Nhờ
đâu người Việt tại Úc đồng ḷng
chống cộng? Nguyễn Quang Duy |
Muốn
hướng đến tương lai cần hiểu rơ
quá khứ, loạt bài viết về Cộng đồng
người Việt tại Úc nh́n từ trong tổ
chức Cộng Đồng nh́n ra, giữ nguyên tắc
tuyệt đối tôn trọng sự thật, v́
thế chúng tôi sẵn sàng hiệu đính nếu
được cung cấp thêm thông tin hay thông tin khác có
bằng chứng rơ ràng. Người
Việt một cộng đồng đồng nhất Ở
Úc, chỉ cần 3 người họp lại là có
thể lập hội, có thể đăng bộ
với chính phủ và có thể hoạt động như
mọi tổ chức có tư cách pháp nhân khác. Khi
tôi làm chủ tịch Cộng đồng Canberra
(1990-94), tham dự các buổi họp cộng đồng
sắc tộc, cộng đồng Việt chỉ có tôi
đại diện, có sắc dân có đến 4 nhóm
đại diện. Người
Trung Hoa, ngoài cộng đồng người Úc gốc
Trung Hoa gồm những người đă định cư
ở Úc nhiều đời, c̣n có cộng đồng
người Đài Loan, cộng đồng người
Hồng Kông và cộng đồng người Trung Hoa
Lục Địa. Cộng
đồng Cam Bốt khi
ấy có 2 nhóm Hoàng Gia và nhóm Thủ Tướng Hun
Sen. Cộng đồng Phillipines cũng 2 nhóm, theo
Tổng thống Corazon Aquino và trung thành với cựu
Tổng thống Ferdinand Marcos. Chỉ
có 2 cộng đồng thiết lập được
một cơ chế cấp liên bang khá đồng
nhất là Do Thái và Việt Nam. Khởi
đầu ngồi lại… Với
dân số chỉ trên 2,000 người, vào năm 1976,
cộng đồng Việt đă h́nh thành nhiều
hội đoàn với nhiều tên gọi khác nhau,
tại tiểu bang NSW có Hội Liên Hương, ở
Melbourne, Canberra và Adelaide có Hội Ái Hữu Việt
Kiều Tự Do, ở Queensland có Hội Người
Việt Tự Do. Luật
sư Lưu Tường Quang, Hội Trưởng
Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự Do tại Lănh
Thổ Thủ Đô ACT, đă kêu gọi các Hội
tiểu bang ngồi lại để vào ngày 26/12/1977 thành
lập một tổ chức lấy tên là Liên Hội
Ái Hữu Việt Kiều tại Úc. Liên
Hội đảm trách vận động chính trị
gia và chính phủ cấp liên bang, báo chí và đấu
tranh chính trị với Hà Nội. Hội
tại các tiểu bang vẫn giữ tên cũ và
giữ những hoạt động độc lập
tại địa phương. Ông
Lưu Tường Quang từ 1970-74 là nhân viên ngoại
giao Ṭa Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại
Úc nên quen một số chính trị gia, biết các
hội đoàn, giới báo chí, giới khoa bảng và
hệ thống chính trị Úc nên được đề
cử làm Hội trưởng. Cứ
mỗi năm các Hội lại họp ở một
tiểu bang để bầu lại Ban Chấp Hành, ông
Quang được tín nhiệm làm hội trưởng
cả giai đoạn từ năm 1977 đến năm
1982. Được
sự hỗ trợ của các tiểu bang, Luật sư
Quang đă vận động chính phủ Fraser nhận
thêm người Việt tị nạn và vận động
để đến giữa năm 1982 Úc đạt
được thỏa thuận với Hà Nội để
người Việt tị nạn được
bảo lănh gia đ́nh c̣n kẹt lại ở Việt
Nam. Thống
nhất danh xưng lập Cộng đồng Bác
