Ngày 30 tháng Tư 1975: Một cái nh́m mới TS Nguyễn Ngọc Tấn Tháng Tư 2009 |
Đă
gần 40 năm qua, người Việt Quốc-gia
gọi biến cố 30-4-1975 là ngày quốc-hận.
“Hận” này, theo tôi hiểu là “hận” mất nước.
Nhưng phong trào xét lại lịch-sử
Chiến-tranh Việt-nam (CTVN) khởi đầu từ
thập-niên cuối của Thế-kỷ 20 đă đánh
đổ những sai-lạc về thực-chất
của cuộc chiến do bộ máy tuyên-truyền
của Đảng CSVN và các thế lực
quốc-tế chủ-trương.[1]
Ngày nay có nhiều bằng-chứng cho thấy
biến-cố 30 tháng 4 năm 1975 chỉ là một khúc
quanh trong cuộc chiến quốc-cộng: Ngày
30-4-75 không những đă làm cho chính-nghĩa
quốc-gia trở nên sáng chói mà c̣n báo hiệu giai
đoạn mở đầu cho chiến thắng
cuối cùng của những người Việt-nam yêu-chuộng
tự-do chống lại chế-độ độc-tài
Cộng-sản và chủ-nghĩa Cộng-sản vô
thần, vô tổ-quốc và vô gia-đ́nh. I-Biến-cố
30 tháng 4 là ngày quốc-hận ? Tại
sao lại có biến-cố 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà
phe Cộng-sản Việt-nam tiến vào thủ-phủ
của người quốc-gia như chỗ không người?
Xin trả lời ngắn gọn là: V́
người Mỹ đă đi đến quyết định
là sự tiếp-tục tồn tại của một chính-quyền
quốc-gia trên bán đảo Đông-dương đă
trực-tiếp phương hại đến quyền
lợi và chính sách của Hoa-kỳ trong chiến-tranh
lạnh. Đến
nay có nhiều bằng chứng cụ-thể cho thấy
người Mỹ đă quyết tâm hủy-hoại
mọi cơ-hội chiến thắng Cộng-sản Hà-nội
của phe người Việt quốc-gia. Sol Sanders
một b́nh luận gia chính-trị quen thuộc
tiết-lộ: “Washington đă chiến-thắng trong
cuộc chiến tại Việt-nam cho đến khi Henry
Kissinger và nội-các Nixon trong giai-đoạn “détente”,
đă vận-động hậu-thuẫn tại
quốc-hội Mỹ và Moscow, nhằm cắt đứt
viện-trợ quân-sự cho Quân-lực VNCH sau khi đă
biến guồng máy chiến tranh này lệ-thuộc hoàn
toàn vào viện-trợ của Hoa-Kỳ.”[2]
Trong khi đó Robert F. Turner, cựu Giám-Đốc
của Center for National Security, tiết-lộ trên tờ Washington
Times rằng “Quốc-Hội
Hoa-kỳ đă hành động sai lầm v́ đă nghe
theo TNS Ted Kennedy (Massachusett) và Đảng Dân-chủ,
khiến chúng ta bị thất-bại bất ngờ
trong khi chiến thắng đă gần kề.”[3]
Thật ra đây chỉ là một cách chạy tội,
đổ lỗi qua lại. Các
nhà làm chính sách của Hoa-kỳ đă chủ-trương
rằng để cho Đảng CSVN cai-trị
Việt-nam, mối giao hảo giữa Hoa-kỳ và
Trung-quốc sẽ được hàn-gắn lại và
sẽ làm cán cân quân-b́nh lực lượng trong
chiến tranh lạnh nghiêng hẳn về phía
thế-giới tự-do. Peter Rodman, Phụ-Tá của TS
Kissinger đă nh́n nhận rằng “Nixon/Kissinger đă
bỏ Việt-nam để đổi lấy mối
giao-hảo Hoa-kỳ - Trung-quốc và sau đó dùng
Trung-quốc để chống lại Nga-sô.”[4]
Đặc biệt,
một tài liệu mật gồm 28,000 trang đă cho
thấy TS Kissinger, một nhà
làm chính-sách và cũng là một nhà thương-thuyết,
đă sắp đặt để quân-đội
Bắc-việt tiến vào chiếm miền Nam sau khi Ông
đưa quân Mỹ rút ra khỏi miền Nam.[5]
Như
vậy sự-thật về cuộc chiến
quốc-cộng trong giai đoạn 1954-1975 là quân-đội
quốc-gia không thua quân-đội cộng-sản.
