Tướng Việt-Nam [B] |
LGT: Tác giả Được Lời (LKC) là người bạn SQHQNT K24, là một cựu SVĐHKH và cũng là nhà nghiên cứu và biên khảo. "Nhất
tướng công thành vạn cốt khô", một câu
nói truyền khẩu trong dân gian mà mọi người
đều hằng biết đến, để nh́n
lại cuộc chiến Đông-Dương (thời
kỳ chống Pháp 1945-1954, và thời kỳ
Việt-Nam Cộng-Ḥa với Việt-Nam Dân-Chủ Công-Ḥa
1959-1975), trong thời đại chúng ta, đă có
những ai đă đạt đến mục đích
này, ngoài Vơ-nguyên-Giáp trong thời kỳ chống Pháp
với trận Điện-biên-Phủ th́ không có người
nào sánh bằng. Đồng thời theo lời Giáp nói
:"Lê-Duẩn đă quyết định trong kỳ
đánh chiếm thành cổ Quảng-Trị, chỉ 60
ngày cũng có hơn 10 ngàn quân cộng sản bỏ
mạng tại trận, những bộ đội
trẻ chừng 14-15 tuổi đầu than khóc tại
pḥng tuyến chiến đấu với chân được
xiềng gắn chặc vào mặt đất, than
khóc "Đảng đă đem con bỏ
chợ", hàng ngàn qủa đạn pháo kích vào nhân
dân Quảng-Trị đang di tản trên QL1, máu
chảy lắp cả mặt đường, Phan-nhật-Nam
gọi đây "Đại lộ Kinh-Hoàng".
Lê-Duẩn
c̣n quyết định đưa quân sang Campuchia đánh
bọn Kmer Đỏ, gây tử vong và thương tích
cho thanh niên Việt-Nam, chỉ việc đạp ḿn,
gặp
bẫy gài mà bị cưa chân, Giáp tả ra một cách
tượng thật kinh hoàng: "Chân chất cao
tựa núi, mùi hôi thúi xông lên nồng nặc đến
7-8 cây số vẩn c̣n bắt mùi". Như vậy
chúng ta thấy dù tướng như Vơ-nguyên-Giáp
hoặc không là tướng như Lê-Duẩn vẩn
quyết định trên vạn người nằm
xuống để lót đường cho nhóm lănh
đạo cộng sản Miền Bắc tiến thân.
Trong khi đó ở Miền-Nam,Việt-Nam Cộng-Ḥa
th́ chưa có tướng nào phải hy sinh đồng
đội qúa nhiều như các tướng
Việt-cộng, mặc dầu tướng Nguyễn-Khánh
thường hay nhắc đến câu: "Nhất tướng
công thành vạn cốt khô", cuộc đời binh
nghiệp của Tướng Nguyễn-Khánh chỉ có
lần điều binh đánh vào Mật Khu Đổ-Xá
cũng chỉ mất trên 1 tiểu đoàn
Thủy quân lục chiến khi Ông là Tư lệnh Quân
khu II với trung tá Ngô-Du làm tham mưu trưởng quân
đoàn II, và cuộc rút quân "Bảo toàn
lực lượng" của Tướng Nguyễn-văn-Thiệu
làm cho dân quân Miền-Nam chết cũng trên vạn người,
măi
đến nay vẩn không có người nào ghi
lại: Vậy"Thế nào mới thật là Tướng"?
Có phải cần chết trên vạn người
mới thật là Tướng không? Đây chẳng
qua là nói đến những tên Tướng bất tài,
không
biết điều binh bố trận, mĩa mai thay cho
những kẻ bất tài. Điều
này cho chúng ta thấy Tướng Nguyễn-văn-Thiệu,
chính
thị đă có hành động độc đoán
để che mắt quần chúng rồi tự ḿnh hành
động,một h́nh thức điều binh gian hùng,
một
chiến thuật nhầm tạo thế thuận
lợi cho địch quân đồng thời gây nên
hổn loạn cho cả quân đoàn II, cùng bức
tử Quân đoàn I. Kế hoạch của Thiệu
đă tiếp tay cho Cộng sản tấn công
chiếm giữ cả vùng quy hoạch rộng lớn
từ Ban-mê-Thuột theo quốc lộ 7 xuống Tuy-Hoà
và từ Ban-mê-Thuột theo Quốc lộ 14 lên
Pleiku-Kontum dọc Quốc lộ 19 xuống tận
Quy-Nhơn, xét về trận thế này chúng ta thấy
được Nguyễn-văn-Thiệu đă nằm
trong kế hoạch của Mặt trận B3-B5 của
cộng sản đă đánh bại "Chiến
đoàn lưu động 100" viển chính Pháp
trong tháng 6-1945, nhưng trong thời điểm tháng
3-1975 Thiệu c̣n cố t́nh quyết định rút quân
theo QL7 mà Tướng Phú cho biết: "đây là con
đường gồ ghề lơm chơ, bỏ lâu không dùng
đến, quanh co khó đi chưa xác định rơ
về an ninh", như thế có nghĩa là Tướng
Phú cho biết con đường này có thể có
nhiều Việt cộng, nhưng Thiệu có vẻ làm
ngơ trước lời phúc tŕnh của Tướng
Phú, việc làm của Thiệu: "Tạo thế cho
Việt cộng lấn chiếm cả vùng từ Ban-mê-Thuột
dọc theo Quốc lộ 7 chạy dài đến Tuy-Ḥa.
Trong
hiện t́nh này tôi có nhận xét: "Tướng Phú
có vẻ o bế Thiệu, nhưng Tướng Phú không
phải là thân tín của Thiệu, với lời phúc
tŕnh úp mở không xác định chắc chắn
sự an ninh trên QL7, c̣n nếu nói rơ th́ sẽ bị
Thiệu quở trách. Bởi thế khi binh đoàn và dân
chúng rút theo QL7 bị VC pháo kích và tấn công, tạo
thành cuộc di tản hổn loạn. Như chúng ta
thấy cuối cùng Thiệu vẩn bỏ rơi Tướng
Phú, Tướng Phú đă tuẩn tiết trong ngày
30-4-1975. Một thảm trạng v́ nhận lầm
chủ soái? *
Cuộc họp ngày 11/3/1975 tại Dinh Độc Lập: Một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11-3-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă mời Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Pḥng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Tổng tham mưu trưởng QLVNCH Cao Văn Viên,Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh của Tổng thống đến dinh Độc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống Thiệu lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam Cộng Ḥa và bắt đầu nói đến t́nh h́nh quân sự ở mỗi nơi Sau đó, Tổng thống Thiệu nói thật rằng "tính ra thực lực của chúng ta th́ không thể nào giữ hết nổi lănh thổ như ư chúng ta được". V́ vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại để pḥng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi nào hiểm yếu. * Cuộc họp ngày 14/3/1975 quyết định t́nh h́nh chiến trường: Cũng theo hồi kư
của đại tướng Cao Văn Viên, hai ngày
sau cuộc họp lịch sử tại Dinh Độc
Lập (ngày 11/3/1975), Tổng thống VNCH Nguyễn Văn
Thiệu muốn lên thăm tướng Phạm Văn
Phú ngay tại bộ tư lệnh Quân đoàn II
ở Pleiku. Nhưng lúc đó, Ban Mê Thuột đang
bị Cộng quân vây hăm, c̣n Pleiku th́ bị áp
lực địch v́ hỏa lực pháo binh của
địch cứ nă vào thị xă từng hồi. Do
đó Tổng thống Thiệu không thể đến
được. Lo lắng cho sự an toàn của
Tổng thống, thiếu tướng Phú đề
nghị họp tại một địa điểm khác.
Sau một hồi bàn bạc, Tổng thống Thiệu
quyết định họp tại Cam Ranh. Buổi
họp định ngày thứ Sáu, 14 tháng 3/1975. Địa
điểm họp này là một ṭa nhà nằm vắt
vẻo trên đỉnh đồi. Đó là nơi mà vào
năm 1966 binh sĩ Hoa Kỳ cấp tốc xây
dựng để chuẩn bị cho chuyến viếng
thăm của Tổng thống Johnson khi ông ghé thăm
lực lượng Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Cùng đi
với Tổng thống VNCH Nguyễn-Văn-Thiệu ra
Cam Ranh có Thủ tướng Trần Thiện Khiêm,
đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng
Đặng Văn Quang và thiếu tướng Phạm-văn-Phú,
tư
lệnh Quân đoàn II. Kế
hoạch rút quân khỏi Cao nguyên Sau
lời báo cáo t́nh h́nh trong vùng trách nhiệm của tướng
Phú,Tổng thống Thiệu giải thích những
điểm trọng yếu mà tướng Phú có
nhiệm vụ phải bảo vệ đồng
thời nêu lên lư do dân số và địa lư, Thiệu
nói: "Ban
Mê Thuột lúc nào cũng quan trọng hơn cả
Pleiku và Kontum cộng lại. V́ vậy bây giờ Quân
đoàn 2 phải dùng lực lượng cơ hữu
của ḿnh chiếm lại thị xă Ban Mê Thuột
bằng mọi giá, và như thế phải triệt
thoái lực lượng tại Pleiku và Kontum". Sau
đó, Tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú
là sẽ bố trí lực lượng ra sao để
chiếm lại và đường nào sẽ dùng để
chuyển quân đến Ban Mê Thuột. Tướng Phú
đă tŕnh bày rằng Quốc lộ 19 chạy từ
Pleiku về hướng Đông ra đến biển th́
không thể dùng được, đại đơn
vị c̣n đầy đủ quân số và khả năng
chiến đấu tốt là Sư đoàn 22 Bộ
binh đă không khai thông được đoạn
đường tại B́nh Khê Quốc lộ 14
nối liền Ban Mê Thuột và Pleiku theo trục
Nam-Bắc cũng bị cắt tại Thuận
Mẫn, phía bắc thị xă Ban Mê Thuột. Tướng
Phú nhận định rằng có thể giải
tỏa đường này nhưng rất khó khăn v́
làm như vậy địch quân sẽ biết có quân
cứu viện. V́
vậy, theo tướng Phú cho rằng ông muốn
sử dụng con đường liên tỉnh lộ
7B. Đây là con đường đá từ quốc
lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về
Tuy Ḥa sát biển. Đường này rất ghồ
ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không
dùng đến. (bài viết Vương-hồng-Anh theo
lời Tham mưu trưởng VNCH Cao-văn-Viên) Lời độc giả: Là một cựu sĩ quan HQVNCH, vào tháng 3 năm 1975, khi tôi đang đi ca trên đài chỉ huy chiến hạm LST503 để chuyển quân từ Nha Trang vào Vũng Tàu tôi hỏi một vị đại tá về từ cao nguyên đang lên đài chỉ huy chiến hạm thăm viếng rằng theo đại tá th́ việc rút quân từ cao nguyên như thế nào?. Vị đại tá trả lời đại ư: Tôi không rơ tại sao phải rút quân?. Từ lâu, chúng tôi cũng đă trù liệu chiến đấu đơn độc, dự trữ vũ khí đạn dược lương thực để chiến đấu tự lập tối thiểu khoảng 2 năm... *
Lời tường tŕnh tướng Ngô-Quang-Trưởng:
Mời
xem tiếpTại
sao tôi bỏ Quân Đoàn 1 Ngày
13-3-1975, Tướng Ngô-quang-Trưởng được
lệnh vào Sài G̣n họp, nhưng chỉ gặp
tổng thống Thiệu và thủ tướng
(Trần Thiện Khiêm). Ngoài ra không có các tướng
lănh quân đoàn khác, khi tổng thống Thiệu cho
biết ư định là phải rút bỏ Quân Đoàn I
ngày hôm nay (ngày 13-3-1975), lúc này Tướng Ngô-quang-Trưởng
mới vở lẽ và uất ức v́ lệnh ra quá
đột ngột ngoài sức tưởng tượng.
