Tác
giả Peter Harvey Dịch
giả TS.Đỗ Kim Thêm |
Giáo
lư Phật giáo và những nguyên tắc liên quan đến
việc dùng bạo lực có đề ra như sau: (1)
Giới đầu tiên của Phật là cam kết
từ bỏ ư tưởng gây tổn hại hay
giết bất cứ sinh vật hữu t́nh nào, dù
trực tiếp hay qua trung gian người khác. (2)
Nhấn mạnh đến ḷng từ bi bác ái. (3)
Theo đuổi lư tưởng trong một lối mưu
sinh liêm chính, một yếu tố trong Bát Chánh Đạo
đưa tới Niết Bàn, nhằm ngăn ngừa
được cuộc sống gây đau khổ cho tha
nhân. Trong
số những h́nh thức được kể ra
về việc mưu sinh bất chính là cuộc sống
bằng mua bán vũ khí. Chấp nhận những
giới luật này th́ chiến tranh và các h́nh thức
sử dụng bạo lực có thể biện minh
được không? Giáo
lư của nhà Phật nhắm vào một t́nh trạng hoàn
toàn bất bạo động, dựa trên sự
tỉnh thức và nội lực bắt nguồn từ
tâm tỉnh lặng. Dẫu cho con người không
hề hoàn hảo, khi con người sống trong
một thế giới mà người khác mưu t́m
lợi thế bằng bạo lực, v́ họ phải
luôn đối đầu với nghịch cảnh, th́
ta có nên đáp ứng lại bằng cách pḥng thủ
bằng bạo lực không. Chủ trương hiếu
hoà có thể là một lư tưởng, nhưng trong
thực tế Phật tử thường dùng bạo
lực để thủ thân ḿnh hay bảo vệ quê hương,
nếu không nói đến việc đôi khi dùng
bạo lực tấn công, như bất kỳ nhóm ngựi
nào khác. Phật tử b́nh thường có thể
cảm thấy rằng không thể dùng phương cách
bất bạo động một cách tuyệt đối,
đặc biệt là khi họ c̣n bị ràng buộc
với quá nhiều thứ mả họ cảm thấy
đôi khi ḿnh cần phải sử dụng bạo
lực để bảo vệ. Dĩ nhiên, họ có
thể tử bỏ tất cả để quy y thành sư
tăng, nhưng họ không thể sẳn sàng khấn
nguyện cho hết mức độ của ḿnh. Có
vài kinh điển đă nói đến chiến tranh và
dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng t́m
cách biến đổi quan điểm thông thường
của thế gian là bạo lực cũng đôi khi
cần thiết bằng cách là đối thoại
với một lư tưởng không dùng bạo lực.
Về điểm này, Phật có nói đến ḿnh như
một người xuất thân từ giai cấp lănh
chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có b́nh luận
về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà
Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lănh thỗ của chú
ḿnh là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín
đồ của Ngài, và được coi như là người
luôn làm việc thiện. Trong
cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh
bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về
sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến
thắng gieo thêm hận thù, người bại trận
sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một
đời sống an hoà, từ bỏ đưọc
mọi chuyện thắng thua. Điều này cho
thấy rơ rằng sự chinh phục đem lại bi
đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa
tới thù hận và dường như chỉ muốn
chinh phục lại kẻ chinh phục.” Trong
cuộc chiến thứ hai, vua Pasenadi đă thắng và
bắt được vua Ajàtasattu, nhưng ông tha
mạng và chỉ tịch thu toàn bộ vũ khí và
nắm quân đội. Đức Phật đă
luận giải rằng: “Người ta có thể hôi
của người để phục vụ cho cứu cánh
của ḿnh. Nhưng khi họ hôi của người khác
th́ người mất của lại hôi của người