Nhưng về mặt chính-trị, áp lực
mạnh mẽ của quốc-tế v́ muốn
đưa Đảng Cộng-Sản Việt-nam lên
cai-trị toàn bộ nước Việt-nam, người
Mỹ đă phá-hỏng mọi cơ hội bảo
vệ tổ-quốc Nam Việt-nam của phe người
quốc-gia. Để có thể tiếp-tục cuộc
chiến một mất một c̣n với ĐCSVN, ngày
30 tháng 4 năm 1975 phe người quốc-gia bị
bắt buộc phải tái-phối-trí chiến lược,
ĺa bỏ quê-hương. Chúng ta chưa mất nước
v́ những người tin tưởng vào chính nghĩa
quốc-gia vẫn c̣n đó, quê-hương vẫn c̣n
đó, đầu-năo lănh-đạo cuộc chiến
vẫn c̣n đó. Nguyễn
Ánh chạy qua Xiêm rồi trở về dựng lại
cơ-đồ. De Gaulle
cũng không để mất nước Pháp khi
phải chạy qua Anh. Như
vậy có nên gọi biến-cố 30-4-75 là ngày mất
nước không? 2- Ngày 30-4-1975: Ngày
“Ô-Nhục” của tổ-quốc Việt-nam? Kể
từ ngày 30-4-1975, ĐCSVN lên nắm chính-quyền,
mọi người dân Việt đă sống và
chứng-kiến tận mắt một giai-đoạn
lịch-sử đen tối nhục nhă chưa bao ǵơ
có trong lịch-sử dựng nước và giữ nước
của Ông cha. Đây là quan-điểm của những
người Việt đang sống ở Việt-nam,
của sinh-viên du-học, và của lớp trẻ
lớn lên ở hải-ngoại trở về
Việt-nam để kinh doanh. Nhà-văn
Trần-Như, người đang sống ở trong nước
nhận định về xă-hội Việt-nam dưới
sự cai-trị của ĐCSVN như sau: “Giặc
Tầu đô-hộ nước ta một ngàn năm không
ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước.
Giặc Pháp đô-hộ Việt-nam một trăm năm,
dân Việt vẫn là Việt-nam. Giặc Hồ mang
học thuyết cộng-sản vào cai-trị nước
ta mới có 60 năm mà dân đă bị lẫn lộn
căn cước và vong thân. Xă hội Việt-nam
từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời
nào suy đốn như thời Hồ.”[6]
Nói
một cách dễ-hiểu, NHỤC là v́ người dân
trên đất Việt hiện-ǵơ đang buộc
phải chối bỏ văn-hóa và tước đoạt
mất nhân-phẩm; họ đang phải sống như
một con vật v́ con vật không có văn-hóa và nhân
phẩm. C̣n tổ-quốc và đất đai đă
bị ĐCSVN vừa bán vừa dâng hiến cho kẻ
thù truyền kiếp của dân tộc là Trung-quốc. Nếu
“Văn-hóa c̣n dân-tộc c̣n”. Trong hơn 1000 năm
Tầu đô-hộ “không ai vong-thân, không ai
lẫn-lộn căn-cước” v́ phong tục
tập quán của Việt-nam sau lũy tre xanh vẫn
được duy-tŕ, dân chúng đă không bị
Tầu-hóa. Nhưng năm
1954 tại miền Bắc, ĐCSVN đă phá-hủy toàn
bộ lũy tre-xanh bao bọc hệ-thống làng-xă
tự-trị để thành-lập những nông-trường
tập-thể với máy cầy Liên-sô xây dựng xă
hội chủ-nghĩa. Trong đó mọi người vô-sản
ăn cùng, ngủ cùng, làm cùng. Lẫn lộn căn cước
là vậy. Vong thân v́ Cộng-sản coi con người
chỉ là công cụ sản-xuất bị tước
đoạt nhân-phẩm nên chỉ c̣n là con vật.
Đây là một lối-sống hoàn toàn xa-lạ đối
với nếp-sống Việt-nam. ĐCSVN đă
hủy-diệt văn hóa, lịch-sử, ngôn-ngữ cũng
như linh-hồn Việt-nam để giúp Trung-quốc
dễ bề nô-lệ hóa dân tộc. Văn-hóa mất
dân-tộc mất. Chúng ta “Nhục” v́ lịch-sử
oai-hùng đối-kháng giặc phương Bắc
của Ông-Cha đă bị kẻ nội-thù ĐCSVN “rước
voi về” xóa bỏ tất cả. Công
dân Việt-nam Hà-Sĩ-Phu tóm-tắt kết qủa công-tŕnh
xây-dựng Xă-Hội Chủ-Nghĩa của ĐCSVN như
sau: “Dân tộc phải đương đầu
với một cuộc tổng khủng hoảng nhân cách!
Xă hội đang lộn ngược do thang gía-trị
lộn ngược. Chủ-nghĩa vô hồn tạo ra
một khoảng trống ghê-rợn về văn-hóa, lư-tưởng
và nhân cách.”[7]
Một
sinh viên VN sang du-học tại Úc trong đợt đầu
tiên khi Việt-nam vừa mở-cửa đổi
mới, tâm-sự với tôi: “Chú ơi khi ra tới
ngoài này, chúng cháu không dám nhận ḿnh là người
Việt-nam nữa!” Chính hậu-qủa cai-trị
của một tầng lớp lănh đạo
thiển-cận giáo-điều đă làm sinh-viên này
thấy xấu-hổ v́ ḿnh là người của
một nước nghèo đói và chậm tiến
nhứt thế-giới. Những
cảm nhận này của các du-học-sinh đă
được Anderson Quách thấy tận mắt và
kể lại rất đầu đuôi xúc-tích. Anderson
là một cậu bé tị-nạn đến Mỹ lúc
mới 5 tuổi và trở lại Việt-nam làm ăn vào
tháng 10 năm 2007 với hy-vọng đầu-tư
để phát-triển đất nước. Tuy nhiên
sau 2 năm đắn đo t́m hiểu, Anderson mất
200,000 đô mà vẫn không thực hiện được
mục đích của ḿnh đành phải bỏ
cuộc trở về Mỹ. Anderson nhận xét, lănh
đạo Việt-nam hiện nay không những bất-tài
mà c̣n bất-tín và thiếu đạo-đức.