Lúc
đó Tướng Ngô-quang-Trưởng có tŕnh bày t́nh
h́nh tại Huế, Quảng Ngăi, và Đà Nẵng tuy có
áp lực nặng nề v́ địch tấn công liên
tiếp, Ông
trả lời tổng thống Thiệu: "Tôi
vẩn đủ sức chống giữ và sẽ tăng
cường Sư Đoàn Dù cùng với Thủy Quân
Lục Chiến ra những vùng đó để
lấy lại ưu thế". Tướng Ngô-quang-Trưởng
tŕnh bày cặn kẽ những ư kiến cũng như
dự định lên Tổng Thống Thiệu và
Thủ tướng Khiêm nhưng không được
chấp thuận. Lệnh vẩn bất di dịch là:
Phải rút khỏi Quân Đoàn I càng sớm càng hay. Trở
ra Quân Đoàn I, Tướng Ngô-quang-Trưởng lại
được lệnh của tổng thống
Thiệu yêu cầu rút khỏi Quân Đoàn I trong ngày
13-3-1975, và rút Quân Đoàn II vào ngày 14-3-1975. Ông Thiệu
cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc
Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ
chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. Quyết
định của Thiệu được chứng
minh v́ chỉ sau một ngày mất Ban-mê-Thuộc (ngày
10-3-1975),Thiệu đă tŕnh bày thao thao bất
tuyệt kế hoạch của chính Thiệu, chận
mồm cả Tướng Khiêm, Tướng Quang và
Tổng Tham mưu trưởng quân lực Việt-Nam
Cộng-Ḥa Cao-văn-Viên, điều này cho chúng ta
thấy được Tổng Thống Nguyễn-văn-Thiệu
đă có kế hoạch từ lâu. Ngày
13-3-1975 lại gọi Tướng Ngô-quang-Trưởng
vào hợp tại Dinh Độc-Lập và ra lệnh tướng
Trưởng phải rút quân lập tức trong ngày
13-3-1975,trong cùng ngày khi Tưởng Trưởng
về đến Quân đoàn I th́ được
Thiệu quyết định và ra lệnh: "Quân
Đoàn I rút quân ngày 13-3-1975, Quân Đoàn II rút quân ngày
14-3-1975, nhưng Tướng Trưởng cương
quyết ở lại chống giữ Vùng I, nên
Thiệu đành chấp nhận, lực lượng Quân
Đoàn I bố trí lực lượng pḥng thủ
chống cự an toàn trong những ngày 18-3-1975 đến
ngày 22-3-1975, nhưng cuối cùng đành phải bỏ
vùng I Chiến Thuật. (Lư
do tướng Ngô-Quang-Trưởng bị đánh
thuốc và bị mang khỏi vùng tác chiến, theo
lời Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh hải
quân VNCH), chỉ
3 ngày vỏn vẹn Nguyễn-văn-Thiệu quyết
định một cuộc rút quân trên danh nghĩa là
"Bảo toàn lực lượng" nhưng
thực ra là muốn tiêu diệt Sư-đoàn 22 BB và
Sư-đoàn 23 BB, chúng ta nh́n lại lời tường
tŕnh của tướng Phú: "Giải
tỏa Quốc lộ 14 là việc rất khó khăn,
nhưng
làm như thế th́ địch sẽ biết ta có
viện minh". Thế
mà Nguyễn-văn-Thiệu vẩn ra lệnh tướng
Phú đưa Sư-đoàn 22 tấn công theo Quốc
lộ 14, đồng thời triệt thoái tất
cả lực lượng khỏi Pleiku và Kontum, đây
là một đ̣n tâm lư chiến làm náo loạn tinh
thần chiến đấu của quân nhân Sư-đoàn
22 BB và Sư đoàn 23 BB, nói một cách khác Thiệu
muốn tiêu diệt cả 2 sư đoàn này. Điều
này cho chúng ta liên tưởng đến ngày 19-01-1974
quân Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng-Sa,
cùng lúc
Tổng Thống Thiệu cũng có mặt tại
Đà-Nẳng trong ngày đó và ra lệnh tấn công
trước đánh ch́m soái hạm TC (theo lời Đề
đốc Hồ-văn-Kỳ-Thoại), tạo điều
kiện Trung cộng đánh chiếm Hoàng-Sa, v́
Thiệu đă vi phạm về "Luật quốc
tế". Hoàng-Sa tuy mất về tay Trung cộng, nhưng
hồ sơ về Hoàng-Sa vẩn c̣n là lănh thổ nước
Việt-Nam Cộng-Ḥa được xác nhận
bởi hiệp định Genève nằm tại Liên-hiệp-Quốc.
Ngày
nay nào có ai gợi lại Hoàng-Sa là của Việt-Nam
Cộng-Ḥa ? Muốn Hoàng-Sa trở về
Việt-Nam, chỉ một đường duy nhất là
làm "Ngày kỷ niệm Việt-Nam Cộng-Ḥa"
trong ngày 26-10 hằng năm trước trụ sở
Liên-Hiệp-Quốc, thế giới sẽ hiểu rơ
Hoàng-Sa thuộc về nước nào, và nhân dân
Việt-Nam sẽ hiểu chính quyền nào mới
thật là Chính-quyền nước Việt-Nam. Tướng
Ngô-quang-Trưởng nói tiếp: "Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ư định của ḿnh. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn, v.v. đă không biết ǵ về lệnh rút quân của Quân Đoàn I và II cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, đại tướng Cao Văn Viên, tôi (tư lệnh Quân Đoàn 1), và tư lệnh Quân Đoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữ tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả th́ giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đ́nh họ cũng không được bảo vệ đúng mức th́ làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng."
Đó
là t́nh h́nh Vùng I chiến thuật VNCH, ngày 19-3-1975
thủ tướng Trần-thiện-Khiêm ra Quân đoàn
I tŕnh bày sự t́nh đất nước, trấn an
tất cả nhân viên thuộc cấp và xin nhận ư
kiến mọi người, nhưng không ai lên
tiếng, chỉ có một đại tá hỏi thủ
tướng :"Có nhiều người bỏ
nhiệm sở làm sao trừng trị họ ? "câu
hỏi này qúa thừa, không phải là người
chỉ huy tham mưu, c̣n Thủ Tướng
Trần-thiện-Khiêm cũng chỉ là người
biết nghe lệnh, là một Thủ tướng, người
lập ra Nội Các Chính Phủ mà không có khả
năng "Chỉ huy và tham mưu", không biết
tham vấn cùng Bộ trưởng Quốc Pḥng, là
một con bài của Thiệu muốn làm một
hội nghị khích động sĩ quan các cấp
để nghịch lại quyết định Tướng
Ngô-quang-Trưởng. Ngày 22-3-1975 Nguyễn-văn-Thiệu
trực tiếp ra lệnh Tướng Ngô-quang-Trưởng
điều động Sư đoàn Thủy quân
lục chiến, Sư đoàn nhảy dù về
Nha-Trang. Ngày 29-3-1975 Tướng Ngô-quang-Trưởng
đang ở trên HQ 404 với chừng 1 lữ đoàn
thủy quân lục chiến (đoạn này tôi phân vân,tại
sao tướng Trưởng đi cùng 1 lữ đoàn
TQLC trên HQ 404 ? Như tôi đă ghi lại lời nói
của Phó đề đốc Hoàng-cơ-Minh, khi tôi
đưa đón Ông ṛng 5 ngày từ HQ 1 đến
bến đậu Duyên-Đoàn 27 để Phó đề
đốc lên họp hằng ngày tại Tiểu khu
Thị xă Phan-Thiết) lại được Tổng
Thống Thiệu ra lệnh: "Đem quân về tái
chiếm Đà-Nẳng", Tướng Trưởng
trả lời :"Không được,làm thế nào
để tái chiếm khi cuộc hành quân đổ
bộ chưa có kế hoạch và tham mưu"(câu
trả lời nằm trong binh pháp Tôn-Tử, "Đôi
khi lệnh vua không nghe", "Thành không công
được th́ không đánh"). Tướng
Ngô-quang-Trưởng kể tiếp :"Đúng ngày 22 tháng
3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư Đoàn
Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến về
giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Đà
Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi
được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài
G̣n. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân
Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, tổng
thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái
chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây
giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm
Đà Nẵng? Lính tráng đă phân tán mỗi người
một nơi. Cấp chỉ huy th́ mạnh ai nấy
thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái
chiếm Đà Nẵng) được? Sau đó tôi
được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu
vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến
xuống, rồi chỉ chở một ḿnh tôi về Sài
G̣n. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đă
cặp bến Cam Ranh rồi. Tôi nhờ hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài G̣n tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. C̣n nếu không th́ tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài G̣n bằng ḷng cho tàu chở tất cả về Sài G̣n". Chúng
ta nhận thấy đây là một âm mưu,Thiệu
đă giáng Tướng Ngô-quang-Trưởng từ Tư
lệnh Quân Đoàn I xuống chỉ huy Sư Đoàn
Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến, rồi đưa lên tàu HQ 404 với một
lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến, rồi