khác. Cho đến lúc mà quả ác báo chưa chín mùi,
th́ kẻ điên nghĩ đó chính là cơ hội, nhưng
khi ác báo đă đủ rồi th́ kẻ điên
chịu khổ. Giết người th́ sẽ bị người
giết lại, chinh phục người th́ sẽ
bị người chinh phục lại, sỉ nhục người
sẽ bị người sỉ nhục lại. Phẫn
nộ gây thêm phiền năo. Ai lấy của ngựi
sẽ bị người lấy của lại, đó là
luật tiến hoá cuả nghiệp báo.” Điều
này chỉ rơ gây hấn chỉ đem tới phản công
bằng bạo lực để pḥng vệ mà không
cần phải biện giải, v́ được coi như
là quả nghiệp của kẻ tấn công. Khi
phản công như thế xảy ra th́ không c̣n cần
biện minh nửa. Chính thế mà gây hấn
cần ngăn chận. Pasenadi, một người pḥng
thủ hiếu hoà không thoát được lời
chỉ trích. Dĩ nhiên tha mạng của kẻ thù
bị đánh bại là một điều tốt, nhưng
lại để kẻ thù này không tự bảo
vệ được khi không c̣n quân đội, th́
điều này coi như là chất chứa thêm cho
bất ổn. Khantipalo
đă luận giải như sau: “Chỉ cần tóm
tắt sự vô nghiả của chiến tranh nhằm
giải quyết xung đột trong hai ḍng. Đức
Phật thấy được hành vi của vua Pasenadi tóm
thâu quân đội của đứa cháu của ḿnh là
không hiệu quả. Kết quả là làm khó khăn thêm
cho vua Ajàtasattu giải quyết việc chinh phục
Kosala, mà vua có thể làm được.” Trong thời
đại của chúng ta, việc đ̣i ḥi nước
Đức phải bồi thường chiến tranh sau
Đệ Nhất thế chiến là một tấm gương
tốt khác–Báo thù của chúng ta chỉ lôi keó theo báo
thù của họ, như chúng ta đă thấy trong trường
hợp Hitler và Đệ Nhị thế chiến. Kashi
Upadhyaya luận giải rằng những đoạn kinh
nêu h́nh ảnh về một ngựi pḥng thủ
hiếu hoà chỉ là một là một điều
tốt ở một mức độ vừa phải, mà
không đạt được lư tưởng của
việc hoàn toàn bất bạo động. Trong
khía cạnh khác, Elizabeth Harris nói đoạn kinh trích này
cho thấy đây là một sự chấp nhận
một thực tại chính trị mà thế giới là
một thực tại như thế, vai tṛ của
Pasenadi trong việc ǵn giử giang sơn chống
lại ngoại xâm được xem là cần
thiết và đáng ca ngợi. Có lẽ điểm
mấu chốt của vấn đề là khi người
ta từ bỏ thành bại th́ có c̣n là nhà vua hay không,
hay lại phải quy y thành một nhà sư theo đuổi
mục tiêu lư tưởng này. Đoạn kinh này không
chỉ rơ. Harris
chắc chắn đă sai lầm khi nói rằng hành vi
của Pasenadi là đáng ca ngợi. Ông ta đă mô
tả quá đơn giản hành vi trong một chừng
mực giới hạn, tùy theo cảm xúc và hoàn
cảnh của ḿnh. Ngoài ra, Pasenadi than văn với Đức
Phật về quan tầm trọng vai tṛ của một
vị vua, mà chủ yếu là thúc đẩy những
việc như là ham muốn và chinh phục. Đức
Phật đă giúp ngài soi lại tâm ḿnh về
những việc lương thiện bằng cách
nhắc nhở ngài rằng vua cũng như bao nhiêu người
khác, vua cũng sẽ chịu ṿng lăo tử. Dù
thế, vấn đề c̣n lại đối với
một vị vua, một Phật tử thuần thành,
th́ việc cai trị không bằng bạo lực là
điều có thể làm được hay không hay
lại phải t́m một cách thỏa hiệp một cái
ǵ đó như vua Pasenadi đă làm. Đức Phật
ngạc nhiên khi nếu một vị vua trị v́ khi dùng
Chính Pháp của Phật (công bằng, đức độ
và chính trực) được không, không trực
tiếp giết người, không gây ra sự giết
người, không chinh phục và không gây ra sự chinh