Hậu qủa là một xă-hội băng hoại
chờ đợi ngoại-nhân đến
tiếp-quản. Về Hồ-Chí-Minh, “Tôi
nhận ra rằng vị anh-hùng thời c̣n đi
học của tôi có rất nhiều bí mật xấu
xa mà chế-độ đă dùng mọi thủ-đoạn
để biến họ thành thần-thánh, giúp cho
họ gĩư vững địa vị và quyền hành.
Đọc kỹ tiểu sử của Hồ Chí Minh
sẽ t́m thấy một chính-trị-gia
qủy-quyệt, nhiều mờ ám, dù nh́n ở bất
cứ góc độ nào . . . Ông tự viết
tiểu-sử để ca-tụng ḿnh (Trần Dân Tiên),
không nh́n nhận cha-mẹ, cũng như 12 đứa
con rơi rớt từ các cuộc t́nh khắp
thế-giới, viết đơn cầu xin thực dân
Pháp với những lời tâng bốc trơ trẽn (lá
thơ gởi Quan Toàn Quyền Pháp năm 1912), làm
mật-vụ cho Nga, khoe là trọn đời độc-thân
để phục-vụ tổ-quốc trong khi có ít
nhất 3 người vợ. . . Chuyện Ông thủ-tiêu
không biết bao nhiêu là đối-thủ chính-trị có
thể hiểu được v́ Ông làm chính-trị
kiểu Cộng-sản, chỉ biết theo gương
bậc thầy như Stalin hay Mao.
Nhưng tôi thật khó chịu khi phải đi khắp
Việt-nam và nh́n những biểu-ngữ ca tụng
“tấm gương đạo-đức của Bác
Hồ”. Anderson
viết tiếp: “Sau
1 năm ở Việt-nam, tôi hiểu được
một sự thật căn bản của xă-hội:
Tất cả mọi con người, mọi con số
đều là gỉa-dối. Quan chức nói dối
để giữ quyền hành bổng lộc; doanh nhân
nói dối v́ quan chức đ̣i hỏi; người dân
nói dối v́ nói sự thật sẽ làm ḿnh đau-khổ
rồi c̣n bị công-an bắt. Nói dối trở thành
một hiện tượng tự-nhiên, như ăn
uống, không ai suy nghĩ thêm về khía cạnh đạo-đức
của hiện-tượng này.”[8] Ngoài
cái nhục không được làm người đúng
với phẩm gía con người ở ngay trên đất
nước của ḿnh, dân-tộc hiện nay c̣n
phải chịu cái nhục lớn nhất từ xưa
đến nay, đó là “hồn-thiêng sông-núi” đă
bị người cộng sản đặt lên “mâm”
để trước bàn thờ cúng “Bác Mao”. Thay v́
lănh-đạo đất nước bảo vệ
sự toàn-vẹn lănh-thổ, th́ ĐCSVN lại cúi-đầu
nhận làm “thái-thú” cho ĐCS Trung-quốc; họ
sợ mất Đảng hơn mất nước.[9]
Nhân
dân Việt-nam phản đối Trung-Cộng chiếm
Hoàng-Sa và Trường-Sa lại bị chính-quyền
của ḿnh đàn-áp tàn nhẫn. Đảng-viên
Phạm Đ́nh Trọng viết: “Ư
thức dân-tộc bị coi nhẹ đến đau ḷng
c̣n biểu hiện ra trong việc làm trong hành-xử
của nhà nước với dân. Thanh -niên sinh-viên
học-sinh tập họp trước sứ-quán
Trung-Hoa, ôn-ḥa phản đối Trung-Hoa sát nhập
quần-đảo Hoàng-sa, quần-đảo
Truờng-Sa vào lănh thổ Trung-Hoa. Đó là nền văn-minh
Lạc-Việt lên tiếng, là ư-thức dân tộc
Việt-nam lên tiếng! Nhà nước dùng công-cụ
bạo-lực trấn-áp tiếng nói chính đáng
của nền văn-minh Lạc-Việt, trấn-áp ư-thức
dân-tộc chính-đáng của nhân-dân . . .”[10]
Rồi
vào tháng 12, 2007, khi bị Hồ Cẩm Đào điện
thoại trách mắng về việc để sinh-viên
Việt-nam biểu-t́nh phản đối Trung-Cộng xâm
chiếm lănh-thổ, Tổng Bí-Thư Nông Đức
Mạnh liền thề-thốt rằng “V́
t́nh hữu-nghị đời-đời bền
vững với Trung-quốc, lănh đạo Việt-nam
sẵn sàng dâng-hiến tất cả.” Có
nghĩa là ĐCSVN đă sẵn-sàng làm nội-ứng
tay-sai biến Việt-nam thành một chư hầu
của Trung-quốc với những bước đi
cụ thể như: dâng hiến 789 cây-số vuông