Thiệu lại ra lệnh tái chiếm Đà-Nẳng,
việc
làm này của Thiệu không qua mắt một "Tướng"
kinh nghiệm đă từng trải ở chiến trường
và đă tái chiếm Quảng-Trị năm 1972
thấy rơ "Tổng thống Thiệu muốn
giết ḿnh", nên tướng Trưởng quyết
ḷng "Huynh đệ chi b́nh" gắng bó với
lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng về
Sài-G̣n, đúng là tướng có thao lược tham mưu
đầy đủ, mới thoát được âm mưu
của Thiệu, và Thiệu không thể không nhận
để Tướng Trưởng cùng lữ đoàn
Thủy quân lục chiến về Sài-G̣n, nhờ
thế VNCH mới có thêm quân hùng mạnh trong trận
chiến Xuân-Lộc tại Long-Khánh. Trận Chiến Xuân Lộc,Long-Khánh: *Trận
chiến Xuân Lộc ngày N+ 1
* Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây *CQ
tung 4 sư đoàn vào mặt trận Long Khánh *
Lữ đoàn 1 Dù VNCH nhảy vào mặt trận Xuân
Lộc *
CQ tấn công vào phía Nam thị xă Xuân Lộc Trong ngày 17 tháng 4/1975, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 3, 6, 7 Cộng quân tiếp tục mở các đợt tấn kích vào pḥng tuyến phía Nam thị xă Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa chiến binh Nhảy Dù và CQ đă diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không quân đă thực hiện nhiều phi tuần F-5 và A-37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Cộng quân trong khu vườn này. *
Pḥng tuyến B́nh Thuận Ngày
20.4.1975: Kịch Chiến Ở Xuân Lộc *
Những trận đánh cuối cùng tại chiến
trường Long Khánh Tại
pḥng tuyến sát tỉnh lỵ Long Khánh,Tiểu đoàn
9 Dù và một trung đoàn Cộng quân vẩn c̣n
tiếp diển rất khốc liệt trong khu vườn
cây của cố Thống tướng Lê Văn
Tỵ. Bởi Cộng quân đă xây dựng hệ
thống pḥng ngự kiên cố trong khu vực này nên
các đợt tấn công của Tiểu đoàn 9 Dù
đă gặp rất nhiều khó khăn.(Chúng
ta thấy quân đội VNCH tuy ít nhưng vẩn làm
chủ được t́nh h́nh ở chiến trường
Xuân-Lộc và gây nhiều thiệt hại nặng
nề cho Việt cộng). Một
phép nhiệm màu đến cho Cộng quân ? *
Bộ tư lệnh Quân đoàn III/Quân khu III rút quân
khỏi pḥng tuyến Xuân Lộc. Một
quyết định qúa khẩn cấp của Quân khu
III cho chúng ta thấy:"Bọn nằm vùng đă
lộ mặt, lệnh "Điều hành"
đưa ra chỉ dưa theo nguyên tắc, lệnh
"Quyết định" chính là lệnh của
"Bọn nằm vùng Việt cộng" bắt
đầu từ ngày 10-3-1975, ngày Ban-mê-Thuột
thất thủ, những nguyên tắc hành quân bố
trận và cách thức phối trí chủ lực pḥng
thủ đều ngược lại nguyên tắc
quốc pḥng, chứng tỏ người "Quyết
định" hành động là người của
"Đối phương". Ngày
N là ngày 08-4-1975,,ngày Thiếu tướng Nguyễn-văn-Hiếu,
Tư
lệnh phó hành quân Quân Đoàn III bị ám sát. Riêng
tôi có nhận xét đây là ngày Nguyễn-văn-Thiệu
hoàn tất đảo chính Quân Đoàn III, tất
cả nhân lực QĐIII đă được thay
thế những người thân tín của Thiệu
từ QĐII về. Và Thiệu thực sự dùng
quyền "Tổng Tư Lệnh Quân Đội
VNCH" điều động quân đội một
cách âm thầm, Tư Lệnh Quân Đoàn III
chỉ là bù nh́n của Thiệu, chúng ta có thể
khẳng định cuộc rút quân khỏi Xuân-Lộc
ngày 20-4-1975 chính Thiệu ra lệnh.Từ sự
việc này chúng ta liên tưởng đến tết
Mậu-thân: "Việt cộng tấn công Sài-G̣n
trong đêm mùng 1 tết, Tổng Thống Thiệu
đi ủy lạo Chiến sĩ tại Cần-Thơ,
Tướng
Loan lại ra lệnh bỏ ngỏ giữ an ninh cho Ṭa
Đại-Sứ Mỹ để VC tấn công vào, để
rồi chỉ xử bắn 1 anh VC do chính Tướng
Loan hành quyết tại Thủ-Đô Sai-G̣n, gây bất
b́nh toàn thế giới và gắn cho Quân Đội
VNCH là "Quân phiệt", cuối năm đó báo
chí Pháp gọi đó là "Đảng Ka-Ki". Trước
tết Mậu-thân Bộ Quốc Pḥng c̣n có công văn
"Quân đội đóng tại Sài-G̣n có thể
cho 50/100 quân nhân nghỉ phép về nhà ăn
tết". Điều
này chúng ta có thể đặt nghi vấn Tổng
Thồng Thiệu,Thủ tướng Khiêm, Bộ trưởng
Bộ-Quốc-Pḥng Đại tướng Nguyễn-văn-Vỹ
và Tổng Tham-mưu-trưởng QĐ/VNCH Đại
tướng Cao-văn-Viên có liên quan mật thiết
trong 2 kỳ làm Tổng Thống của Nguyễn-văn-Thiệu. Ngày
hôm sau 9-4-1975 bắt đầu 6 giờ 30 sáng,
Cộng quân đă đồng loạt pháo kích vào
nhiều vị trí quanh tỉnh lỵ Xuân Lộc.
Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266
thuộc sư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1
tiểu đoàn chiến xa T54, 2 tiểu đoàn pháo, 1
tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay
thị xă. Có
phải cái chết của tướng Hiếu là
dấu hiệu báo cho cộng quân biết "Sát
thủ" của Việt cộng không c̣n nữa ? Mục
đích tôi đưa lên những trận đánh
tại tỉnh lỵ Xuân-Lộc Long-Khánh này là
muốn cho nhân dân Việt-Nam thấy: "Sự hào hùng
của Quân lực Việt-Nam Cộng-Ḥa (Đă dùng 1
chống 10)",nhưng chúng tôi đă thất bại
bởi v́ chúng tôi có những lănh đạo thuộc
phần nằm vùng của Cộng sản.Như chúng
ta thấy Đệ nhị Việt-Nam Cộng-Ḥa,
trong
2 nhiệm kỳ Tổng thống và Thủ Tướng vẩn
là Nguyễn-văn-Thiệu và Trần-thiện-Khiêm, bắt
đầu cuộc rút quân khỏi Ban-mê-Thuột cũng
có mặt 2 vị này,trận chiến tâm lư ngày
19-3-1975 nhầm khơi dậy tính "Tính hèn nhát
của vài lănh đạo Quân khu I để chống
lại lệnh "Quyết tử bảo vệ Vùng I
Chiến Thuật" của Tướng Ngô-quang-Trưởng
cũng là Khiêm và kế đến ngày 22-3-1975
Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng điều
động Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến
và Sư Đoàn Dù về Nha-Trang (với sự
sắp xếp của Sài-G̣n: "Một tướng Dù
chỉ huy một lữ đoàn Thủy Quân Lục
Chiến đi tái chiếm Đà-Nẳng, rơ ràng
Thiệu muốn diệt trọn Lữ Đoàn TQLC và
Tướng Trưởng". Kế sách cuối cùng
của Thiệu và Kiêm là "Khiêm từ chức
Thủ Tướng ngày 05-4-1975, để rồi
Thiệu có cớ chọn Nguyễn-bá-Cẩn làm
Thủ Tướng mới, việc làm này khuynh đảo
Quốc hội VNCH, và Nguyễn-văn-Thiệu từ
chức Tổng Thống VNCH ngày 21-4-1975. Chúng ta
thấy rơ ràng Thiệu-Khiêm đă hoàn tất
nhiệm vụ "Làm sập đổ chế độ
VNCH". Ngày 25-4-1975 cùng rời bỏ Việt-Nam trong
trạng thái 2 tên lính đào binh, Miền Nam rối
loạn và vô trật tự làm điều kiện cho
Cộng quân tấn công, nhưng Quân Đội VNCH
vẩn kiên tŕ chiến đấu đến ngày
30-4-1975 với lời kêu gọi buông súng đầu hàng
của Tổng thống Dương-văn-Minh, đạo
diển của cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963, cũng
là người tạo thắng lợi cho Cộng
sản Việt-Nam ngày 30-4-1975. C.-Tướng
Việt-Nam Cộng-Ḥa Đầu
năm 1971, khi Tổng Thống Thiệu muốn
đưa Tướng Trí ra Quân Đoàn I thay Tướng
Hoàng Xuân Lăm làm Tư Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719, ngơ
hầu cứu văn t́nh trạng nguy khốn của
cuộc hành quân vượt biên Hạ Lào này, Tướng
Trí ngỏ ư muốn Tổng Thống Thiệu cử Tướng
Hiếu thay thế ḿnh vào chức vụ Tư
Lệnh Quân Đoàn III. Sự việc chưa ngă ngũ
th́ Tướng Trí tử nạn trực thăng tháng
2/1971. Tướng Thiệu cũng biết Tướng
Hiếu có tài thao lược nên để Tướng
Hiếu vào chức vụ Tư Lệnh Phó Hành Quân
Quân Đoàn III cho đến giờ phút chót, mà không
dám giao Tướng Hiếu cầm quân trong chức Tư
Lệnh Quân Đoàn III. (bài NVT) Mật
khu Đổ-Xá Mật
khu Đổ-Xá của lực lượng cộng
sản nằm trong vùng núi ranh giới 2 tỉnh Kontum và
Quảng-Ngăi, thuộc khu vực hoạt động
của 2 mặt trận B3 và B5 cộng sản. Đây
là vùng hiểm trở nhất của dăy Trường-Sơn
với đỉnh Ngọc-Lĩnh cao 8524ft (2583m), trấn giữ toàn vùng Hạ Lào đổ
xuống đồng bằng duyên hải của 2
tỉnh Quảng-Nam và Quảng-Ngăi, cũng là
đường thông về Kontum, Pleiku của
Tây-Nguyên. Mật
khu được đặt dưới quyền
của Tướng Nguyễn-Đôn, vốn là vùng
bất khả xâm phạm từ chiến tranh Pháp-Việt
(1945-1954). Trận
chiến Điện-biên-Phủ bắt đầu lúc
