TRẬN
ĐẤU GIỮA ĐẢNG CỘNG VÀ DÂN TỘC
VIỆT NAM Đại-Dương |
Nhưng,
sau năm 1930, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh)
được Đệ tam Quốc tế Cộng
sản đào tạo, điều khiển cầm đầu
một nhóm cuồng tín cộng sản dùng danh nghĩa
chống Pháp để áp đặt một chế
độ Cộng sản trên đầu Dân tộc
Việt Nam. Kể
từ đó, hai phe Quốc gia và Cộng sản vừa
chống Pháp vừa chống nhau quyết liệt như
hai thế lực không đội trời chung. Sau
Hiệp định Geneve năm 1954, nước Việt
Nam bị chia đôi tại Sông Bến Hải, vĩ
tuyến 17. Miền
Bắc xây dựng mô h́nh Chủ nghĩa Cộng
sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh lănh đạo
với danh xưng nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà được các nước trong Khối
Cộng thiết lập bang giao. Miền
Nam vĩ tuyến 17 bắt đầu xây dựng
Quốc gia Việt Nam rồi đổi tên thành
Việt Nam Cộng Hoà từ năm 1955 do Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm lănh đạo được
77 quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm
1957, VNCH đệ đơn xin gia nhập Liên Hiệp
Quốc mà thất bại do bị Liên Xô phủ
quyết. Từ
đó, Hồ Chí Minh thi hành chính sách của Cộng
sản Quốc tế để tiến hành cuộc
chiến huynh đệ tương tàn. Miền Bắc
đóng vai tṛ chính quy trong khi Miền Nam Việt Nam do Lê
Duẩn, Xứ uỷ Cộng sản Nam Bộ đă
trốn khỏi chiếc tàu của Ba Lan chở người
tập kết ra Bắc vào buổi tối để
cầm đầu nhóm Mặt trận Giải phóng
Miền nam Việt Nam tổ chức lật đổ Chính
phủ Việt Nam Cộng Hoà. Cuộc
chiến “nồi da nấu thịt” do Hồ Chí Minh và
đồng bọn Cộng sản thực hiện
chỉ thị nhuộm đỏ toàn cầu theo
lệnh Quốc tế Cộng sản bằng bất
cứ phương tiện nào: tàn bạo, vô nhân, áp
lực, dụ dỗ, giết gà dọa khỉ, phá
hoại và tàn sát không chùn tay. Kết
quả: bất cứ dân tộc nào áp dụng chế
độ cộng sản cũng bị đói rét
thực tế, hạnh phúc bánh vẽ, hoà hợp
giả mạo, hợp tác lường gạt, cư
xử thô bĩ. Từ
khi Liên Xô cầm đầu Đệ tam Quốc tế
khiến cho nhân loại nghĩ rằng không một dân
tộc có thể thoát khỏi chiếc bóng ma của
Chủ nghĩa Cộng sản bởi lẽ: (a)
Guồng máy cai trị của Đảng Cộng
sản thực thi chính sách “giết lầm hơn
bỏ sót”. (b) Chủ trương bưng bít thông tin
tuyệt đối khiến cho công dân không biết
được trên thế giới có một mô h́nh xă
hội nào tốt hơn hiện tại. (c) Lao động
cật lực để mong có được miếng
ăn, dù tồi tàn, bỏ vào chiếc dạ dày
bị cơn đói triền miên hành hạ. (d) Nhà tù,
trại giam, trại cải tạo chật ém những
“bộ xương cách trí biết đi, biết ḅ,
biết lết” không được quyền kêu đói!