phục, không khổ và không gây khố cho ai. Trước
khi trả lời câu hỏi của chính ḿnh, ma vương
xuất hiện trước ngài và khuyến khích ngài hăy
làm như một vị vua. Ngạc nhiên khi thấy ma vương
lại khuyên ngài như thế, ngài thấy rằng các
vị vua không thể nào tránh được ṿng
luyến ái, gây phiền năo, mà một người phóng
khoáng không thể tránh được chiều hướng
này. Có lẽ điều này ám chỉ rằng làm vua mà
phóng khoáng th́ không thích hợp, trong khi đối
với mọi nguời thường khác th́ quy luật
bất bạo động vẫn c̣n là một điều
có thể làm được, dù là nguy hiểm của
nhũng lạm do ràng buộc vào lạc dục cần
luôn được cảnh tỉnh. Thực
ra, Đức Phật có nói rằng chính Ngài là một
minh vương, Cakkavatti, không sử dụng bạo
lực trong quá khứ. Là vua nhưng dùng bằng Chính
Pháp của Phật, là người trị v́ tứ phương,
là người đă lập được an ninh trong
lảnh địa của ḿnh.”Ta đă có hơn
một ngàn người tùy tùng mà c̣n là những anh hùng,
những kẻ chinh phục được quân thù. Ta luôn
nghĩ đến trần gian được biển vây
bọc này, sẽ được chế ngự bằng
Đạo Pháp mà không cần có gây gộc hay kiếm
cung.” Nói
như thế không v́ Minh vương Cakkavatti không có quân
đội. Theo kinh Minh Vương, Cakkavatti Sihanàda Sutta,
sau khi phụ vương Cakkavatti thoái vị để
quy y, cũng có vua đề ra quân luật, bằng cách
đi tứ phương một với quân đội ḿnh,
với những kẻ thù nay muốn thần phục và
chấp nhận lời khuyên quy y theo ngũ giới. Chính
thế mà bất bạo động là điều
cần thiết. Đó là điều tại sao mà ngài
nói ngài cai trị bằng Chính Pháp của Phật để
bảo vệ mọi thành phần dân chúng khỏi
tội phạm và nghèo đói, và ngài cũng tham
vấn các bậc chân tu về những ǵ gọi là
thiện và ác. Dĩ nhiên, liên hệ đến tội
phạm hàm chứa sử dụng bạo lực, dù không
nhất thiết phải là giết người.
Thực vậy, kinh Agganna nói rằng vị vua đầu
tiên được chọn lựa trong xă hội con người
nhằm để ứng xử với người làm
việc sai trái, nhưng chỉ v́ với phẩn
nộ, sỉ nhục hay xua đuổi của họ mà
thôi. Trong
những kinh đầu tiên của Phật giáo đă có
nói về quy luật bất bạo động. Ngay
cả điều này dường như chấp
nhận rằng đây là một lư tưởng chỉ
có thể phù hợp với bậc siêu phàm. Sau khi nghiên
cứu kinh này, Harris cho rằng: „Điều
rơ ràng là cư sĩ không bao giờ đề xuất
dùng bạo lực khi đă có hoà hợp hay dùng
bạo lực để chống lại kẻ vô
tội. Nếu phải bảo vệ mà dùng bạo
lực là cách duy nhất, th́ họ không hề cố
bảo vệ một cái ǵ không rỏ ràng … Người
nào cảm thấy rằng bạo lực dùng để
biện minh cho các bảo vệ sinh mệnh của người
khác th́ nên chú ư đến những hậu quả
của nó... Người ta phải nhớ đến
những qủa nghiệp nguy hiễm về những hành
vi của ḿnh mà ḿnh phải lănh , không thể tránh
được… Những người như thế
cần cân nhắc những động lực của ḿnh…
Họ phải cân nhắc những nguy hiểm trước
mặt nhằm ngăn ngừa điều ác lớn lao
hơn.“ Phật
giáo có thể hiểu được nếu một khi
bạo lực được sử dụng, nhưng
thật ra không chấp nhận. Điều này có
thể t́m thấy trong kinh khi kể đến những
h́nh thức thông minh hơn để tự pḥng
vệ. Trong phần giảng luận kinh Pháp Cú có
kể chuyện một người đàn bà suưt
bị chồng giết, ngườ́ mà bà đă
cứu mạng trước kia. Khi người này