18.00 giờ ngày 26-01-1954,sôi động nhất từ
ngày 10-03-1954, ṛng ră 58 ngày đêm Việt-Minh liên
tục tấn công, cuối cùng đến chiều ngày
07-5-1954 toàn thắng, Tướng Pháp Navarre đầu
hàng, tiếng tâm Vơ-nguyên-Giáp vang lừng khắp
thế giới,trong khi đó Miền Trung lực lượng
Việt Minh vẩn c̣n tiếp tục kháng chiến
chống Pháp, mặt trận quanh vùng đèo An-Khê
vẩn thường xuyên xẩy ra từ đầu năm
1954. Măi đến ngày 24-6-1954,bắt đầu 19.00
giờ tại đèo Mang-Yang trên Quốc Lộ 19
nối Pleiku với Quy Nhơn trung Đoàn 803 Cộng
Sản cố tâm diệt gọn Trung Đoàn Triều
Tiên (thành phần xung kích chính) của Quân Đoàn
Viễn Chinh Pháp (Chiến Đoàn Lưu Động
Số 100), đơn vị từng tham chiến mặt
trận Triều Tiên năm 1953, đă bị Việt
Minh bao vây đánh bại sau 6 giờ kịch
chiến tại đèo An-Khê, đẩy lui toàn
bộ chiến Đoàn Lưu Động Số 100
(G.M.100) ra khỏi vùng chiến lược quan trọng
này. Nếu bên nào chiếm được th́ sẽ :
Cô lập Tây Nguyên, chiếm giữ đường di
chuyển Bắc-Nam mặt Tây Trường Sơn, theo
Đường 14 xuống Ban-Mê-Thuộc, vào vùng thượng
nguồn Sông Đồng Nai, tiếp đến
miền Đông Nam Bộ,đồng thời củng
cố khu vực Hạ Lào – Vùng Ba Biên Giới
Việt-Miên-Lào. Chính Ngô-đ́nh-Nhu cũng đă tŕnh
bày cho Tổng thống Ngô-đ́nh Diệm về
tầm quan trọng của vùng đất chiếm lược
này mà Cộng sản Việt-Nam cố t́nh bám lấy
để tạo thành Mật khu Đổ-Xá,thế mà
tướng Nguyễn-Văn-Thiệu đă tự
quyết định rút quân trong danh nghĩa
"Bảo toàn lực lượng" bỏ
trống Tây-Nguyên, gây hổn loạn do cuộc di
tản tai họa theo Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku
về Tuy Ḥa của Quân Đoàn II làm hoang mang và náo
loạntoàn thể lực lượng diện địa
thuộc Quân Khu II và Quân Khu I. Chúng
ta hăy xem Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân
Đoàn II Nguyễn-văn-Hiếu đă sống và
chiến đấu như thế nào với Tây Nguyên.
Tháng 01/1964 Tướng Đổ-cao-Trí đổi lên
trấn thủ Vùng II, lần này Ông quyết ra tay
dọn sạch Mật Khu Đổ-Xá,mặc dầu vùng
hành quân dự trù phần lớn nằm trong địa
phận tỉnh Quảng-Ngăi (thuộc Vùng I Chiến
Thuất). Ngày
27 tháng 4, 1964 chiến dịch tấn công Đỗ Xá
bắt đầu. Từ phi trường Quảng Ngăi,
nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, 18 trực
thăng H34 đợt xung kích đầu tiên đồng
loạt đưa toàn bộ Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù vào trận địa. Đại Tá Nguyễn Văn
Hiếu có nhiệm vụ thiết lập, điều
động kế hoạch hành quân dưới
quyền chỉ huy của Tư Lệnh Quân Đoàn,
Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí và Tư Lệnh
Phó Hành Quân, Thiếu Tướng Lữ Lan. Lực Lượng
hành quân chia làm hai cánh: Cánh A gồm ba tiểu đoàn
Biệt Động Quân dưới quyền của
Thiếu Tá Sơn Thương; Cánh B do Thiếu Tá Phan
Trọng Chinh chỉ huy Trung Đoàn 50 Bộ Binh làm
nỗ lực chính; cánh quân nầy được tăng
phái Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù của Thiếu Tá Ngô
Quang Trưởng. Với
khả năng giao thiệp rộng răi từ lúc c̣n là
phụ tá hành quân Quân Đoàn I, Đại Tá
Hiếu đă có liên hệ mật thiết với
Thiếu Tá Wagner, cố vấn Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ bên cạnh bộ tư lệnh quân
đoàn,nhờ yểm trợ thực thăng thực
hiện chiến thuật "Diều Hâu". Tướng
Đỗ Cao Trí đích thân chỉ huy trận địa
từ trên không cùng các Tướng Lữ Lan, Tướng
Minh (Tư lệnh không quân sau nầy) để
thị sát mặt trận. Không nao núng trườc
hỏa lực pḥng không của địch Tướng
Trí thả nốt biệt động quân vào
trận, tiếp sức nhảy dù cày sạch vùng
bất khả xâm phạm gọi là Đỗ Xá.
Chỉ riêng ngày thứ hai của cuộc hành quân,Biệt
động quân đă tịch thu được
một đại liên 30ly, một trung liên, sáu
tiểu liên, và 144 súng cá nhân, một ngàn bịch
chất nổ, một số lượng lớn quân
trang, lựu đạn, ḿn và tài liệu quan
trọng. Cuối trận, tổng số vũ khí có
thêm hai pḥng không 52 ly, một đại liên 30 ly và 69
súng cá nhân với 62 xác đếm tại hiện trường;
17 tù binh bị bắt. (NVT sđd trg347-348). Cuộc hành
quân chấm dứt đúng một tháng sau,ngày 27-5-1964
do Trung Đoàn 50 Bộ Binh của Thiếu Tá
Phan-Trọng-Chinh hoàn tất quét sạch toàn vùng Đỗ
Xá khi Nhảy Dù và Biệt Động Quân đă
kết thành ṿng đai chận bít không để
lực lượng cộng sản chạy lẩn vào
vùng núi phía tây, hoặc về phía nam Tây Nguyên Sau
Trận b́nh định Mật Khu Đổ-Xá,chứng
thực Quân Lực VNCH có sức mạnh chiến
đấu,có khả năng thực hiện những
cuộc hành quân lớn cấp trung đoàn, sư
đoàn với những sĩ quan tham mưu, chỉ huy
được yểm trợ xác đáng, và nhất là
để họ toàn quyền điều động
đơn vị quân binh theo thực tế chiến trường.
Chứng minh điển h́nh đối với luận
cứ nầy là Hành Quân Phi Hỏa với hằng trăm
trực thăng chuyển quân (Hành quân trực thăng
vận lớn nhất, huy động trực thăng
toàn vùng Đông-Nam Á) với lần tham dự của
bốn tiểu đoàn nhảy dù đồng đổ
bộ xuống vùng mật khu Hố Ḅ (B́nh Dương)
vào cuối tháng 8 trong năm 1964.(PNN) Trận
chiến năm 1965. Quốc
lộ 19 Đèo An-Khê và Quốc lộ 14 Đức-Cơ
Pleime Năm
1965,Cộng sản Bắc Việt phát động
một chiến dịch nhằm cắt đôi Việt
Nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng theo
Đường 19 bằng bằng trận chiến quy
ước với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
với những đơn vị chính quy thuộc
mặt trận B3 và B5 được chỉ huy và
điều động bởi Bộ Tổng Quân
Ủy Miền Bắc lập lại chiến dịch
Đông-Xuân 1954 như đă từng đánh Chiến
đoàn lưu động G.M 100 của Pháp trên
Quốc Lộ 19. Ngày
20 tháng 2, 1965 Căn Cứ Tiền Phương Số I
của một đại đội Dân Sự
Chiến Đấu (DSCĐ) dọc Đường 19,
tây Đèo Mang bị phục kích tấn công khi di
chuyển từ Pleiku về một căn cứ trên
Đèo Mang. Nhưng
sau hai ngày giao tranh khốc liệt, vẫn giữ
vững được nhờ yểm trợ liên hoàn
của 2 trại DSCĐ 1 (Tây Đèo Mang) và DSCĐ 2 (Đông
Đèo Mang), cùng một Tiểu Đoàn Biệt Động
Quân đóng tại An Khê gần Đông Đèo Mang
khoảng hơn 50 cây số về tiếp ứng.Nhưng
bên ta vẩn bị áp đảo bởi chiến
thuật "Công đồn đă viện" của
Việt cộng đang dùng những vũ khí hiện
đại nhất do Liên-Xô chế tạo : Súng
tiểu liên AK47,súng phóng lựu RPD,súng chống
chiến xa RPG2 tân trang,trái lại quân VNCH vẩn dùng
súng Garant,Carbine M1 thời Đệ II Thế
Chiến,măi sau tết Mậu thân 1968 quân ta mới
trang bị súng M16. Sau
khi nghiên cứu t́nh h́nh trận chiến,đại tá
Nguyễn-văn-Hiếu và cố vấn Quân đoàn
sau 2 ngày thám sát và nghiên cứu chiến trường
rồi quyết định : Biện pháp cấp
thời là phải bốc ngay toán quân đang bị
cầm giữ của Căn Cứ 2 trước khi
trại bị CQ tràn ngập. Tướng Nguyễn
Hữu Có, tân tư lệnh đồng ư trên nguyên
tắc nhưng đồng thời nêu lên một khó
khăn: "Không
đủ hỏa lực để bao vùng yểm
trợ cuộc hành quân trực thăng vận vào
bốc toán quân ở Căn Cứ 2; với lẻ
hệ thống súng cối 82 ly cộng sản sẽ
tạo một vũng lửa tại băi đáp
trực thăng (trong căn cứ) –như thế
cuộc hành quân trực thăng vận nhằm
giải cứu lực lượng bạn sẽ
biến thành một cuộc hành quân tự sát". Cuối
cùng, quân đoàn phải cậy đến một
biện pháp do chính Tướng Westmoreland quyết
định: Dùng phản lực cơ chiến đấu
F100 Hoa Kỳ hiệp đồng với A-1E, B57 VNCH
đánh tiếp cận hai bên sườn thung lũng,
trong khi trực thăng vơ trang xạ kích vào các
vị trí cối sát trại, để trực thăng
chuyển quân vào băi đáp cứu bạn. Cuộc hành
quân trực thăng vận được thiết
kế và hoàn tất như một phép lạ:Chỉ
một người bị thương trong chuyến
bốc cuối cùng sau 4 lần bốc người