(e) Dần dà mất dần bản năng con người
để trở thành một con ốc trong guồng máy
Cộng Sản. Bản
năng con người do Ông Trời, Thượng Đế
ban cho từ thuở khai sinh lập địa không bao
giờ tiêu diệt được nên nhiều quốc
gia nhỏ hơn Việt Nam đă thoát khỏi Chủ
nghĩa Cộng sản với ít thiệt hại
nhất. Đó
là các chư hầu nhỏ bé của Liên Xô ở Đông
Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi đă
giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị
Cộng sản bằng một câu ngạn ngữ
từng lưu truyền trong túi khôn loài người:
“Nước có thể nâng thuyền lên, nhưng, cũng
có thể làm lật thuyền”. Cách mạng Dân tộc hạ gục Chủ nghĩa
cộng sản Các
dân tộc Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi từng
sống dưới Chế độ Cộng sản do
Liên Xô và đám Cộng sản bản xứ đă áp
đặt bằng vũ lực tuyệt đối. Nhưng,
ba dân tộc đó đă tin vào sức mạnh tiềm
tàng của con người có thể tự giải thoát
bằng ư chí toàn dân nhờ: (1) Tin vào sức mạnh
của người dân chứ không cần tới vũ
lực. Vũ lực nào mạnh bằng ư chí của toàn
dân? (2) Không ngóng trông vào khả năng can thiệp
từ bên ngoài nên đặt kỳ vọng vào sự
đoàn kết của dân tộc. (3) Chọn phương
thức đấu tranh thích hợp nhất: Ba Lan đ̣i
quyền lợi cho thợ thuyền và đời
sống thường ngày. Tiệp Khắc đ̣i tự
do tư tưởng. Hung Gia Lợi đ̣i chế độ
đa đảng. Những
nhà lănh đạo đó đă vận động kiên
tŕ hàng thập niên mới có thể tạo nên
cuộc “Cách Mạng Dân Tộc” dẫn đến
bến bờ tự do: (1) Tập hợp một số
nhân vật “yêu nước chân chính” muốn đ̣i
lại quyền sống, quyền tự do, quyền
tự chủ cho toàn dân. (2) Không chọn giải pháp quân
sự v́ biết rơ vô phương đương đầu
với guồng máy quân sự đồ sộ của
Đệ tam Quốc tế thông qua Hiệp Ước
Warsaw kư năm 1955 gồm 7 quốc gia (Liên Xô, Ba Lan,
Bảo Gia Lợi, Đông Đức, Hung Gia Lợi,
Lỗ Ma Ni, Tiệp Khắc) để làm đối
trọng với NATO thành lập năm 1949 gồm 30
quốc gia mà Hoa Kỳ, Pháp, Anh làm cột trụ. Liên
Xô đă viện dẫn Hiệp Ước Warsaw để
hợp-pháp-hóa việc can thiệp nhằm đàn áp các
cuộc nổi dậy ở Hung Gia Lợi (1956),
Chiến tranh Việt Nam (1958), Tiệp Khắc (1968),
Angola (1975-1989). (3) Nhờ Tổng thống Ronald Reagan và
Thủ tướng Anh Cát Lợi, Margaret Thatcher kiềm
chế Tổng thống Nga, Mikhail Gorbachev và ủng
hộ tinh thần độc lập tự chủ dân
tộc mà các quốc gia Đông và Trung Âu lần lượt
xây dựng quyền tự quyết dân tộc, thoát
khỏi ách thống trị Cộng sản. Việt Nam qua giải pháp quân sự Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm không đồng ư đề
nghị của Tổng thống John Kennedy muốn
đưa lính Mỹ vào Miền Nam vĩ tuyến 17 mà
chỉ yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ phát triển
kinh tế và xây dựng Quân đội Việt Nam
Cộng Hoà hùng hậu, hiện đại nhằm đủ
sức ngăn chặn làn sóng Cộng sản được
Hồ Chí Minh che đậy dưới chiêu bài “đánh
cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Hoa
Kỳ không đồng ư nên đă khuyến khích và
ủng hộ cuộc đảo chính do các Tướng
lănh VNCH thực hiện năm 1963 theo giải pháp quân
sự của Đảng Dân Chủ do Tổng thống
Kennedy và người kế nhiệm Lyndon Johnson lănh
đạo (1963-1969). Tướng
Dương Văn Minh cầm đầu vụ Đảo
chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 và Tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm bị sát hại ngày 2 tháng 11 năm
1963 bị trói nằm trên sàn trong chiếc xe thiết giáp.
Tổng thống John Kennedy bị bắn chết trên
đường phố Dallas thuộc Tiểu bang Texas ngày
22 tháng 11 năm 1963. Phó
tổng thống Johnson kế nhiệm được
Giới Tướng lănh Việt Nam Cộng Hoà mới lên
cầm quyền ủng hộ giải pháp quân sự.