sĩ Bùi Trọng Cường một người đă
bắt đầu sinh hoạt cộng đồng từ
năm 1975 và hiện vẫn là chủ tịch Cộng
Đồng tại Queensland, nhớ trong thời gian
1978-82, lần nào Đại Hội danh xưng
“Việt kiều” cũng được mang ra
thảo luận. Người
tị nạn mới sang rất dị ứng khi bị
gọi là “Việt kiều”, Hội Queensland và Victoria
đă đổi danh xưng thành “người Việt
tự do”, trong khi Liên Hội vẫn sử dụng danh
xưng “Việt kiều”. Măi
đến Đại Hội tổ chức tại
Adelaide, ngày 12/4/1982, Bác sĩ Cường, Giáo sư
Nguyễn văn Khánh và Luật sư Đinh sĩ Trang
mới thuyết phục được Đại
Hội rằng người Việt tị nạn
phải bỏ nước t́m tự do trong khi “Việt
kiều” là “kiều dân Việt” là người
Việt sống ở nước ngoài, những người
vẫn muốn làm công dân của nước Việt
Nam cộng sản, lấy tên “Việt kiều” là không
đúng. Đại
diện Hội Queesland thuyết phục được
Đại Hội để tu chính lại Nội Quy, Liên
Hội đổi tên thành Cộng Đồng Người
Việt Tự Do tại Úc Châu. Sáu
Hội tiểu bang là NSW, Nam Úc, Queensland, Tây Úc, Tasmania,
Victoria, lănh thổ thủ đô Canberra (ACT) và lănh
thổ Bắc Úc cũng đổi tên thành Cộng
Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu tại
NSW, Nam Úc, Queensland,…. Cộng
Đồng tại thành phố Wollongong là thành viên sáng
lập nên vẫn được kể là thành viên chính
thức Cộng Đồng Liên Bang. Đại
Hội năm 1982, Bác sĩ Cường được
bầu làm Chủ tịch Liên
bang và nhiệm kỳ cũng thay đổi
là hai năm thay v́ một năm như trước
đây. Xuyên
suốt 43 năm từ ngày thành lập, cơ cấu
tổ chức Cộng đồng không mấy thay đổi,
tạo được thế chính danh và uy tín cả
Cộng đồng Tiểu Bang lẫn Liên Bang. Ở
Úc, không có việc Cộng đồng bị xé ra làm
hai, làm ba như tại Hoa Kỳ hay một số
quốc gia Âu châu. Tính
chính danh của người Việt tự do Về
mặt tinh thần danh xưng gắn bó mọi người
Việt sống tại Úc châu v́ nó thích hợp cho
mọi người bất kể lư do rời Việt
Nam, rời khi nào, xuất thân, quê quán, tuổi tác,
hiện đang sống ở đâu, họ đều là
người bỏ nước t́m tự do, không công
nhận Hà Nội làm thể chế đại diện. Danh
xưng người Việt tự do c̣n bao trùm các
thế hệ tiếp nối của người
Việt bỏ nước t́m tự do. Đối
nghịch lại là người Việt theo cộng
sản hay những người c̣n muốn giữ
quốc tịch nước Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Gần
6 năm từ khi Luật quốc tịch được
ban hành ngày 13/11/2008 đến ngày 1/7/2014, Hà Nội liên
tục vận động nhưng trong số 4.5
triệu người Việt hải ngoại chỉ
vọn vẹn chưa tới 6,000 Việt kiều xin
giữ quốc tịch Việt Nam. Trong
thập niên 1980 và 1990, tại các Đại Hội danh
xưng người Việt tự do nhiều lần
được đề nghị đổi thành người
Việt quốc gia hay người Việt tị nạn