khỏi vùng bị bao vây. Đại Tá Tham Mưu Trưởng
Nguyễn Văn Hiếu hoàn tất một cuộc hành
quân giải cứu do ông lập kế hoạch và
phối hợp tuyệt hảo (với liên quân
Việt-Mỹ) mà đến hôm nay mấy người
đă hay. Ngay
cả Việt cộng cũng không ngờ :Sau cuộc
giải tỏa được căn cứ DSCĐ,
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II liền bủa vây
CQ tiếp bởi Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù trừ
bị gồm hai Tiểu Đoàn 7 và 8 Dù vừa
được không vận từ Sài G̣n xuống phi
trường An Khê,xuất quân quét sạch toàn
diện đoạn đường gai góc từ
Quận An-Túc đến Đèo Mang. Quân cộng
sản núng thế, chuyển hướng lên phía
Bắc vây đánh Trại Lực Lượng Đặc
Biệt (LLĐB) K’nack (Bắc Đường 19 để
giải tỏa áp lực của nhảy dù nơi thung
lũng An Khê) với cách đánh biển người.Hai
tiểu đoàn xung phong vào những tiền đồn
chỉ khoảng một trung đội DSCĐ
chiếm giữ bị tràn ngập bởi CQ,sau đó
DSCĐ phản công chiếm lại do trợ lực
của nhảy dù từ phía Nam đánh lên, giải
tỏa lực lượng cộng sản bao vây quanh
Trại LLĐB. Cuối trận, quân cộng sản rút
lui để lại 126 xác chết với đại bác
không giật 57 ly, súng cối 82 ly cùng rất nhiều
lựu đạn, chất nổ. Cộng
quân sau thất bại ở mặt trận Đường
19, tiếp theo chiến dịch tái chiếm Bồng Sơn,
Tam Quan (tháng 4, 1965) với Sư Đoàn 22 Bộ Binh
được tăng phái một Lữ Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến bẻ gẩy kế
hoạch cắt Quốc Lộ I tại khu vực
chiến lược Quảng Ngăi-B́nh Định
(thuộc Mặt Trận B5 cộng sản) buộc phía
chỉ huy cộng sản tại Vùng II (của VNCH)
phải rà soát lại kế hoạch. Và
một lần nữa, những người cầm
đầu ở Hà Nội lại chuyển chiến trường
trở lại dọc Quốc Lộ 14 (Đường
nối Pleiku với Ban Mê Thuộc (phía Nam); với
Komtum (Phía Bắc) từ mùa mưa đến khi mùa khô
bắt đầu nơi cao nguyên (từ tháng 4 đến
hết cuối năm 1965) với những sư đoàn
thiện chiến nhất Mặt Trận B3: Sư Đoàn
325, F10, 2 Sao Vàng, những đơn vị chủ
lực tinh nhuệ của quân đội Miền
Bắc do các kiện tướng Vũ Lăng, Hoàng
Minh Thảo, Chu Huy Mân, chỉ huy. Trong cùng lúc, Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn II lần lượt thay đổi
người chỉ huy: Các Tướng Đỗ Cao Trí,
Nguyễn Hữu Có, Vĩnh Lộc liên tiếp thay
thế giữ chức tư lệnh -
Nhưng chỉ riêng viên Tham Mưu Trưởng
vẫn giữ nguyên vị trí - Thế nên, chúng ta có
thể xác định về một thực tế mà
không sợ sai lầm, chủ quan: Chính Đại Tá
Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân
Đoàn II là người đă đối đầu
liên tục, trực tiếp với bộ chỉ huy quân
sự miền Bắc nơi chiến trường Tây
Nguyên trong suốt năm 1965.(PNN) (Sau
này vào giai đoạn chót của chiến trận,tháng
2-1975,đích thân Tổng tham mưu trưởng Văn-tiến-Dũng
chỉ huy chiến dịch đánh chiếm Tây-Nguyên
theo chỉ đạo của bộ Tổng Quân ủy
Hà-Nội.Phía VNCH do Tướng Nguyễn-văn-Thiệu
điều động hành quân với Chiến
thuật rút quân "Bảo toàn lực lượng",tự
bỏ Tây-Nguyên,tạo lợi thế cho cộng
sản.Sao Việt-Nam Cộng-Ḥa lại có người
lănh đạo không tường chiến lược
như thế này.?LKC). Bắt
đầu mùa mưa 1965, dọc theo Quốc Lộ 14,
lực lượng cộng sản liên tục mở
ra những hoạt động tấn công lấn
chiếm có hệ thống như sau: Ngày 16-5-1965,
Quận Phú Túc và Buôn Mroc thuộc tỉnh Phú Bổn
và trại Lực Lượng Đặc Biệt
(LLĐB) Tỉnh
lỵ Phú Bổn chỉ liên lạc, tiếp tế
với bên ngoài bằng đường hàng không
bởi cầu Lệ Bắc trên Tỉnh Lộ 7
bị giật sập. Ngày 20-5-1965, quân cộng sản
tấn công đơn vị địa phương
giữ cầu Pokala, và phá hũy cây cầu quan
trọng nầy khiến tất cả hệ thống
đồn bót, trại LLĐB, phía Tây-Bắc Kontum
đồng bị cắt đứt. T́nh h́nh càng
tồi tệ hơn vào ngày 1-6-1965, khi một phái
đoàn của Tỉnh Pleiku do tỉnh trưởng
dẫn đầu vào thanh tra thăm viếng Quận
Lệ Thanh (30 cây số phía Tây Pleiku, bên trái
Đường 14) bị phục kích và quận
bị tràn ngập từ sáng sớm cùng ngày. Quân
đoàn phải cho đổ bộ các toán Diều Hâu
(Eagle Flight) để giải cứu phái đoàn, đồng
thời điều động chiến đoàn
nhảy dù đang sẵn có mặt trong vùng vào
giải tỏa Quận Lệ Thanh. T́nh
h́nh đến đây chưa hẳn hết, thành
phần đi đón đoàn xe của tỉnh gặp
nhau tại một điểm trên Quốc Lộ 19 (đoạn
đường tây Pleiku đến biên giới
Việt-Campuchia) – Đây cũng chính là điểm
phục kích CQ đă gài sẳn. Về
mặt bắc Pleiku,Quận Toumorong cực bắc
của Kontum bị tràn ngập CQ từ đầu tháng
7,v́ là nơi qúa xa và không quan trọng,nên quân đoàn
ra lệnh triệt thoái về quận Dato (Tân-Cảnh),nơi
đặt bản doanh của Trung Đoàn 42,ngày
7-7-1965,Dakto bị tấn công,trung đoàn trưởng
Lai-văn-Chữ tử nạn.đại tá Đàm-văn-Qúy
đến thay thế hợp với một tiểu
đoàn Biệt Động và chiến đoàn TQLC
vừa vào vùng được không vận lên Tân-Cảnh
phối hợp với trung đoàn cùng chặn địch
mạn phía Bắc Kontum. Cùng
thời điểm t́nh h́nh quân sự sôi bỏng bùng
vỡ mỗi ngày nơi Tây Nguyên th́ ở Sài G̣n
những vụ biến động chính trị cũng
thường trực xẩy ra với tốc độ
chóng mặt. Biểu dương lực lượng,
13 tháng 9, 1964; Đảo chính hụt của tướng
Dương-vă-Đức,ngày 14-9-1964 cả nước
biểu t́nh chống Nguyển-Khánh về việc
Hiến Chương Vũng-Tàu thuê mướn Vũng-Tàu
cho Mỹ 99 năm, 19 tháng 2, 1965; tiếp đến
Phản đảo chính, 20 tháng 5. Các nội các đua
nhau thay đổi với Phan Huy Quát, Trần Văn Hương;
đồng bào Công Giáo, Phật Giáo thay nhau xuống
đường,biến Sài G̣n thành một chiến
địa hung hăn không kém mặt trận súng đạn
nơi vùng Tây-Nguyên. Trận chiến tại các
Trại Lực lượng Đặc Biệt Đức
Cơ, Pleime như giọt nước tràn qua chiếc
ly đă nứt vỡ đồng lúc các tư
lệnh quân đoàn thay đổi nhau theo t́nh h́nh chính
trị của Sài G̣n. Riêng chỉ Đại Tá
Nguyễn Văn Hiếu vẫn giữa chắc
chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II
với những người lính giữa vũng
lửa đạn núi rừng Tây Nguyên (PNN). Chiến
trường đổ máu,chính trường tranh dành
quyền lực,thế đă thấy rơ ràng trong
bối cảnh Việt-Nam chưa ổn định
trong thời Quốc trưởng Nguyễn-Khánh,trong cái
phong lưu độc đoán của người lănh
đạo ưa ganh tị,truất quyền tư
lệnh Quân khu II và lưu đầy Tướng
Đổ-cao-Trí làm Đại sứ tại Nam-Hàn,viện
lẻ là Tướng Trí có tương quan thân
thuộc (anh em cột chèo) với Tướng Dương-văn-Đức,người
làm cuộc đảo chính hụt ngày 13-9-1964,sau này
được giải thích:"Việc làm của Tướng
Đức là muốn toàn dân tưởng nhớ đến
công ơn Quân đội VNCH".Tiếp theo sau là
nhiều vị sĩ quan được thăng
cấp "Tướng",c̣n đă là "Tướng"
th́ được thêm 1 sao,Nguyễn-Khánh cũng
trở thành Đại tướng,không phải là tướng
"Công thành" mà là tướng "Thành công trong
việc bắt tàu VC chuyển vũ khí tại vùng Vũng-Rô
Tuy-Ḥa,h́nh như Ông rất hănh diện bởi
chiến công này,nhưng nếu nhắc đến hành
quân Đổ-Xá chắc Ông phải ngậm ngùi đau
thương cho những người nằm xuống có
hơn 1 tiểu đoàn trách nhiệm về phần Ông,nhưng
Tướng Khánh thật đă quên.Trở lại t́nh
h́nh Bắc Kontum,Phan-nhật-Nam tiếp : Đại
Tá Hiếu đề nghị lên Bộ Tổng Tham Mưu
một kế hoạch lớn: Yêu cầu người
Mỹ thế chân cho những đơn vị VNCH làm
thành phần trừ bị, giữ an ninh lănh thổ
để Quân lực Cộng Ḥa tập trung thành
một đơn vị xung kích cấp sư đoàn
mới có khả năng giải quyết mặt
trận Đức Cơ (Theo binh thư: Bên tấn công
không thể ít hơn 1/3 quân số so với lực lượng
cố thủ được. Kế hoạch được
Tướng Westmoreland thêm một lần chấp
thuận với quyết định: Điều động
Lữ Đoàn Nhảy Dù 173 do Tướng Stanley R.
