bị ṛ rỉ, có
thể Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh
lỵ của Trung cộng. Như vậy, nếu toàn dân
Việt nam không vùng lên đấu tranh đ̣i Tự
Do Dân Chủ th́ chuyện ǵ sẽ xảy ra ?. Trà Giang Chú thích: [1a]
Công
ước Pháp-Thanh 1887 c̣n có tên là Công
ước Constans 1887 được thực
hiện giữa chính quyền thuộc địa
của Pháp và triều đại nhà Thanh của
Trung Hoa nhằm thi hành Điều khoản 3 của
Hoà Ước Thiên Tân năm 1885. [1] Nền Quân Chủ Lập Hiến có nghĩa là một chế độ Quân Chủ nhưng có Hiến pháp. Ví dụ như Đại Nghị Chế ở Anh Quốc. Quân Chủ Lập Hiến là một h́nh thức tổ chức Chính Quyền mà trong đó tồn tại Vua nhưng không nắm thực quyền. Quyền lực thường nằm trong tay Quốc Hội do đảng phái chính trị chiếm đa số ghế đứng đầu qua cuộc bầu cử của toàn dân. Đảng này cũng có quyền tự ḿnh hoặc liên minh với đảng khác để thành lập Chính phủ có Thủ tướng là thành viên đảng đó do Hiến Pháp quy định. [2]
Phong trào Đông Du
đưa sinh viên, người có học sang Nhật
Bản học những cái hay của Nhật Bản
dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng [3]
Tháng
10 năm 1911 do Tôn Dật Tiên chủ xướng
với thuyết Tam Dân: Dân Tộc, Dân Quyền và Dân
Sinh. Tôn Dật Tiên có bút hiệu [4] Phạm Hồng Thái ném trái bom tại Trung Hoa nhằm giết toàn quyền Pháp Merlin. Sau đó Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông tự tử v́ tránh không kịp sự rượt bắt của lính bảo vệ Pháp. [5] Năm 1934, Trương Tử Anh, người Phú Yên, ra Hà Nội theo học Luật khoa Viện Đại Học Đông Dương. Là một người có tinh thần dân tộc, trong thời gian học tập, ông chú ư nghiên cứu nhiều về các triết thuyết, các chủ nghĩa chính trị đang thịnh hành trên thế giới thời bấy giờ. Tháng 3 năm 1946 cộng sản VN kư hiệp ước với Pháp để mời quân viễn chinh Pháp vào Bắc Việt để cùng CSVN truy quét các đảng phái quốc gia chống cộng và chống thực dân. [6] Một lần nữa cho người dân Việt Nam thấy rằng, cộng sản VN với sự tiếp tay giúp đỡ của quốc tế cộng sản đă ngấm ngầm tiêu diệt tất cả những thành phần quốc gia. [7] Khi đạo Cao Đài cộng tác với Pháp th́ tướng Trịnh Minh Thế ly khai. Theo như tài liệu khác dẫn chứng lời người mẹ cũng như con trai của tướng Trịnh Minh Thế đang định cư tại Canada cho biết th́ tướng Trịnh Minh Thế bị ám sát bằng 2 phát đạn bắn vào màng tang và sau ót tại cầu Tân Thuận. [8]
Tiền tuyến đánh
đuổi thực dân nhưng sau lưng cộng
sản sát hại tiêu diệt các lực lượng
quốc gia chống Pháp. Cộng sản len lỏi vào hàng ngũ quốc gia. Việt gian len lỏi vào
tổ chức… [9]
Kẻ thù đánh đuổi
th́ nỗi dậy chống lại mà không nắm
vững thực lực trước khi lâm trận. 10] Từng chiến khu kháng chiến riêng rẽ, không đồng nhất, không có tổng khởi nghĩa của đại chúng toàn dân.
|