Từ đó, Cuộc chiến Vệ quốc của
Việt Nam Cộng Hoà lệ thuộc vào nhiệt độ
chính trị nóng/lạnh ở Thủ đô Hoa Thịnh
Đốn!!! Khi
Đảng Dân chủ Mỹ chuyển hướng sang
khuyến khích và yểm trợ tích cực cho việc
bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa qua làn sóng phản
đối cuộc chiến tranh rầm rộ tại Hoa
Kỳ và các quốc gia Châu Âu. Yếu tố quan
trọng này đă đảo ngược cuộc
Chiến tranh Việt Nam. Người
Việt Nam từ cổ chí kim thường tự hào là
một dân tộc anh hùng từng đánh bại các
đế quốc sừng sỏ nhất thế giới
mà sao toàn cơi Việt Nam phải chịu sống dưới
gót giày Cộng sản hơn 47 năm? Kinh
nghiệm sống suốt chiều dài lịch sử dân
tộc Việt Nam đă dựa vào sức mạnh quân
sự để tồn tại trước chủ trương
đồng hoá của Đế quốc Trung Hoa. Có
lẽ v́ thế mà dân tộc Việt Nam ưa thích
biện pháp quân sự để giải quyết
mọi cuộc xung đột hoặc bất đồng
với lân bang cũng như các phe nhóm trong nước. Hiệp
định Geneve 1954 chấm dứt sự thống
trị suốt 80 năm của Đế quốc Pháp,
nhưng, không giúp được ǵ cho sự Hoà
giải Quốc-Cộng trong khi nhiều nước trên
thế giới đă làm được. Chiến
tranh Nam/Bắc diễn ra ngày càng ác liệt đưa dân
tộc Việt Nam thành một nước Cộng
sản từ Nam chí Bắc với máu chảy thành sông,
xương chất như núi. Thực sự, đó là
cuộc chiến giữa lư tưởng Cộng sản
và tinh thần Quốc gia Dân tộc. Như
thế, người Việt Nam cần một giải pháp
như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi từng áp
dụng: Sức mạnh toàn dân. Một
quốc gia chỉ tồn tại khi mỗi người
dân quyết định số phận của ḿnh:
chọn Quyền Dân hay Quyền Đảng mới đem
hạnh phúc và thịnh vượng nước nhà. Người
dân Đông Âu tay không lật đổ chế độ
cộng sản. Tại sao Việt Nam không làm được
trong khi người Việt luôn luôn tự hào là
một trong 100 chi Việt tộc không bị Hoa-hoá. Dân
giàu nước mạnh mà dân không chịu làm việc
chỉ chờ viện trợ th́ nghèo vẫn hoàn nghèo,
nhược tiểu vẫn hoàn nhược tiểu. Dân
chúng Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi tay không
lật đổ chế độ Cộng sản đă
thúc giục Tổng thống Reagan cương quyết
cảnh cáo Tổng thống Gorbachev không được
kích hoạt Hiệp Ước Warsaw. Dân
tộc Việt Nam nên nói gương các dân tộc
Đông Âu: (1) Không mong chờ quân đội ngoại
bang mà chỉ vận động ngoại giao để
được nhiều quốc gia khác ủng hộ chính
nghĩa dân tộc. (2) Không vỗ béo giới thống
trị khi bỏ tiền và kỹ thuật đầu tư
vào Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam
tạo điều kiện cho đảng viên cộng
sản các cấp “phát minh” thêm nhiều h́nh thức
bóc lột và đàn áp. Tại sao Việt Nam bây
giờ có nhiều nhà tù trại giam hơn bất
cứ giai đoạn nào trong lịch sử dân tộc.
(3) Móc nối làm ăn với Cộng sản tạo
điều kiện cho đảng viên Cộng sản ngày
càng giàu, thường dân đói rét. Nuôi
những kẻ ngồi không ăn bám, nằm ngửa
chờ sung rụng là tự dọn đường
mất nước hoặc lệ thuộc muôn đời
vào ngoại bang. Bất cứ quốc gia nào mà mọi
người đều đua nhau làm việc và hưởng
trọn những thành quả th́ đất nước
đó mới phát triển, giàu có và hùng cường. Người
Việt Nam nên hănh diện v́ đă làm việc chăm
chỉ, đem tài sức giúp nước cứu dân. Không
nên ngóng cổ chờ những gói quà, món tiền
từ hải ngoại tuồn về để đem
đốt trong các vũ trường, ṣng bài, những
chuyến du lịch sang trọng, những món hàng xa xí.
Hoặc lo “vỗ mỏm” cho cán bộ để
được ung dung suốt cuộc đời ăn bám,
sống nhờ. Hô
khẩu hiệu không làm cho Chế độ Cộng
sản sụp đổ. Toàn dân Việt Nam nên noi gương
Đông Âu, Trung Âu mới xứng đáng Con Hồng, Cháu
Lạc. Đại-Dương |