Larsen làm Tư Lệnh Lực Lượng Dă Chiến
Hoa Kỳ tại Pleiku thay thế quân đội
Việt Nam nhiệm vụ tiếp ứng và an ninh lănh
thổ. Được rảnh tay, Ban Tham Mưu Quân
Đoàn II thực hiện kế hoạch: Thành lập
Chiến Đoàn Đặc Nhiệm gồm Thiết
Đoàn Kỵ Binh (chiến xa M41; M48; Thiết Vận
Xa M113); một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân;
Chiến Đoàn TQLC (có pháo binh cơ hũu) và pháo
binh diện địa yểm trợ tổng quát –
Lực lượng giải tỏa Đức Cơ
đặt dưới quyền chỉ huy của
Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Tư Lệnh
Biệt Khu 24 (Bắc Kontum). Trận
Đức Cơ, và Pleime đă xác chứng về ư
nghĩa, vai tṛ quyết định của công tác
chuẩn bị, điều hành, tổ chức, tham mưu
(lẽ tất nhiên thực tế chiến trường,
với sức chiến đấu của người
lính trên trận địa là những yếu tố
quan yếu khác nữa) - Chiến
thắng Pleime được Tướng Vĩnh
Lộc khai triển nên thành một biểu tượng
chiến đấu và chiến thắng của Quân
Đoàn II – Đại bản doanh của quân đoàn
được đặt tên là Thành Pleime – Nhưng
không một ai biết đươc cuộc hành
quân này Đại tá Tham mưu trưởng
Nguyễn-văn-Hiều hầu như đă thức
suốt ngày đêm trong những ngày 20,22...25 nơi
chiếc hầm chỉ huy Trại Đức-Cơ,để
xử dụng hệ thống truyền tin âm thoại
(có công suất mạnh) của đơn vị
Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ mới có
thể liên lạc,phối hợp với những tư
lệnh người Mỹ thuộc nhiều binh
chủng,Không quân,LLĐB,Bộ binh,Không kỵ trong
suốt cuộc hành quân (NVT sđd trg 385). Năm
1966 tại tỉnh B́nh-Định. Nắm
theo chiến lược "Lùng và Diệt" thành h́nh
giữa Tướng Westmoreland và Bộ Tổng-Tham-Mưu
QLVNCH,tỉnh B́nh-Định được chia là 3 vùng:Khu
vực phía Nam của tỉnh (giáp ranh với Tuy-Ḥa/Phú-Yên)
gồm ngoại vi Thị xă Qui-Nhơn,các quận Phú-Phong,Tuy-Phước,Văn-Canh
thuộc trách nhiệm của Sư Đoàn Mănh Hổ
Đại-Hàn.Khu vực rừng núi phía Tây (Giáp ranh
Pleiku,Kontum) gồm các quận An-Khê,Vĩnh-Thạnh,An-Lăo
và Hoài-Ân thuộc vùng trách nhiệm của Sư
Đoàn 1 Không kỵ (SĐ1KK),với Mật Khu An-Lăo
(nằm dọc theo sông An-Lăo,nhánh phía Bắc của sông
Lai-Giang chảy ra biển tại Bồng-Sơn/Hoài-Nhơn),hậu
cần quan trọng của toàn Liên Khu 5 cộng
sản.Vùng phía Bắc và Đông (dọc theo bờ
biển và giáp tỉnh Quảng-Ngăi) là khu vực
đông dân của các quận Hoài-Ân (Bồng-Sơn),Tam-Quan,Phù-Mỹ,Phù-Cát
thuộc trách nhiệm hành quân của Sư Đoàn 22
Bộ Binh,Đại tá Nguyễn-văn-Hiếu
giữ chức Tư lệnh sư đoàn từ
giữa năm (tháng 6-1966). Cuối
năm (tháng 11),vị tân tư lệnh Sư đoàn
22 BB đă tạo dựng ngay một chiến
thắng vẻ vang dưới chân đèo Phù-Cũ
(Quận Phù-Mỹ).Trung đoàn 42/SĐ22BB hợp
cùng chi đoàn thiết vận xa M113 lùa địch
từ QL1 vào núi.Các chiến sĩ bộ binh tùng
thiết với thiết vận xa M113 theo đội
h́nh hàng ngang ào ạt tiến tới sau
một đợt tác xạ mạnh mẽ uy vũ.Chiến đoàn
trưởng Nhảy dù,Trung tá Nguyễn-khoa-Nam đứng
trên sườn núi chong ống nḥm quan sát trận địa,dẫu
là người kín đáo cũng phải nói lên
lời thán phục:"Đại tá Hiếu điều
quân như một "Ông thiết giáp"nhà
nghề,và lính Sư Đoàn 22 đánh đẹp đâu
thua lính ḿnh". Lời ngợi ca chân thật
giữa những người chiến đấu nơi
trận tiền.Không đẻ địch nghỉ ngơi
(như sau chiến thắng Pleime,Đức-Cơ),nay
với khả năng quyết định rộng răi
của quyến tư lệnh,Đại tá Hiếu
hạ lệnh tiếp tục truy kích,diệt gọn các
đơn vị của Sư Đoàn 3 Sao Vàng,cũng
để chứng tỏ "Ai thnắg Ai" nơi
mặt trật Liên khu 5 nầy-Vùng "Năm Eo",bí
danh bộ đội cộng sản thường
gọi với ḷng kiêu hănh.Khu vực bất khả xâm
phạm mà chế độ Đệ Nhất
Việt-Nam Cộng-Ḥa với Tổng Thống Ngô-đ́nh-Diệm
phải mất hai năm (1955-1957) mới b́nh định
được. Kế
tiếp trận chiến dưới chân đeo Phù-Cũ
(Quận Phú-Mỹ).Dựa theo tin tức của
Thiếu Tá Tiếu/Pḥng 2, Tướng Hiếu chỉ
thị cho Trung Tá Bùi Trạch Dzần, Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 41 chỉ xử dụng hai tiểu đoàn
bộ binh, cùng với bộ chỉ huy trung đoàn vào
vùng thật sớm để khoảng ba giờ
chiều hăy đóng quân, đào hầm hố, lập
công sự pḥng thủ thật kỹ càng - Dân chúng
nằm vùng nơi vùng xôi đậu đang hành quân
tất thế nào cũng báo cáo cho bộ chỉ huy
cộng sản biết t́nh h́nh quân số của
lực lượng quân đội cộng ḥa. Sư
đoàn cộng sản sẽ điều quân đền
đánh theo như tin tức nầy – Tướng
Hiếu ém quân thật kín đáo nơi xa một
tiểu đoàn trừ bị và chi đoàn thiết
vận xa, và sẽ dùng lực lượng nầy
để phản công. Quả nhiên đến hai
giờ sáng, Trung Tá Dzần báo cáo trung đoàn
cộng sản bắt đầu tấn công vị trí
của ông. Tướng Hiếu ra lệnh chi đoàn
chiến xa và tiểu đoàn trừ bị thần
tốc tiến quân vào mục tiêu, bao vây, tiêu
diệt không cho địch rút lui. Sư Đoàn Không
Kỵ được tin bộ binh Sư Đoàn 22
đụng trận theo kế hoạch trù liệu,
yểm trợ hỏa lực với tất cả pháo
binh đă bố trí sẵn, dựng nên vũng rào
lửa giữa đội h́nh của đối phương
bị phơi bày dưới ánh sáng hỏa châu
rọi liên tục - Biến đêm tối nên thành ngày
rạng. Và khi ngày thật sự đến các
chiến sĩ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh đếm
đủ hơn 300 xác chết nơi trận địa.Chiến
tích Hành Quân Đại Bàng 800 và những hành quân
cấp tiểu đoàn của sư đoàn nầy
kể từ khi Tướng Nguyễn Văn Hiếu
giữ chức tư lệnh (6/1966) đă đưa Sư
Đoàn 22 Bộ Binh từ một đơn vị b́nh
thường trong ṿng sáu tháng nên thành:1/
Sư Đoàn 22 xử dụng nhiều th́ giờ hành
quân tác chiến cao hơn hết so với bất
cứ một sư đoàn nào khác trong nước
(1966 1967).2/Thời giờ dùng vào công tác b́nh định
chỉ chiếm khoảng 10% tổng số ngày cơ
hữu.3/So với toàn quốc, Sư Đoàn 22 dùng ít
thời lượng nhất trong công tác an ninh.4/Số
lượng đụng độ địch trên
đơn vị cấp tiểu đoàn cao nhất
trong quân đoàn (PNN). Năm
1970 tại Snoul Campuchia Khả
năng thao lược của Tướng Nguyễn-văn-Hiếu
không ngừng ở cấp sư đoàn
với những đơn vị bộ binh cơ
hữu mà c̣n chứng tỏ có năng lực chỉ
huy,điều động trận địa ở
mức độ cao hơn trong lănh vực hành
quân liên binh chủng cấp quân đoàn.Tài của Ông
được thể hiện trong Chiến thuật
"Bao vây tấn cộng" và "Bảo toàn
rút lui" trong Chiến lược "Lùng và
Diệt". Bốn
năm sau ngày Tướng Khánh bổ nhiệm làm
đại sứ Nam-Hàn,ngày 5-8-1968,Tướng Trí
được Tổng Thống Thiệu triệu
về nước giao cho chức Tư lệnh Quân
Đoàn III.Vào lúc đó,Tướng Hiếu đang là
Tư Lệnh SĐ22/BB.Tướng Trí muốn đưa
Tướng Hiếu về ngay Quân Đoàn III,nhưng gặp
phải sự chống đối của Tổng
Thống Thiệu.Măi đến ngày 14-8-1969
Tổng Thống Thiệu mới chấp nhận
về nắm Sư Đoàn 5.Vào tháng 7-1970,Tổng
Thống Thiệu gọi Tướng Trí vào Dinh Độc-Lập
ngỏ ư muốn Tướng Trí nhận chức
vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay cho Tướng