đất-đai thuôc Cao-bằng và Lạng-sơn; bán
11,000 cây-số vuông trên biển và chủ-quyền
của hai quần-đảo Hoàng-sa và Trương-sa;
giao dự-án khai thác quặng “bo-xit” trên Tây-Nguyên cho
Tầu và 20000 công nhân người trung-quốc; cho phép
người trung-quốc tự do đi lại ở
Việt-nam từ Lạng-sơn đến mũi Cà-mâu
(không cần hộ chiếu). Nếu
qúi độc-gỉa chưa thấy rơ cái “nhục”
mà Trung-cộng cố t́nh gây ra cho dân Việt, tôi xin
nhắc lại mấy trường hợp sau đây. Dân
ta đánh-cá trong hải-phận Việt-nam bị
tầu Trung-cộng đuổi đi sau đó c̣n
bắn chết người và đánh ch́m tầu
của người Việt. Đặc biệt lúc
ấy chiến-hạm Việt-nam chỉ đứng nh́n
như không có chuyện ǵ xẩy ra. Sau đó
Trung-cộng nói đấy là sự thỏa thuận
chung.[11]
Vào ngày 29 tháng 4 năm 2008, khoảng 200 thanh niên
Trung-cộng mặc đồng-phục Olympic 2008 với
cờ quạt ngang nhiên kiêu hănh diễn-hành tại thành-phố
Hồ-Chí-Minh. Trước ṭa Đại-sứ
Trung-quốc ở Hà nội, có khoảng 30 thanh-niên
Trung-quốc biểu-t́nh hô khẩu-hiệu “Hoàng-sa và
Trường-sa là của Trung-quốc”; không có
chuyện ǵ xẩy ra. Nhưng khi sinh-viên Việt-nam
biểu t́nh chống Trung-cộng chiếm Hoàng-sa và Trường-sa
th́ lại bị nhà cầm quyền Việt-nam đàn-áp
bắt bớ. Không nhục sao? Mới
đây ĐCSVN c̣n cho dịch ra tiếng Việt
cuốn sách của Trung-Quốc, “Ma Chiến-Hữu”,
ca-ngợi quân-đội Trung-quốc anh-hùng trong
trận chiến Việt-Trung năm 1979. Sách dịch ra
tiếng Việt lập tức được cho
phổ biến khắp Việt-nam. Trong khi đó sách
Việt ca-ngợi anh-hùng VN và chống Trung-quốc
lại bị thâu-hồi? Báo-chí và dân-chúng không
được phép dùng chữ “Trung-cộng” để
chỉ “Trung-quốc”! Như vậy có nhục không? Bằng
chứng viện dẫn cho thấy biến-cố 30 tháng
4 năm 1975 đánh dấu ngày ĐCSVN đưa dân chúng
Việt-nam vào một cuộc sống ô-nhục, ngang
với loài vật. ĐCSVN lănh-đạo, xóa căn cước
Việt của người dân, đưa đất nước
vào ṿng nô-lệ Trung-cộng. Một chuyện chưa
từng xẩy ra trong lịch-sử nước
Việt. Nếu người dân Đức coi bức tường
Bá-Linh là bức tường “Ô-Nhục”, dân-chúng
Việt-nam phải gọi ngày
30-4 là ngày
“quốc-nhục” mới thật đầy-đủ
ư-nghĩa và đúng. 3-
Biến-cố 30-4-1975: Một
khúc quanh trong cuộc chiến quốc cộng Nghị-tŕnh
duy nhất và vô cùng cấp-bách của cộng-đồng
tị-nạn Việt-nam tại hải-ngoại hiện
ǵơ chính là “Cái nhục của chậm tiến và
cái họa nô-lệ Tầu-cộng” của Việt-nam
dưới sự cai-trị của ĐCSVN. Trong ư-nghĩa
này, ngày “quốc-nhục” tiếp-tục nhắc
nhở những ngừơi Việt-nam yêu-chuộng
tự-do rằng: Cuộc-chiến “quốc-cộng”
vẫn c̣n đang tiếp-diễn. Và hiện-nay cán-cân
quân b́nh của cuộc-chiến đă nghiêng hẳn
về phe người quốc-gia. Kể từ ngày 30 tháng
4 năm 1975, ĐCSVN đă để lộ ra bộ
mặt thật của họ khiến cho chính-nghĩa
của phe quốc-gia trở-nên mạnh-mẽ và sáng chói
hơn bao ǵơ hết. Đúng
như tướng Do Thái Ông Moshe Dayan nhận định
trong chuyến thăm viếng Nam Việt-nam: “Nếu
muốn thắng cộng-sản, Miền Nam phải thua
Cộng-sản trước đă.”
Trong khoảng từ 1930 đến 1975,
Cộng-sản Việt-nam đội lốt Chủ-nghĩa
Dân-tộc để đánh lừa người
Việt yêu nước và dư-luận thế-giới.