nhưng đều không được đa số
đồng thuận. Chính
nhờ xác định được danh tính người
Việt tự do Cộng đồng mới có thể
huy động được hằng chục ngàn người
xuống đường biểu t́nh chống ảnh hưởng
của Hà Nội tại Úc. Giai
đoạn 1982-91 tại Úc Ngày
11/3/1983, đảng Lao Động thắng cử,
Thủ tướng Bob Hawke tiếp tục chính sách
nhận người tị nạn từ các trại
Đông Nam Á và nhận đoàn tụ gia đ́nh từ
Việt Nam sang. Về
quan hệ ngoại giao, khi Việt Nam mang quân sang Cam
Bốt năm 1979 Chính phủ Fraser đă cắt
đứt viện trợ, phong tỏa thương
mại và đầu tư với Hà Nội. Chính
phủ Hawke làm ngược lại vào tháng 6/1983, ông
Hawke cử Ngoại trưởng Bill Hayden qua Việt
Nam công bố tái viện trợ cho Hà Nội
và mời Ngoại trưởng cộng
sản Nguyễn Cơ Thạch sang thăm Úc. Tháng
4/1984, ông Nguyễn Cơ Thạch chính thức sang Úc
đây là thử thách đầu tiên chứng tỏ
sức mạnh chính trị của Cộng Đồng
Người Việt Tự Do Úc châu. Vào
ngày ông Thạch thăm Quốc Hội Liên Bang, Cộng
đồng Người Việt Tự Do các tiểu bang
đă đồng loạt tổ chức biểu t́nh. Bác
sĩ Bùi Trọng Cường nhớ lại có đến
5,000 người tham dự biểu t́nh tại thủ
đô Canberra đa số là bà con từ Sydney. Tham
dự với người Việt là hằng trăm thành
viên thuộc Hiệp Hội Các Quốc Gia bị
Cộng Sản Chiếm Đóng. Truyền
h́nh và báo chí đưa tin, từ trước đến
khi đó, chưa có cuộc biểu t́nh nào có số lượng
người tham dự đông hơn cuộc biểu t́nh
phản đối ông Nguyễn Cơ Thạch. Một
trại tù “cải tạo” được dựng
ngay trước Quốc Hội với gần 30 tù nhân
bị trói bên trong tố cáo trước dư luận
Úc t́nh trạng vi phạm nhân quyền tại Việt
Nam. Trưởng
trại tù là Hải Quân Thiếu tá Trần Thế
Diệp, c̣n Phó trại kiêm phát ngôn viên truyền thông
là Trung Úy Phi công Vơ Minh Cương. Cả hai đều
đă phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa và đều trải qua nhiều năm tù cộng
sản. Khi
đoàn xe chở ông Nguyễn Cơ Thạch chạy vào
Quốc Hội, nhà báo Nguyễn Vi Túy định
chạy ra đón đầu bị cảnh sát xô té. Ở
trong Ban Tổ Chức biểu t́nh tại tiểu bang
Tasmania tôi nhớ rơ cuộc biểu t́nh tại đây. Với
chưa tới 500 người Việt chúng tôi xin nhà trường
cho các cháu nhỏ được nghỉ học đi
biểu t́nh, đồng thời đi hàng hai và cách
nhau chừng 1 thước để đoàn biểu t́nh
được kéo dài. Chúng
tôi may và in thật nhiều cờ vàng phát cho bà con tham
dự, đây là dịp đầu tiên và duy nhất lá
cờ vàng tràn ngập thành phố Hobart thủ phủ
tiểu bang Tasmania. Tối
đó đài truyền h́nh và báo chí đưa tin
cuộc biểu t́nh lớn thứ hai trong lịch
sử Tasmania, lần trước là cuộc biểu t́nh
chống chiến tranh Việt Nam, lần này là đoàn
người tị nạn thật dài, thật lặng
lẽ, thật ôn ḥa đồng hành trên đường
phố. Các