Ngô-Dzu,và sẽ thêm 1 sao,Tướng Trí đáp
lời Thiệu:"1 sao kia Tướng Trí muốn nhường
cho Tướng Hiếu (ư
Tướng Trí muốn Thiệu để Tướng
Hiếu lên chức Quân Đoàn Trưởng QĐ
III.Lần thứ hai vào đầu tháng 2-1971 là
lúc Thiệu muốn đưa Tướng Trí ra QĐ
I thay Tướng Lăm,Tướg Trí nói thẳng
vấn đề này cho Thiệu nghe,Thiệu vẩn làm
ngơ,sau đó vài ngày th́ bị tai nạn máy bay
trực thăng.Có thực là tai nạn không?Chúng ta
cần t́m hiểu). Thiệu
không trả lời,nên chức Tư lệnh Quân Đoàn
IV được giao cho Tướng Ngô-quang-Trưởng.Vào
tháng 10-1970,Tổng Thống Thiệu khéo léo đẩy
Tướng Trí ra khỏi chức Tư Lệnh Quân Đoàn
III và tướng Trí bị đầy qua Pháp
với lư do chính thức đi chữa bệnh và
Tướng Nguyễn-văn-Minh được
cử thay thế Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trong
lá thư đề ngày 6-10-1970,Đại úy
Wayne T,Stanley,thư kư pḥng 3 tham mưu cố vấn
Mỹ QĐ3,viết cho Trung tá John L.Huestis,Fort
Braggs,North Carolina:"Generral
Tri continues to rule the land with fire and determination.He is now on
vacation in Europe anh he continues to plan on being CG,III Corps until he
retires 18 months"(Tướng
Trí được băi nhiệm,tạm ngưng bởi
luật.Ông đang được ngày nghĩ tại
Âu-châu và được tiếp tục chức
vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III cho đến khi Ông
hết hạn 18 tháng nghĩ ngơi). Sau
khi Tướng Trí vận động thành công
được phép hồi hương, ông liền
xuống nằm tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
5 với
Tướng Hiếu. Tướng Trí hăm
dọa làm dữ với lực luợng hùng hậu
của Sư Đoàn 5. Tổng Thống Thiệu
buộc phải nhượng bộ và trả lại
ghế Tư Lệnh Quân Đoàn III cho Tướng Trí. Vào
tháng 2/1971,Tổng Thống Thiệu lại triệu Tướng
Trí vào Dinh Độc-Lập ngỏ ư muốn Tướng
Trí nhận chức Quân-Đoàn I thay Tướng Hoàng-Xuân-Lăm,v́
t́nh h́nh chiến sự của Hành Quân Lam-Sơn 719
tại Hạ-Lào đang bị lún bùn.Vào thời
điểm đó,Tướng Trí và Tướng
Hiếu đang thi hành kế "Điệu hổ ly
sơn" dụ địch tại Snoul trên phần
đất Cam-Bốt.Tướng Trí ra điều
kiện chỉ chấp nhận chức vụ mới,
nếu Tướng Hiếu được bổ
nhiệm thay ḿnh trong chức vụ Tư Lệnh Quân-Đoàn
III.Tổng Thống Thiệu lại làm ngơ,và khi Tướng
Trí bất ngờ bị tử nạn trực thăng
đang khi đi thị sát mặt trận Cam-Bốt ngày
26-2-1971,th́ Tổng Thống Thiệu lại chọn Tướng
Nguyễ-văn-Minh thay Tướng Trí làm Tư
Lệnh Quân Đoàn III. (Bài Nguyễn-văn-Tín) Hành
quân toàn thắng 46 đánh vào Trung ương
Cục R với mục tiêu vùng Lưởi-Câu,Tây-Bắc
Lộc-Ninh,bên kia biên giới VNCH-Campuchia.Vùng Lưỡi-Câu
là bản doanh của sư đoàn 5 Cộng
sản.Vùng này cũng là cơ sở hậu cần
của 2 đoàn 70 và 80 yểm trợ không riêng cho Sư Đoàn
5 mà cho toàn vùng Lưỡi-Câu,bao gồm mặt
trận Binh-Long trong nội địa Việt-Nam
Cộng-Ḥa.Một cuộc hành quân tiến qua biên
giới Campuchia h́nh như đă dự trù sẳn do
Mỹ sắp đặt,(dựa vào lời báo cáo
của Đại úy Wayne T.Stanley chúng ta có thể
đoán được từ "Phúc tŕnh của
Mỹ là Tướng Trí nghĩ hè 18 tháng,nhưng
chỉ khỏang 3 tháng Ông vận động được
về lại Việt-Nam cùng với SĐ5 Thiết
kỵ,bên trong phải có sự sắp đặt
của Mỹ,dù sao Mỹ cũng đă nắm được
nhược điểm của Tổng thống
Nguyễn-văn-Thiệu,v́ chính Tướng Thiệu
biết rơ trong thời điểm đó,50 ngàn
quân Mỹ đă hy sinh nguyên do từ đâu,với
áp lực của SĐ5 Thiết kỵ làm
Thiệu phải hoàn lại chức Tư lệnh Quân-Đoàn
III" cho Tướng Trí).Suy
ra sự trở về của Tướng Trí trong năm
1968 có sự đề nghị của Mỹ,v́ Mỹ
biết được chỉ có Tướng Đổ-cao-Trí
và Tướng Nguyễn-văn-Hiếu mới có
thực tài về quân sự,do đó ta đoán
được cuộc tiến quân vào lănh thổ
Campuchia đă có kế hoạch từ đầu năm
1968 trong việc Tướng Loan bỏ ngỏ để
Viêt cộng xâm ngập vào Đại Sứ Quán
Mỹ.Chiến trận trên
đất Campuchia do Mỹ bắt đầu từ ngày
phi thuyền Apollo 13 gặp nạn đương
trở về trái đất 1970,cả nước
Hoa-Kỳ đang trong t́nh trạng cầu xin Đức
Chúa Trời ban phước lành cho các nhà khoa
học,cho toàn cả dân chúng Mỹ,th́ tại
mảnh đất Đông Dương này,Quân Mỹ
tiến vào lănh thổ đất Miên,một cái
bẩy lớn sẽ dập nát những con mồi
lọt vào đó,nhưng cái bẩy này nó không
bền vững được bởi Quân lực
Việt-Nam Cộng-Ḥa dưới sự lănh đạo
chỉ huy của Tướng Đổ-cao-Trí và tài
tham mưu của Tướng Nguyễn-văn-Hiếu
với lối đánh "Bao vây và Truy diệt"
ở chiến trận đồng bằng Miền-Nam
Việt-Nam,c̣n ở vùng núi rừng Tây-Nguyên
với chiến thuật "Diều hâu và Xạ kích".Cuộc
hành quân qua lănh thổ Campuchia xử dụng những
đơn vị, Trung Đoàn 9/Sư Đoàn 5 gồm
các tiểu đoàn 2, 3, 4 cơ hữu, và Đại
Đội 5 Viễn Thám của sư đoàn; Trung
đoàn được yểm trợ bởi Trung
Đoàn 11 Thiết Kỵ Mỹ tiến quân theo năm
giai đoạn: Giai đoạn I tấn công; Giai đoạn
2, 3, và 4 lùng và diệt địch; Giai đoạn 5 rút
về lại đất Việt. Cuộc hành quân kéo
dài từ tháng 5 đến tháng 7-1970 có nhiệm
vụ nhiệm vụ đánh thăm ḍ, và kiện toàn
hệ thống tham mưu, phối hợp để
tiếp theo những cuộc hành quân quan trọng hơn,thật
ra đây là giai đoạn để quân
Mỹ rút khỏi đất Miên.Cũng trên đất
Miên với mục tiêu là Căn Cứ Hậu Cần
86, khu vực quanh Thị Trấn Snoul. Ngày 14 tháng
10-1970 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III chỉ
thị Sư Đoàn 5 mở cuộc hành quân Toàn
Thắng 8/B/5.Thế mà vào đầu tháng 10 trước
ngày 6-10-1970 Tổng Thống Nguyễn-văn-Thiệu băi
nhiệm Tướng Trí đưa sang Pháp trị
bệnh,và bổ nhiệm Tướng Nguyễn-văn-Minh
lên quyền Tư lệnh Quân-Đoàn III.Đây
là thủ đoạn của Nguyễn-văn-Thiệu
nhầm vô hiệu hóa kế hoạch "Điệu
hổ ly sơn" của Tướng Trí và Tướng
Hiếu.Kế "Điệu hổ" đă
được hoàn tất sau 2 tháng dự trù
(cuối tháng 7 đến đầu tháng 10-1970),điều
này chắc Nguyễn-văn-Thiệu phải biết,cũng
như Nguyễn-văn-Thiệu đă từng biết
tất cả cuộc hành quân trên lănh thổ VNCH trong
thời Ông làm tổng thống qua ngă Tổng Tham Mưu
Trưởng VNCH là Tướng Cao-văn-Viên. Chiến
thuật "Điệu hổ ly sơn": là "Điều
động lực lượng nhỏ để
dụ địch,nhưng nếu lực lượng
bao vây của CS đến cấp sư đoàn,th́
bên VNCH sẽ áp đảo với 2 sư đoàn
đó là SĐ18 và SĐ25".Lối
dụ địch này tựa như cuộc hành quân
ở Tỉnh B́nh-Định (1966) với Trung đoàn
41/SĐ22/BB dùng 2 tiểu đoàn dụ địch và
1 tiểu đoàn trừ bị tấn công diệt
gọn một đơn vị của Sư đoàn
3 Sao Vàng thuộc vùng "Năm Eo" CS, An-Lăo,Tam-Quan,Phù-Mỹ,Phù-Cát,Hoài-Ân
(Bồng-Sơn)thuộc tỉnh B́nh-Định.Nhưng
ở đây kế hoạch "Điệu hổ ly sơn"
của 2 Tướng Trí-Hiếu dùng Chiến Đoàn
8 để dụ địch và chuẩn bị SĐ18
và SĐ25 cùng tấn công.Kế hoạch kỳ này
gấp 20 lần an toàn hơn,và quân số gấp 5
lần bên địch,bởi v́ sau những lần
"Lùng và Diệt",căn cứ hậu cần CQ