Nhưng từ 1975 đến nay họ đă hiện
nguyên h́nh là một đảng say mê quyền-lực,
một đảng cướp. Họ thi hành triệt
để giáo điều Mac-xit Lenin-nit để
củng cố quyền-lực và ăn cướp bóc-lột
của dân-chúng qua các chính-sách cải-cách ruộng
đất, kiểm-kê và đánh tư-sản, trăm
hoa đua nở, chế-độ lư-lịch “đào
tận gốc tróc tận rễ”, hợp tác xă
sản-xuất, nông-trường tập-thể, làm theo
chỉ-tiêu hưởng theo nhu cầu, vân vân . . . Cái
chính-nghĩa dân-tộc mà ĐCSVN dùng làm b́nh-phong
để lừa-gạt những người
Việt-nam yêu-nước từ trước đến
ǵơ đă bị chính lănh-tụ Hồ-Chí-Minh vô t́nh
đạp đổ. Trong lúc hấp hối Bác Hồ
đă thổ-lộ với các đồng-chí trong
Bộ Chính-Trị là ḿnh sẽ đi gặp “Bác
Stalin và Cụ Lênin!” “Dân-tộc” ǵ mà khi sắp
chết lại không muốn gặp Lê-Lợi, Hưng
Đạo là các anh-hùng dân tộc, hay Ông Bà tổ-tiên
của ḿnh mà lại đ̣i về với mấy người
Nga? V́ thế ĐCSVN đă mất cái thế nhân-dân.
Chính-quyền và cán bộ hiện nay đều chân
trong chân ngoài để tháo chạy v́ tổ-chức
của ĐCSVN đă hoàn toàn phân-hóa rữa nát,
mất định-hướng, nơm nớp lo sợ
diễn tiến ḥa-b́nh. Chính
lời trăn-trối của Hồ Chí Minh
phủ-nhận chính-nghĩa dân-tộc và trao cái
thế nhân-dân lại cho phe quốc-gia. Rồi “cái
họa nô-lệ Tầu và cái nhục không được
làm người” do hậu qủa cai-trị của
ĐCSVN từ 1975 đến nay đă trao thế
chủ-động trong cuộc chiến quốc-cộng
vào tay của phe người quốc-gia. Tóm lại
thực-tế “tự hủy-diệt” của phe
Cộng-sản đă mở đường đưa
phe quốc-gia vào thế thượng-phong và chiến
thắng cuối cùng. Thêm
vào đó, Cộng-đồng người Việt
hải-ngoại hiện nay như Cựu Đại-sứ
Lâm-Lễ-Trinh phân tích có một tiềm lực kinh
tế, chính-trị, giáo-dục và trí-tuệ hơn
hẳn tổ-chức chính-quyền của nhà nước
XHCN Việt-nam. Ví-dụ như tổng-sản-lượng
quốc-gia của Việt-nam vào năm 2001 là 14.5,
tỉ trong khi đó lợi-tức của 3 triệu người
tị-nạn là 15 tỉ.[12]
Số tiền của hải ngoại gởi về giúp
bà con hiện nay đă lên đến gần 7 tỉ
tức là xấp-xỉ 1/2 tổng sản lượng
của cả nước. Điều đáng lưu-ư là
trong số 3 triệu người này lại có một
lực lượng chuyên-viên lỗi-lạc trong mọi
lănh vực lên đến 300,000 người. Theo Ông Lâm
Lễ Trinh, đây là một con số thống kê chưa
từng thấy tại các nước ĐNA. Cuối
cùng, một điều rất hiển nhiên cần lưu-ư
đó là thời-cơ và
thế ngoại vận của phe người
Việt quốc-gia đang làm cho chế-độ độc-tài
CSVN tuyệt-vọng. Về thời cơ chẳng
hạn, cuộc cách mạng tin học và trào lưu
“toàn-cầu-hóa” hoàn toàn không thuận lợi cho các
chế-độ độc-tài. V́ thế tiến tŕnh
dân chủ-hóa Việt-nam sẽ không thể nào đảo
ngược được. Phe người Việt
quốc-gia, khởi đầu với nền Đệ-Nhất
Cộng-Ḥa tại miền Nam Việt-nam do Ông Ngô Đ́nh
Diệm lănh đạo, chủ-trương xây dựng
một chế-độ dân chủ đích-thực. “Xă-hội
khép kín” của ĐCSVN đă bị cuộc cách-mạng
tin-học và cơn-băo “toàn cầu hóa” mở tung ra
và c̣n đang tiếp-tục mở rộng hơn
nữa với những phong trào đ̣i dân-chủ ở
trong nước bắt tay làm đầu-cầu cho
hải-ngoại tiến vào mở trận-đánh
cuối-cùng: ĐCSVN gọi đó là “Diễn tiến
Ḥa-b́nh”. Bây giờ chính là thời cơ của phe yêu-chuộng
tự-do và độc-lập thực-sự của dân-tộc
v́ cả thế-giới hô hào dân-chủ-hóa. Thế
thượng phong của hải-ngoại về mặt
trận ngoại-giao lại càng rơ rệt hơn. Trong
thời chiến, Nam Việt-nam bị Hà-nội cấu
kết với các cường quốc để tạo
ra những phong-trào phản-chiến trên
thế-giới, vận-động mua chuộc đại-diện
dân-cử tại các quốc-hội trên thế-giới
và những cuộc trao đổi quyền-lợi đội
lốt các hiệp-định Geneve 1954 và Paris 1973. Ngày
nay chính người tị-nạn đang dùng “gậy
ông đập lưng ông” trả lại ĐCSVN
những ǵ họ đă làm trước đây. Các lănh
đạo và đại-diện ngoại-giao của
Việt-nam hiện nay mỗi khi thăm viếng để
xin-xỏ một điều ǵ ở các quốc-gia có
người tị-nạn, đều phải trốn
chui trốn nhủi không dám đi vào cửa chính. Người
Việt quốc-gia ở hải-ngoại hiện nay ngoài
các hoạt-động về kinh-tế xă-hội
kỹ-thuật giáo-dục, đă bắt đầu tích-cực
tham gia vào các cơ chế dân-cử sẵn-sàng dùng các
phương thức dân-chủ hiến định để
đập tan những hành động gian manh của
CSVN tại các quốc gia này. ĐCSVN đang ở vào
thế “tứ bề thọ địch”! 4- Thay lời kết Việc
ĐCSVN bán đất bán biển và làm tay sai cho
chủ-nghĩa bành-trướng của Trung-Cộng
đang đẩy mạnh và làm cho trận-chiến
cuối cùng giữa hai phe “quốc và cộng” bùng
nổ sớm hơn người ta tưởng. Nhờ
vào kỹ thuật tối tân của tin học,
những ǵ mà ĐCSVN cố t́nh dấu-diếm đă
được thế-giới bên ngoài, chính xác hơn
là cộng-đồng người Việt tự-do
hải ngoại, biết đến. Ví-dụ bí-mật
về vụ bán biển được gởi ra
quốc-ngoại từ email <tranmong . . . > ngày 20 tháng
8 năm 2008 gồm cả bản Anh-ngữ lẫn
Việt-ngữ và đă được Đại-Tá
Phạm Bá Hoa trích dẫn như sau: “. . .
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Chủ-tịch Trần Đức
Lương sang THCS gặp Chủ-tịch Giang Trạch Dân
và hai bên cùng kư hiệp ước. Theo đó VNCS bán
một phần biển cho THCS với gía 2,000,000,000
mỹ kim (2 tỉ), và THCS trả cho Việt-nam dưới
h́nh thức đầu-tư . . . . .”[13]
Nhờ đó, hải-ngoại mới hay biết sự
việc và đang vận dụng mọi tài nguyên
sẵn có để bổ túc tiếp cứu cho
những ǵ mà kẻ-sĩ trong nước đang
bị kềm-kẹp không thể phản-ứng
hữu-hiệu được.[14]
Một
cây viết trong Việt-nam (có lẽ cũng là 1 đảng
viên cao cấp) với bút-hiệu “Người Buôn Gío”
tung lên “net” bài viết báo động mất nước.
Ông cho biết v́ những khó-khăn dưới
chế-độ CS, kẻ-sĩ đành bó tay, không
thể làm tṛn sứ mạng “thất-phu hữu-trách”.
Theo Ông, việc ĐCSVN gạt bỏ mọi can-ngăn
tự quyết-định để THCS khai thác
quặng bo-xit trên Tây-Nguyên chính là muốn mở
đường cho người Tầu đào “mồ
chôn nước Việt”. Ông cho rằng vấn đề
Hoàng-sa và Trường-Sa rồi cũng thế: “Nếu
Tây-Nguyên đă là phần của người
Trung-quốc làm ăn, th́ việc tranh căi về Hoàng sa
- Trường sa có thể đoán kết-qủa là vô-nghĩa.
Không phải ngẫu nhiên mà khi các nhà sử-học
Bắc-kinh được tài-trợ quy-mô, bài bản
để sưu-tập tài-liệu hay chế-biến
lịch-sử để chứng minh chủ-quyền các
hải-đảo đó là thuộc về họ. Chính-phủ
Việt-nam vẫn b́nh chân như vại, một số
nhà tâm-huyết do điều kiện hạn-chế
chỉ sưu-tầm t́m hiểu trong khả năng
của ḿnh, kinh phí tự-túc do bản thân bỏ ra.
Thậm chí việc Hoàng sa-Trường sa không
được báo chí nhắc đến là khó khăn
cho những trí-thức và học-gỉa trong qúa-tŕnh t́m
ṭi tài-liệu, vô h́nh chung biến hai quần-đảo
này thành đề tài bí-mật không được bàn
tán công khai.”[15] Nhờ
chủ-trương tài-trợ quy mô của Bắc-kinh
cho các nhà sử-học, THCS đă có được bài
bản để hỗ-trợ về mặt công-pháp
cho âm mưu bành-trướng của họ tại
biển Đông. Ví-dụ họ sửa lịch-sử,
viết sách nói rằng Hoàng-sa Trường-sa là
của Trung-quốc rồi đưa vào trường
học để dậy cho học-sinh Việt-nam;
họ vẽ ra bản đồ lănh-hải 12 hải-lư
để bao gồm các quần đảo nói trên;
họ đặt ra tên mới cho hai quần đảo
này là Huyện Tam-sa và thuộc về tỉnh
Hải-nam của Trung-quốc; họ xây cất các
hạ-tầng cơ-sở kể cả phi-đạo và
hải-cảng; họ đem những giống cây
lục địa ra và trồng ở đó; quân-đội
cũng được điều động ra đồn
trú. Về mặt tuyên-truyền họ bắt đầu
lên-tiếng tuyên bố Chủ-quyền của
Trung-quốc trên các ḥn-đảo này; họ cho công
bố bản-đồ; cho người biểu-t́nh
ủng-hộ; ra lệnh cho ĐCSVN bịt miệng
những người nói ngược lại. Ví-dụ
như “Văn-thư đề ngày 7-12-07 cấm sinh-viên
biểu-t́nh của Phó Hiệu-trưởng Đại-học
Công-nghệ Hà-nội, Ông Hà Quang Thụy, Bí Thư
Đảng-ủy . . . . Văn thư đó c̣n đ̣i các
thủ-trưởng phải góp-phần vào việc ngăn-chận
biểu-t́nh.”[16] Báo-chí
hải-ngoại và “internet” là một nguồn thông-tin
dồi-dào về các tin tức liên-quan đến cái xă-hội
bị bưng-bít ở Việt-nam. Tuy-nhiên họ không
được đào-tạo để làm những công-việc
bài-bản quy-mô như các học-gỉa và sử-gia
Trung-quốc đă làm để phục-vụ cho âm-mưu
bành-trướng của ĐCSTQ chiếm đoạt Hoàng-sa
và Trường-sa của Việt-nam. Đây là một
vấn đề lớn-lao v́ nó liên-quan đến
cuộc tranh-chấp quyền lợi giữa hai
quốc-gia. Nếu hai bên không thể giàn-xếp
ổn-thỏa bằng con đường ngoại-giao,
vụ-việc sẽ phải được
giải-quyết tại ṭa-án quốc-tế. V́ thế
để có thể lập được một
hồ-sơ pháp-lư cho một vụ án quốc-tế là
chuyện của những chuyên-gia công-pháp
quốc-tế, những nhà thương-thuyết
ngoại-giao lăo-thành, những sử-gia học-gỉa
uyên-thâm, mới mong thực-hiện được
một căn bản pháp-lư vững-chắc để
đánh bại đối-phương. Ngoài kiến
thức chuyên-môn c̣n phải có tài-nguyên dồi-dào và
thời-gian để thực-hiện. Xin lấy một
ví-dụ, Trung-quốc công-bố một bản-đồ
trong đó bao-gồm hai quần-đảo tranh chấp.
Cùng lúc đó họ trưng bầy h́nh ảnh khai
quật được một số đồ-gốm
đời nhà Minh trên đảo Trường-sa
chẳng hạn. Muốn căi lại họ chúng ta
phải có đủ bằng chứng là người
Việt-nam xuất hiện tại đây trước
đời Minh. Để
đáp-ứng nhu-cầu này, vào khoảng giữa năm
1995 một tổ-chức đă được thành-lập
tại hải-ngoại với cái tên là Ủy-Ban
Bảo-Vệ Sự Vẹn-Toàn Lănh-Thổ (BVSVTLT). V́
nhu cầu đ̣i-hỏi, năm 2008 tổ-chức
phải lập thêm một đơn vị đặc-trách
về vấn-đề Hoàng-sa và Trường-sa tên là
Ủy-Ban về Hoàng-sa và Trường-sa. Ủy-Ban
BVSVTLT gồm các luật-gia, các gíao-sư về công-pháp,
các sử-gia và học-gỉa uyên-bác. Họ đang
hy-sinh đáp lại tiếng kêu cứu của núi-sông
làm tṛn trách nhiệm “thất-phu hữu-trách”. Người
sáng lập ra tổ-chức này là một Ông ǵa 73
tuổi. Trước đây, ở Việt-nam, Ông là
Phụ-tá Khoa-Trưởng Luật-khoa, Giáo-sư chính-trị
và công-pháp. Sau 1975 là học-gỉa tại Hoover
Institute, nghiên-cứu về “Cách-mạng, Chiến-tranh
và Ḥa-b́nh, Đồng Giám-đốc Dự-án Oral Life
History tại Viện Nghiên-cứu Đông Á Đại-học
U.C. Berkeley, California. Thành-qủa
mà Ủy-ban này đă thực-hiện được
trong năm 2008 là một Bạch-Thư về Hoàng-sa và
Trường-Sa. Và cũng trong năm 2008 này họ đă
hoàn-tất được một hồ-sơ pháp-lư
về Hoàng-sa và Trường-sa, sau 13 năm dài nghiên-cứu
sưu-tầm. Hồ-sơ này sẽ giúp cho chính-quyền
hậu cộng-sản của Việt-nam đưa
vấn-đề tranh-chấp chủ-quyền trên hai
quần-đảo Hoàng sa và Trường sa giữa
Việt-nam và Trung-quốc ra trước ṭa-án
quốc-tế. Hiện
nay Ông đang dùng hết th́ ǵơ hưu-dưỡng
đi khắp năm châu để diễn-thuyết cho
đồng hương và “giáo-dục” các nhà làm chính-sách
ở các nước sở tại về những
việc phi-pháp mà ĐCSVN đang tiếp tay thực
hiện âm-mưu bành-trướng của Trung-Cộng,
trong đó có vụ Hoàng-sa Trường-sa và
hậu-qủa của nó. Ông ǵa đó chính là Giáo-sư
Tiến-sĩ Nguyễn Văn Canh. Đây
là một vấn-đề lớn có liên-quan đến
lợi-ích của toàn dân toàn quân, vượt lên trên
lợi-ích của các phe phái cho nên những buổi nói
chuyện của GS Nguyển Văn Canh đă được
đồng-hương khắp nơi trên
thế-giới hân-hoan đón-nhận. Ngoài ra sự ra
đời của Ủy-ban BVSVTLT là sự lên tiếng
của hải-ngoại đáp-lại lời kêu cứu
của thức-giả và dân-chúng ở trong nước.