cuộc biểu t́nh phản đối Nguyễn Cơ
Thạch đă ảnh hưởng lớn đến sách
lược của Chính phủ Hawke, nên măi 9 năm sau năm
1993 thời Chính phủ Keating mới có những
chuyến viếng thăm kế tiếp. Một
sự kiện đáng ghi nhớ khác là cuộc đi
bộ Đồng Tâm do hai đoàn một từ Melbourne
đi hơn 600 cây số và một từ Sydney đi
gần 300 cây số cùng hướng tới Thủ
đô Canberra dự cuộc biểu t́nh 30/4/1987. Ông
Hoàng Phương người khởi xướng và
tổ chức cuộc đi bộ Đồng Tâm
hứa sẽ đóng góp bài về cuộc đi bộ
này. Khi
ấy, biểu t́nh tưởng niệm 30/4/1975 trước
ṭa Đại sứ cộng sản tại Canberra, cũng
đă được tổ chức hằng năm. Hai
dẫn chứng trên thấy vào thập niên 1980 Cộng
đồng Liên Bang đă thực sự trưởng thành
và là một thực thể có sức mạnh, vững
chắc và có tổ chức. Bác
sĩ Bùi Trọng Cường được tín
nhiệm 5 nhiệm kỳ liên tiếp (1982-91) nên cùng các
Ban Chấp hành c̣n đóng góp mở ra đường
lối phát triển văn hóa, dạy tiếng Việt,
giúp người vượt biển, giúp người
mới tới định cư. Giai
đoạn 1991-99 Ngày
20/12/1991, dân biểu Paul Keating được các dân
biểu và nghị sĩ Lao Động bầu làm
Thủ tướng Úc thay cho ông Bob Hawke, ít ngày sau ông Vơ
Minh Cương cũng được Đại Hội
cấp Liên bang bầu làm chủ tịch Cộng đồng
Người Việt Tự Do tại Úc châu. Khi
ấy Việt Nam vừa rút quân khỏi Cam Bốt nên Hà
Nội đẩy mạnh bang giao với Úc và b́nh thường
hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Thủ
tướng Keating muốn mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước Á châu, nên gởi
lời mời Thủ tướng cộng sản Vơ Văn
Kiệt sang thăm Úc vào tháng 5/1993. Thời
điểm đó Đông Âu và Liên Sô vừa sụp
đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, các
tổ chức kháng chiến Việt ở Đông Dương
tan ră, khuynh hướng đấu tranh ôn ḥa hợp tác
với Hà Nội được một số người
và tổ chức ủng hộ. Khi
đó, tôi đang làm chủ tịch Cộng đồng
tại thủ đô Canberra, trước khi ông Kiệt
tới, tôi đă được nhiều cá nhân và
tổ chức đề nghị gặp ông ta. Khi
họp với Cảnh sát Liên bang và Cơ quan T́nh báo
Úc một mặt họ thăm ḍ, mặt khác họ
đề nghị Cộng đồng nên gặp ông
Kiệt. Chừng
10 hôm trước cuộc biểu t́nh, Văn pḥng
Thủ tướng Úc mời tôi và chừng 10 người
khác trong cộng đồng tham dự một cuộc
họp cũng đă chính thức đề nghị chúng
tôi gặp ông Kiệt. Chúng
tôi đă thảo luận trước với ông Vơ Minh
Cương, chủ tịch Liên Bang, nên đ̣i hỏi
được “đối chất” về nhân
quyền, phải công khai, phải có báo chí tham dự và
đ̣i hỏi một phái đoàn đi Việt Nam điều
tra nhân quyền. Đồng thời, chúng tôi ủng
hộ Chính phủ Úc viện trợ Việt Nam xây
dựng cầu Bắc Mỹ Thuận. Đến
ngày ông Kiệt thăm Quốc Hội, bên ngoài có
gần 3,000 người biểu t́nh, đa số bà con