tại đất Miên hầu như bị phá hoại
gần hết,quân số lại bị hao tổn
rất nhiều,nên CQ rụt rè lộ hiện,nhưng
cũng có thể "Cơ mật hành quân bị
bại lộ".Nên sau khi
Tướng Đổ-cao-Trí bị tai nạn máy
bay (ngày 23-2-1971),tướng Minh lên thay,Tướng
Minh không theo kế hoạch "Điệu hổ" đă định
sẳn mà quyết định theo lời cố
vấn Mỹ:"Là dụ địch cho đông
đủ,rồi cho máy bay B-52 đến thả
bom tiêu diệt hết",Tướng Hiếu không đồng ư
và trả lời:"Làm như thế sẽ giết đến đơn
vị bạn", "Bạn" ở đây
chính là SĐ-18 và SĐ-25 Quân đội
VNCH,quận đội Mỹ đă dùng
chiến thuật này trong cuộc hành quân "Lam-Sơn
719"(từ ngày 8-2-1971 đến 25-3-1971)do
Tổng Thống Nguyễn-văn-Thiệu ra lệnh và
Tướng Hoàng-xuân-Lăm chỉ huy. Thương
cho thân lính VNCH. Chết
trong ấm ức kẻ ngu cầm đầu. Trên
nguyên tắc chỉ huy Tướng Minh làm đúng,nhưng
sau lư giải Cuộc HQ-719 cho nên Tướng
Minh phủi tay để mặc cho Tướng
Hiếu hành động giải vây Chiến-Đoàn
8 đương bị bao vây,hơn 5.000 nhân
mạng sao để cho B-52 thả bom dập
chứ ? Nên Tướng Hiếu đích thân vào ṿng
vây giải cứu đồng đội,t́nh
"Huynh đệ chi binh" thật thấm
thiết trong lúc này,ra lệnh triệt thoái hành quân,rút
lui tất cả các đơn vị trong trật
tự theo quy hoạch tác chiến,quả thật Bộ
chỉ huy Quân-Đoàn III (Nguyễn-văn-Minh) và
cố vấn Mỹ không tiếp tay yểm trợ phi
vụ thả bom theo yêu cấu của Tướng
Hiếu là thả bom chận địch trên QL.13
từ Snoul đến Lộc-Ninh (Lư
do cố vấn QĐ III không gọi B-52 là
v́ nếu B-52 đến họ sẽ làm nhiệm
vụ tựa như ở Hạ-Lào).Nhưng Tướng
Hiếu đă dự trù sẳn,Chuẩn tướng
Trần-quang-Khôi trợ lực tiếp cứu từ
Lộc-Ninh theo QL.13 đánh thẳng đến
Snoul.Kể như đây là cuộc rút quân thành công,v́
mổi cuộc rút quân đều bắt đầu
từ sự thất bại,nhưng thất bại ở đây
không do người kế hoạch chỉ huy mà do ở
người quyền thế to hơn,tướng
Nguyễn-văn-Minh và cố vấn Mỹ.Chúng ta đọc
tiếp bài của Phan-nhật-Nam sau đây: Ngày 4 tháng 1, 1971 kế hoạch “điệu hổ” bắt đầu với Chiến Đoàn 9 gồm Trung Đoàn 9/SĐ5BB, Tiểu Đoàn 74 BĐQ, Chi Đoàn 1 Chiến Xa, và Đại Đội 5 Công Binh vào vùng hành quân. Nhưng địch quân quả t́nh rất tinh khôn nên luôn tránh né giao tranh, măi đến hai tháng sau mới có chỉ dấu quân cộng sản bắt đầu dấn vào bẫy sập.(Như chúng ta thấy Ông Trời thường hay giúp Việt cộng,hay bọn nằm vùng tiếp tay cho CS ?). Một biến cố bất lợi vô cùng quan trọng xẩy ra: Ngày 26 tháng 2/1971, trực thăng chở Tướng Đỗ Cao Trí bị phát nổ - Vị tư lệnh chiến trường tử nạn vào giai đoạn quan yếu quyết định của chiến dịch – Ngày 8/3/71, Địch quân bắt đầu pháo kích vào vị trí đóng quân của Chiến Đoàn 9, một cây số Tây- Nam Snoul. Cùng lúc Mặt Trận Hạ Lào, Lam Sơn 719 nơi phía bắc bị lâm vào thế bế tắc. Tướng Nguyễn Văn Minh thay thế Tướng Trí giữ chức tư lệnh quân đoàn đồng ư tiếp tục kế hoạch “nhử địch” của Tướng Hiếu nhưng không mấy sốt sắng. Phần v́ không phải kế hoạch của chính ông; phần không đủ bản lănh để theo đuổi một kế hoạch sẽ có nhiều diễn tiến mở rộng, khó lường trước (Sẽ phải xử dụng hai sư đoàn 18, 25 trong trường hợp Bắc quân tập trung cấp sư đoàn). Liên tục trong những ngày tháng 3 hai bên vẫn tiếp tục theo dơi diễn biến chiến trường để sửa soạn một cuộc tấn công quyết định. Tướng Hiếu lệnh cho Trung Đoàn 8/SĐ5BB, thay thế Trung Đoàn 9, lực lượng mới cải danh thành Chiến Đoàn 8, các thành phần tăng phái, Biệt Động Quân, Thiết Kỵ không thay đổi. Với quân số gần 5000 người, được yểm trợ bởi Không Lực Hoa Kỳ, Tướng Hiếu trải rộng vùng hành quân cốt lùa cho được địch quân vào bẫy sập. Ngày 26/5/71 cộng quân ra mặt tấn kích Snoul nhưng bị quân trú pḥng đánh bật ra. Ngày 27/5 địch chuyển hướng tấn kích sang mặt phía tây; và ngày 29 đánh vào trung tâm chỉ huy của Chiến Đoàn 8 với quân số cấp trung đoàn phá hủy hệ thống truyền tin, đài kiểm báo. Tướng Hiếu yêu cầu Tướng Minh xử dụng quân trừ bị của quân đoàn phản công với đa số áp đảo như kế hoạch đă dự trù. Cố Vấn Mỹ khuyến cáo Tướng Minh đừng thi hành yêu cầu của Tướng Hiếu với lư do: “Hăy đợi quân Việt Cộng tập trung đông rồi dùng B52 tiêu diệt.” Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu không thể chấp thuận kế hoạch nầy, v́ nếu thế B52 sẽ gây thiệt hại cùng lần cho quân bạn. Ông chỉ yêu cầu B52 dội bom dọc theo lộ tŕnh rút quân (Quốc Lộ 13 từ Snoul về Lộc Ninh), và nếu không áp dụng kế hoạch dự trù sơ khởi (dùng quân viện phản kích) th́ hăy cho lệnh rút Chiến Đoàn 8 khỏi Snoul (PNN). Ngày
30 tháng 5/1971,Tướng Minh phủi tay với lời
bất nhẫn: ”Anh muốn làm ǵ th́ làm!!”, Tướng
Hiếu đáp máy bay xuống Snoul nơi Bộ
Chỉ Huy của Chiến Đoàn 8 đang trong tầm
súng bắn thẳng của cộng quân, đích thân
ra lệnh triệt thoái đến với tất
cả cấp chỉ huy những đơn vị tham
chiến, sau khi biết rằng lời yêu cầu
của ông xin B52 yểm trợ cuộc hành quân rút lui
đă bị bộ tư lệnh quân đoàn và
cố vấn Mỹ bỏ qua. (NVT sđd, trg 411) Tuy
nhiên, cuộc lui binh khỏi Snoul cũng được
hoàn tất (dẫu với tỷ số thiệt
hại 1/3 quân số, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 8
tử trận), bởi các đơn vị vẫn
giữ được đội h́nh chiến đấu
trong lúc triệt thoái, duy tŕ khả năng tác
chiến sau lần tổn thất do tất cả
những người chỉ huy, binh sĩ các cấp
đồng biết rằng: Vị Tư Lệnh Sư
Đoàn luôn ở với họ trong những giờ phút
nguy nan nhất. Cuộc lui quân thành công cũng v́
được Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn
III của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
trợ lực tiếp cứu từ Lộc Ninh theo
Đường 13 đánh lên Snoul. Cuối cùng,
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu sau
lần triệt thoái phải ra tường tŕnh trước
Quốc Hội v́ lỗi đă để thất
trận Snoul. Trận
Hạ Lào, Lam Sơn 179 (tháng 2/ 1971): Một Thiết
Đoàn Kỵ Binh; một Liên Đoàn Biệt Động
Quân; một sư đoàn bộ binh hàng đầu
của quân lực; hai đơn vị tổng trừ
bị quốc gia: Sư Đoàn 1 Bộ Binh; Sư
Đoàn Nhảy Dù; Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến đồng bị đem làm vật thí
nghiệm cho những “chiến lược gia hạng
ba, hạng tư”, những tướng lănh bất tài,
vô dụng. Lẽ tất nhiên không thể không kể
những viên “tướng” gọi là “Chủ
Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia; Chủ
Tịch Hội Đồng Quân Lực; Chủ Tịch
Ủy Ban Hành Pháp Quốc Gia; Chủ Tịch Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia; Bộ Trưởng
Quốc Pḥng; Tổng Tham Trưởng.” Những
kẻ xây dựng “công danh” trên máu xương Người
Lính – của rất nhiều Người Lính.(PNN). Được-Lời (LKC) Ngày 10/11/2013 |