Phải chăng đây là một sơi dây nối
kết trong và ngoài nước và mọi thành-phần
người Việt-nam yêu nước lại với
nhau? Theo tôi, chính cái “nhục nô-lệ và họa mất-nước
mà ĐCSVN đă gây ra đă khiến hưng-vận
của nước Việt-nam tái xuất-hiện. Nên gọi ngày 30-4-75 là ngày quốc-hận hay là ngày quốc-nhục? Có một điều chắc chắn đó là ngày đánh dấu giai đọan mở đầu chiến-thắng cuối-cùng của người Việt không cộng-sản. [1] Arthur Herman, “The Lies of TeT”, Feb 6, 2008, solsanders@cox.net Herman b́nh-luận về tai-hại do hậu-qủa của những bài báo của các kư gỉa Mỹ đă bóp méo sự thật về trận Mậu-thân như sau: “Media misreportimg of Tet passed into our collective memory. That picture gave anti-war activists an unwarranted credibility that persists today in Congress . . . and in truth the war in Vietnam was lost on the propaganda front, in great measure due to the press pervasive is reporting of the clear US victory at Tet as a defeat.” [2] Sol Sanders, World Tribune, 22 June, 2006. Washington had won the war there until H. Kissinger and the Nixon Administration sought favour with the Congressional critics and Moscow in the ‘Era of Détente’ and cut off military aid after we had created a South Vietnamese Army totally dependent on American logistics.” [3]
Robert F. Turner, “Lesson for [4]
Peter Rodman and William Shawcross, “The Defeated’s Killing
Field”, New York Times, June 7,
2007. “The Nixon/Kissinger had abandoned [5]
Memos For Kissinger, Edited by William
Burr (National Security Council), [6]
Trần-Như, 1-1-2007, “Tại sao Giặc Hồ và
đồng đảng triệt-hạ các di-tích
lịch-sử và văn-hóa dân-tộc?”, Centre for
Vietnamese studies, Dr Nguyễn Văn Canh, [7] Hà Sĩ Phu, “Đôi điều suy-nghĩ của một công-dân”. [8]
[9] GS Nguyễn Văn Canh, GS Canh dung chữ “thái-thú” trong buổi nói chuyện với anh em cựu Sĩ-quan Cảnh-sát tại Virginia, USA. [10] Phạm Đ́nh Trọng, “Thư Ngỏ của một Đảng Viên ĐCS gởi Thủ-Tướng CPVN”, Việt-Luận, số 2342, ngày 13-3-2009, tr.52. Ông viết Bàng-Phong Đặng văn Âu, “Đem Tâm-T́nh Viết Lịch-Sử”, 20-01-2009. Ông viết thơ cho người Anh tên Đang văn Việt, Con Hùm Xám đường 4, theo Việt-Minh. [11] Tháng 7 năm 2007. [12] Lâm Lễ Trinh, 2008, “Cộng-Đồng Hải-Ngoại Nghĩ Ǵ? Làm Ǵ?”, Việt-Luận số 2301, 26 tháng 9 năm 2008, tr. 42. [13] Phạm Bá Hoa, “Cộng-sản Việt-nam - Tội bán đất bán biển”, Việt-Luận, số 2311, ngày 31 tháng 10 năm 2008, tr.42. [14] Bài phân tích này giải dáp một phần nào nỗi ưu-tư của Ông Lâm-Lễ-Trinh: “Tiếc thay đến nay các nguồn tài lực trên đây không được tận-dụng như những lực-lượng hạt nhân để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân-chủ hóa đất nước. Lư do là v́ thiếu tổ-chức. Thiếu tổ-chức v́ không có đoàn kết. Có đoàn kết mới có lănh-đạo, có lập-trường, có kỷ-luật để tiến đến kết qủa hầu gây tin tưởng quốc-nội và quốc-tế.” [15] Người Buôn Gío, “Chủ-Trương Lớn hay mồ chôn đất-nước”, Việt-Luận, số 2342, 13-3-2009, tr.49. [16] Bạch-Thư của Ủy-ban Bảo-vệ Sự Vẹn-Toàn Lănh-thổ, Ủy-ban Hoàng-sa Trường-sa, tr. 9. |