tham dự biểu t́nh đến từ Sydney. V́
phải vận động bà con nên Cộng Đồng
NSW luôn nhận trách nhiệm Trưởng ban Tổ
chức Biểu t́nh và ông Vơ Minh Cương khi ấy c̣n
là chủ tịch Cộng Đồng NSW. Bên
trong Quốc Hội khá bất ngờ ông Vơ văn
Kiệt đă đồng ư với Thủ tướng
Paul Keeting để một phái đoàn Úc đi Việt
Nam điều tra nhân quyền. Đây
là một chuyển biến lịch sử một phái
đoàn cấp quốc gia chính thức đi Việt Nam
điều tra nhân quyền, trước đó Hà
Nội luôn phủ nhận việc họ vi phạm nhân
quyền và từ chối mọi đề nghị quan
tâm đến nhân quyền tại Việt Nam từ các
quốc gia Tây Phương hay tổ chức Quốc
Tế. Cộng
đồng Úc châu có soạn tập tài liệu
bằng Anh ngữ tường tŕnh chuyến điều
tra nhân quyền này. Vào
tháng 7/1995, Tổng Bí thư Cộng sản Đỗ Mười
sang thăm Úc một cách hết sức âm thầm. Chính
phủ Keating chỉ thông báo ít lâu trước khi ông Mười
sang và mọi thông tin về chuyến viếng thăm
đều được giữ tuyệt đối bí
mật đến phút cuối. Cộng
đồng Liên bang đă phải mua tin từ thám
tử tư, ngày ông Mười vào Quốc Hội,
để tổ chức biểu t́nh được
đúng ngày. Lúc
đó việc tổ chức biểu t́nh đă đi vào
nề nếp nên chỉ trong vài ngày thông báo hằng ngàn
người từ khắp các tiểu bang đă đổ
về Canberra tham dự biểu t́nh. Một
lần nữa cho thấy hiệu quả của vận
động biểu t́nh cấp Liên Bang và sự liên
kết giữa Cộng đồng NSW và các tiểu bang
khác. Từ
đó cả hai đảng Tự Do và Lao Động
đều chủ trương mở rộng bang giao
với Hà Nội, bởi thế những người lănh
đạo Cộng đồng phải thường xuyên
vận động sức mạnh người Việt
tự do để biểu lộ quan điểm và
lập trường đấu tranh. Ông
Vơ Minh Cương, sau này tốt nghiệp luật sư,
được tín nhiệm và giữ 4 nhiệm kỳ 2
năm từ 1991-99. Nội
quy được tu chính các Ban Chấp Hành chỉ
được giữ 2 nhiệm kỳ liên tục và
mỗi nhiệm kỳ vẫn giữ 2 năm. Chấm
dứt tiếp vận chương tŕnh Đài VTV4 Sang
giai đoạn Kỹ sư Đoàn Việt Trung làm
chủ tịch (1999-2004) đă xảy ra chuyện đài
truyền h́nh sắc tộc SBS chuyển tiếp chương
tŕnh tin tức VTV4 từ Hà Nội. Trong
vài tháng chương tŕnh của VTV4 trên SBS mỗi ngày
đă thực sự đe dọa cuộc sống b́nh yên
của người Việt tự do tại Úc, bởi
thế hằng chục ngàn người Việt khắp
nước Úc đă liên tục xuống đường
biểu t́nh chống SBS-VTV4. Khi
Bác sĩ Nguyễn mạnh Tiến, chủ tịch
Cộng đồng NSW, lên tiếng kêu gọi 5,000 người
biểu t́nh trước Trụ Sở chính của Đài
SBS tại Sydney, ngày 28/10/2003 có trên 5,000 người
biểu t́nh. Khi
Bác sĩ Nguyễn mạnh Tiến lên tiếng kêu
gọi 10,000 người, ngày 2/12/2003 đă có 12,000 người
từ các tiểu bang đổ về Sydney tham dự
cuộc biểu t́nh. Sức
mạnh chính trị của Cộng đồng Việt
Nam đáng được ghi vào lịch sử nước