lập mẹo t́m cách đẩy chồng ḿnh rơi
xuống tảng đá nơi bờ biển, một
vị thần thấy được và nói rằng bà
này khôn ngoan như đàn ông. Nhưng đúng ra th́
Phật hay sư tăng nói rằng không hề có
một sư chấp nhận trực tiếp nào về
hành động có liên quan đén sử dụng bạo
lực. Vua
Ấn Độ A Dục, Asoka, (268-239 trưóc TC)
được Phật tử vinh danh như một
tấm gương cho đạo đức xă hội
của Phật giáo, một phần v́ ông đề cao
bất bạo động. Trong khi thúc đẩy dân chúng
làm theo điều này và những nguyên tắc đạo
đức khác của Phật giáo, tự ông cũng
từ bỏ thói quen sử dụng bạo lực trong vương
quốc của ḿnh. Thật vậy, trong kinh Manusmrti
của Ấn Độ giáo nhà vua phải gây chiến
khi ông nghĩ là các thần dân đều đồng
ư đây là cách hay nhất để nhà vua mở
rộng uy quyền, nhưng kinh Mahàbhàrata nói không có
tội ác khi nhà vua giết kẻ thù. Trong
thời kỳ đầu tiên lúc trị v́, trước
khi quy y theo Phật giáo, Asoka đă chiếm vùng Kalinga,
nhưng pháp dụ ghi trên đá ở Kalinga có ghi
laị nổi kinh hoàng về sự tàn sát này đă gây
ra. Nhờ thế ông từ bỏ xâm lăng, mặc dù
ông vẫn c̣n là đứng đầu một vương
quốc hùng mạnh. Cho
dù vẫn c̣n nắm giử quân đội và trong
một chỉ dụ báo động cho dân vùng biên
giới gây xáo trộn, trong khi ông vẫn không thích
sử dụng quân đội để chống họ,
nếu họ cứ quấy phá, th́ trong trường
hợp cần thiết ông sẽ dùng bạo lực. Ông
giử mục đích mở rộng ảnh hưỏng
của vương quốc ḿnh, nhưng luôn t́m cách
gởi sứ giả của ḿnh đi để thu
phục bằng Chính Pháp của Phật. Ông muốn
mở rộng cách cai trị của ḿnh và thành lập
các liên minh. Một thí dụ nổi tiếng của
việc này là liên kết của ông với Sri Lanka, nơi
mà con của ông, cũng là sư Mahinda, truyền bá
Phật giáo theo h́nh thức Phật giáo Nguyên Thủy. Kinh
Đại Niết Bàn, Arya satyaka parivarta, có lẽ là
kinh Đại Thừa ảnh hưởng bởi
sắc dụ của vua A Dục, và từ đó
ảnh hưởng lan rộng đến Tây Tạng,
dạy rằng nhà lănh đạo liêm chính phải t́m
cách tránh chiến tranh bằng thương thuyết, xoa
dịu hay có những liên minh mạnh. Nếu phải
bảo vệ xứ sở th́ nhà vua phải t́m cách
chiến thằng kẻ thù chỉ với mục tiêu
bảo vệ dân ḿnh và luôn tâm niệm rằng đây
là như cầu bảo vệ mọi sinh mạng, không
quan tâm đến cá nhân và tài sản của ḿnh.
Bằng cách này nhà vua mới tránh qủa báo của
việc chém giết. Trong chiến tranh, nhà vua không
thể trút hết oán giận bằng cách đốt cháy
thành thị hay làng mạc, phá huỷ các kho chứa, cây
trái hay thu hoạch mùa màng, v́ đây là đây là tài
nguyên chung cho mọi sinh vật hữu t́nh để
sống, mà họ là người vô tội, kể
cả những vị thần địa phương
hay thú vật. *** Peter
Harvey, Giáo sư Phật học tại đại
học Sunderland, Anh quốc và là Biên tập viên cho
tạp chí Journal of Buddhist Ethics và Contemporary Studies in
Buddhism. Nguyên
tác bản dịch là một trích đoạn của
Chapter VI War and Peace, An Introduction to Buddhist Ethics, Cambridge
University Press, 2000, 239-285. Bản
dịch là một trích đoạn của Chương I
Chiến tranh và Hoà b́nh, trang 15-21 trong sách Quan Điểm
của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề
Hiện Đại do Ananda Viet Foundation xuất bản năm
2017. |