Úc, lần đầu tiên và có thể là duy nhất
một cộng đồng nhỏ đă buộc 1 cơ
quan truyền thông Úc phải thay đổi chính sách
truyền thông “độc lập” do họ đề
ra. Trong
cuộc biểu t́nh ngày 2/12/2003, tôi mướn một
xe buưt 12 chỗ ngồi chở bà con từ Canberra lên
Sydney tham dự. Trên
đường trở về chúng tôi đồng ư
với nhau nếu Bác sĩ Tiến kêu gọi lần
thứ 3, chúng tôi sẽ vận động thêm
nhiều người Canberra lên Sydney biểu t́nh. Trong
giai đoạn ông Trung làm chủ tịch đă bắt
đầu các cuộc họp viễn liên (telephone
conference) với các Cộng đồng tiểu bang cùng
Ban Cố vấn vào mỗi tối thứ hai đầu
tháng để bàn luận và quyết định các
vấn đề liên quan, đây là một cải cách
quan trọng trong việc thông tin và lấy quyết
định. Duyên
dáng Việt Nam và Nghị quyết 36/2004 Bước
sang giai đoạn Bác sĩ Nguyễn mạnh Tiến làm
chủ tịch (2004-2008) thách thức mới là Nghị
Quyết 36 nhằm b́nh thường hóa các sinh hoạt
của đảng Cộng sản tại hải
ngoại. Sự
kiện đáng nhớ nhất là đoàn Duyên Dáng
Việt Nam sang Úc tŕnh diễn. Báo Thanh Niên đưa
tin với trên 100 người trong đoàn, được
Ṭa Đại sứ, Ṭa Tổng lănh sự tại
Sydney, báo Thanh Niên, Vietnam Airlines và Sở Văn Hóa Thông
Tin TP HCM cùng tổ chức. Ngay
khi biết tin đoàn văn công sẽ sang tŕnh diễn
tại Canberra vào tối ngày thứ hai 31/10/2005, ông Lê Công
chủ tịch Cộng đồng Canberra đă hỏi
mượn nhà tôi để họp nên tôi c̣n nhớ
rất rơ. Cả
một đoàn lên tới trên trăm người,
tốn phí vài triệu Úc kim, vé vào cửa lại
“tặng” ai muốn xem chỉ cần liên lạc Ṭa
Đại Sứ. Tổ
chức tŕnh diễn vào tối thứ Hai để có
thể mời các chính trị gia Úc, v́ nếu tổ
chức vào cuối tuần, các chính trị gia rời
thủ đô Canberra về lại địa phương
không ai ở lại tham dự. Chỉ
chưa đến 1 tuần Cộng đồng ra thông báo
đă có trên 2,000 bà con tham dự biểu t́nh. Do sợ
mất phiếu nên các chính trị gia được
mời đều không tới. Số
khách tham dự hôm đó cũng chỉ chừng 300 khách,
trong khi Canberra Theatre Center có thể chứa được
2,000 người. Trong
số 300 khách chính mắt tôi thấy 2 xe buưt lớn
chở hằng trăm người, không rơ là khách du
lịch từ Việt Nam sang hay người từ các nơi
khác được Ṭa Đại Sứ mời tham
dự. Nhiều
sinh viên du học tại Canberra được phát vé
mời, cho tôi biết họ không tham dự. Đến
Chủ Nhật 6/11/2005, Đoàn Duyên Dáng Việt Nam tŕnh
diễn tại Hội trường Ṭa Thị Chính (Town
Hall) thành phố Sydney, bên ngoài lên tới 4,000 người
biểu t́nh phản đối. Đoàn bỏ tŕnh
diễn ở 2 thành phố Melbourne và Adlaide, lên máy bay
về nước. Những
người cộng sản rút ra bài học, từ
đó không phô trương thực hiện Nghị
Quyết 36 mà t́m cách chia rẽ cộng đồng
bằng những cách thức mềm dẻo hơn như
lập Hội Doanh Nhân Việt Nam hay cấp phép và
trợ giúp ca sĩ, giới hoạt động dân
sự, từ thiện trong nước ra hải
ngoại tŕnh diễn. Có
lần Bác sĩ Nguyễn mạnh Tiến, cựu
chủ tịch Cộng Đồng, lên tiếng về
một MC từ Mỹ sang dẫn chương tŕnh ca hát
bị Cộng đồng phản đối. MC
này đặt vấn đề tại sao ở Mỹ
ông ta được quyền tổ chức c̣n khi sang
Úc ông lại bị Cộng đồng phản đối. Có
người đặt ngược câu hỏi tại
sao ca sĩ ông MC giới thiệu được phép
sang Úc hát c̣n các ca sĩ khác không được phép
sang. Câu
hỏi giờ được đổi lại là
tại sao nhân vật “xă hội dân sự” A
được phép liên tục sang Úc tŕnh diễn, c̣n
nhiều người khác cũng sinh hoạt xă hội dân
sự lại bị ngăn cấm ngay tại phi trường
không cho xuất ngoại, nhiều người c̣n
bị khép tội nhốt tù. Nghị
Quyết 36 vẫn là thách thức lớn nhất cho
cộng đồng hải ngoại, Cộng đồng
vẫn tiếp tục dựa vào Nội quy để
vận động người dân và sử dụng
luật pháp tại Úc để chống lại nỗ
lực b́nh thường hóa hoạt động của
đảng Cộng sản tại Úc châu. 3
vị lănh đạo khác Các
vị lănh đạo Cộng đồng Liên Bang đều
đă từng lănh đạo Cộng Đồng
tiểu bang nên đều có lập trường
dứt khoát, có kinh nghiệm điều hành cộng
đồng và uy tín vận động người dân
tham dự biểu t́nh. Ông
Nguyễn Thế Phong chủ tịch giai đoạn
2008-2012, Luật sư Vơ trí Dũng chủ tịch giai
đoạn 2012-2016 và ông Nguyễn văn Bon
đương kim chủ tịch giai đoạn
2016-2020, đều đă có thật nhiều đóng góp
cho Cộng đồng ở cả cấp tiểu bang
lẫn liên bang. Chúng
tôi sẽ có những bài viết khác nói đến
những đóng góp của ba vị nói trên. Nh́n
chung những người lănh đạo cộng đồng
và các Ban Chấp Hành không chỉ giữ vững
một cộng đồng tự do, c̣n xây dựng
tiếng nói với chính giới và công luận Úc. Họ
c̣n đóng góp bảo tồn văn hóa dân tộc và
hỗ trợ cuộc đấu tranh cho tự do, dân
chủ, nhân quyền và vẹn toàn lănh thổ Việt
Nam. 2
thách thức … Giữa
tháng 6/2012 tại Đại Hội Cấp Liên Bang
tổ chức tại Melbourne, các Tiểu bang đă
đồng thuận chiến lược trẻ trung hóa
sinh hoạt và thành phần lănh đạo cộng đồng,
chúng tôi sẽ đi sâu vào đề tài này trong các
dịp khác. Chính
quyền tiểu bang Victoria đang lọt vào bẫy
nợ “Một Vành Đai, Một Con Đường”
do nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh tạo
ra. Vay nợ hôm nay, con cháu chúng ta sẽ phải trả
mai sau. Theo
tôi đây là một thách thức không riêng cho thành
phần lănh đạo cộng đồng, mà chung cho
tất cả người Việt tự do đă
từng trải những kinh nghiệm với cộng
sản, Cộng đồng Người Việt Tự
Do cần đề ra một chiến lược đấu
tranh chống lại ảnh hưởng của cộng
sản Bắc Kinh ngay trên nước Úc. Nguyễn
Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi |