Nhân dịp 42 năm ngày đau buồn của đất
nước, ta thử xem lại một góc cạnh
của chuyện cũ.
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có
cuộc chiến nào gây tranh căi như cuộc chiến
VN, từ nguyên nhân, đến diễn tiến, hậu
quả,... Đọc cả trăm cuốn sách th́
sẽ thấy cả trăm luận cứ, chẳng ai
đồng ư với ai. Mà tranh căi mạnh nhất dĩ
nhiên là vấn đề trách nhiệm. Ai chịu trách
nhiệm khơi mào, ai chịu trách nhiệm chấm
dứt chiến tranh?
Ở đây, ta chỉ nói từ phiá “ta”, tức là
từ phiá VNCH và đồng minh thôi. Chứ dưới
góc nh́n của CSVN th́ mọi chuyện rơ như ban ngày:
tất cả là lỗi “đế quốc Mỹ và
đám tay sai ngụy quyền”, nói chuyện với
đầu gối có ư nghiă hơn.
Nói về khơi mào chiến tranh th́ có vẻ quá bao quát.
Ta đang nói về chiến tranh nào? Nh́n gần th́
cuộc chiến bắt đầu tháng Chạp năm
1960 khi CSBV đẻ ra cái quái thai Mặt Trận
Giải Phóng để thôn tính Miền Nam. Nh́n xa hơn
một chút th́ cuộc chiến bắt đầu tháng
Chạp năm 1946 khi Pháp đánh Việt Minh (VM) tại
Hải Pḥng đưa đến cuộc chiến dành
độc lập của VM. Hội nghị Geneve và vĩ
tuyến 17 chỉ là cuộc hưu chiến ngắn. Nh́n
xa hơn nữa th́ phải nói cuộc chiến bắt
đầu thời Phan Thanh Giản khi Pháp khởi quân
chiếm VN, nẩy sinh ra các phong trào kháng chiến
chống Pháp bằng vũ lực, liên tục cho đến
thời Đề Thám, Phan Đ́nh Phùng,... rồi các
phong trào Việt Quốc, Việt Cách và Việt Minh.
Thực tế lịch sử là cả ba khởi điểm
trên đều khó tách riêng ra được. Nếu Pháp
không xâm chiếm VN th́ đă không có các cuộc kháng
chiến, có thể đă không có phong trào VM, đă không
có chia đôi đất nước, đă không có
cuộc chiến 60, và đă không có ngày 30-4.
Điều đáng suy gẫm là cho dù Pháp không đô
hộ VN th́ cũng chưa chắc là đă không có
hiện tượng CSVN, và đă không có cuộc
chiến quốc-cộng. Phong trào quốc tế CS
với chủ trương sơn đỏ cả
thế giới, chắc chắn đă không bỏ qua nước
VN ta. Và nếu chúng đến VN, ai biết được
phản ứng của dân VN đă như thế nào? Có
sẵn sàng chấp nhận chế độ CS không hay
cũng đă có một cuộc chiến huynh đệ
tương tàn giữa phe CS và phe không chấp nhận
CS?
Bàn đến đây th́ ta lại thấy lộ ra
một vấn đề khác: cuộc chiến dai
dẳng hiển nhiên là khởi đi từ tinh thần
ái quốc dành độc lập, đă biến thể
thành cuộc chiến ư thức hệ quốc-cộng.
Như vậy th́ biến thể từ lúc nào?
Hồ bắt đầu ra tay bắt cóc và thủ tiêu
các lănh tụ Việt Quốc và Việt Cách cuối
1945, chỉ vài tháng sau khi chính phủ liên hiệp
được thành lập. Nhưng khi đó hệ
thống thông tin c̣n cực kỳ thô sơ, không có TV,
báo chí, internet như ngày nay, trong khi VM ém nhẹm nên
tuyệt đại đa số dân ta không hay biết ǵ
về việc VM tráo trở. Cái gian ư của Hồ là
dụ dỗ Chu Bá Phượng ở lại nội các
để thiên hạ tưởng VNQDĐ vẫn
hợp tác với VM. Do đó, khi Pháp đánh VM và VM hô
hào tiêu thổ kháng chiến th́ cả nước hưởng
ứng ngay.
Do đó, ta có thể nói cuộc chiến năm 46
khởi đi như là cuộc chiến dành độc
lập, có khá nhiều người không CS tham gia để
đánh Pháp. Cuộc chiến này chuyển hướng
hẳn qua cuộc chiến quốc-cộng từ
những năm 49-50, sau khi Mao chiếm được
cả lục địa Trung Hoa, tràn qua VN, một
mặt giúp Hồ đánh Pháp, mặt khác cũng giúp
Hồ tung ra nhiều chính sách (cải cách ruộng
đất, thuế má,...) nhằm cộng sản hoá
những vùng do VM chiếm giữ khiến rất
nhiều người không CS bỏ chiến khu, “về
thành”, trong khi Pháp bắt đầu trả độc
lập cho VN và tướng De Lattre thành lập quân
đội quốc gia VN, từng bước trao
quyền cho sĩ quan VN.
Một cách tóm gọn, có thể nói trách nhiệm xa gây
ra cuộc chiến tại VN chính là thực dân Pháp,
trong khi trách nhiệm gần hơn là cộng sản
quốc tế. Cả hai thế lực đều mang
mộng thôn tính nước ta và gặp phải sự
chống đối của dân ta, đưa đến
chiến tranh triền miên trên đất nước ta.
Có một cách khác để bàn về trách nhiệm:
đó là nh́n lại những cơ hội tránh
chiến tranh.
VN đă có một cơ hội rất lớn có
được độc lập và vẹn toàn lănh
thổ trong ḥa b́nh ngay sau Thế Chiến II, khi TT
Roosevelt đ̣i hỏi các cường quốc Âu Châu
trao trả độc lập cho các thuộc địa.
Ư kiến trên đáng tiếc thay đă không thành h́nh
sau khi TT Roosevelt qua đời và khi tướng De Gaulle
ngoan cố không chấp nhận nhả Đông Dương,
ép TT Truman phải giúp Pháp trở lại Đông Dương,
như cái giá phải trả để Pháp tham gia vào
khối liên minh Mỹ-Tây Âu (NATO) chống sự bành trướng
của CS Liên Xô tại Âu Châu. TT Truman đánh giá đồng
minh với Âu Châu để cản CS Liên Xô quan
trọng hơn độc lập của các thuộc
địa. Mỹ quyết định giúp Pháp trở
lại Đông Dương. Làm mất đi một cơ
hội lớn để VN được độc
lập và tránh chiến tranh.
Dĩ nhiên nếu trường hợp đó xẩy ra
th́ khi đó, 1945-46, cũng là lúc VM với Hồ Chí
Minh đang nắm quyền, và cả nước VN đă
được “độc lập” dưới
chế độ CS rồi, cho dù dưới danh nghiă chính
phủ liên hiệp với sự hiện diện
của Việt Cách, Việt Quốc, và vài nhân vật
độc lập không đảng phái trong nội các.
Câu hỏi là trong trường hợp đó, Hồ có
cộng sản hoá VN không, có c̣n chấp nhận chính
phủ liên hiệp không, và người quốc gia có
tiếp tục chấp nhận Hồ không? Hay là sẽ
có ngay nội chiến quốc-cộng? Nh́n vào việc
Hồ thanh toán chính phủ liên hiệp cuối năm
45 th́ câu trả lời quá rơ.
Dù sao th́ trách nhiệm của tướng De Gaulle cũng
thật lớn khi ông nhất quyết không chịu
nhả Đông Dương khi đó.
Một cơ hội tránh chiến tranh, bảo toàn lănh
thổ, và đạt được độc lập
nữa là trận chiến Điện Biên Phủ. Khi
đó VM đánh ván bài xả láng, tung gần hết
lực lượng ra để hạ Pháp ngay khi
Hội Nghị Geneve đang diễn tiến để t́m
giải pháp cho Đông Dương, với sự giúp
đỡ mạnh của Mao. Khi VM đe dọa Điện
Biên Phủ, Pháp đă yêu cầu Mỹ giúp, trải
thảm bom tiêu diệt lực lượng CS khi đó
đang tập trung quanh thung lũng Điện Biên, nhưng
TT Eisenhower từ chối can dự nếu không có vài “đồng
minh” tham gia cùng, chủ yếu là Anh Quốc. Nhưng
Anh là bạn thực dân của Pháp, sợ Mỹ
nhẩy vào sẽ diệt cả CS lẫn Pháp và tóm thâu
VN vào ảnh hưởng của Mỹ, và vẫn
bực ḿnh v́ bị Mỹ ép làm mất các thuộc
điạ lớn như Ấn Độ, Miến Điện,
và vài nước Phi Châu, không chịu can thiệp cùng
với Mỹ.
Việc Mỹ-Anh không can thiệp đưa đến
chiến thắng cho VM tại Điện Biên Phủ
rồi tại Geneve luôn, tặng cho CSVN cái tiếng chính
danh đuổi được thực dân Pháp, ít
nhất trên một nửa nước và củng cố
sức mạnh của CSVN cho đến khi họ
trở thành đối thủ tay đôi của Mỹ
ít năm sau.
Nếu như Mỹ nhẩy vào cuộc khi đó,
biết đâu CSVN đă bị tiêu diệt ngay tại
Điện Biên Phủ và giải pháp Bảo Đại
với Quốc Gia VN đă trường tồn? Tức
là VN đă được độc lập mà không có
cuộc chiến quốc-cộng luôn.
Trách nhiệm này phải nói là của chính TT Eisenhower,
một ông tướng giỏi về quân sự, nhưng
không có viễn kiến chính trị [trong Thế
Chiến II, đă từng dừng quân sau khi vượt
biên giới Pháp-Đức, nhường cho Liên Xô
chiếm Ba Lan, Tiệp, Đông Đức và Bá Linh,
đưa đến t́nh trạng CS hóa một nửa
Âu Châu sau đó].
Bây giờ ta nh́n qua giai đoạn cuối của
cuộc chiến, ai chịu trách nhiệm để VNCH
lọt vào tay CSBV?
Cho đến nay, ngay cả trong khối người
Việt tỵ nạn, đă có không ít người
vẫn mạnh miệng tố cáo TT Nixon cùng với
Ngoại Trưởng Kissinger, thông đồng bán đứng
Nam VN cho Trung Cộng, để tập trung nỗ
lực cứu Do Thái.
Lập luận này chỉ là cái lư chạy tội
của đảng Dân Chủ Mỹ, không hơn không kém,
mà nhiều người vô t́nh hay cố t́nh đă
chấp nhận và lập lại.
Hiển nhiên là đảng DC lúc đầu rất hăng
say trong lư tưởng bảo vệ tự do, dân
chủ, nhân quyền, thích can thiệp vào chuyện thiên
hạ, làm người hùng cứu nhân độ
thế. TT Kennedy trong diễn văn nhậm chức để
đời đă nói rất hùng hồn là nước
Mỹ “sẽ trả bất cứ giá nào, chịu
bất cứ gánh nặng nào, nhận bất cứ khó
khăn nào, để hỗ trợ tất cả các nước
bạn, chống lại tất cả kẻ thù, để
bảo đảm sự sinh tồn và thành công của
tự do”. Nổ lớn hơn kho đạn Biên Ḥa.
TT Johnson đă tiếp nối con đường đó
sau khi TT Kennedy bị ám sát. Cho đến tháng Tám 1964,
TT Johnson vẫn c̣n được hậu thuẫn
rất mạnh khi nghị quyết Vịnh Bắc
Việt, Tonkin Gulf Resolution, gần như khoán trắng
cho TT Johnson đánh Bắc Việt, đă được
biểu quyết với tỷ lệ phiếu 416-0
tại Hạ Viện và 88-2 tại Thượng
Viện.
Nhưng cái nh́n của dân Mỹ về chiến tranh VN
bắt đầu chuyển hướng khi cuộc
chiến kéo dài quá lâu v́ những sai lầm và thất
bại chính trị và quân sự của Mỹ, và khi các
phong trào chống sự tham chiến của Mỹ
nổi lên mạnh từ những năm 67-68. Dân Mỹ
mất kiên nhẫn, kinh hăi trước những
cảnh máu lửa chết chóc của chiến tranh
được thấy trong mỗi bữa ăn gia đ́nh
trên TV, đau buồn khi nh́n thấy con số cả
chục ngàn thanh niên về Mỹ trong quan tài phủ
cờ, và hàng trăm ngàn thanh niên khác giải ngủ
trong t́nh trạng què cụt trong khi viễn ảnh hoà b́nh
mù tịt, cũng như bị lay chuyển bởi các xách
động gọi là “phản chiến” của
truyền thông và giới trí thức cấp tiến thiên
tả, được cổ vơ và điều khiển
thẳng từ Mạc Tư Khoa và Hà Nội.
Trong khi đảng CH c̣n cầm cự, muốn giúp VNCH
th́ đảng DC bắt đầu tháo chạy, khi trong
cuộc bầu tổng thống năm 1968, các ứng viên
“phản chiến” đe dọa nặng nề TT
Johnson, đến độ ông phải bỏ cuộc,
không ra tranh cử nữa. Phe “phản chiến”
thất bại, cựu PTT Nixon vào Ṭa Bạch Ốc, nhưng
đảng DC chiếm đa số tại cả Thượng
Viện lẫn Hạ Viện, với sự đắc
cử của hàng loạt dân biểu và nghị sĩ
“phản chiến”.
TT Nixon thuộc loại diều hâu, nhưng bị áp
lực nặng phải rút ra khỏi Nam VN. Dù vậy, ông
không chấp nhận rút ra theo kiểu phe DC đ̣i
hỏi, tức là rút ra chỉ với một điều
kiện duy nhất là mang các tù binh Mỹ về nước,
c̣n số phận Nam VN ra sao th́ tuyệt đối không
thắc mắc.
Trong suốt thời gian nắm quyền, ông đă
gặp phải chống đối tuyệt đối
của phe đối lập DC và TTDC thiên tả
suốt ngày bôi bác miền Nam và ca tụng VC, chưa
kể hàng vạn người xuống đường
biểu t́nh liên tục cả mấy năm trời.
Chỉ trong nhiệm kỳ đầu, TT Nixon đă
bị Hạ Viện DC biểu quyết hơn 80
lần, trung b́nh 3 tuần một lần trong suốt
bốn năm, đ̣i Mỹ chấm dứt can dự vào
cuộc chiến.
Tháng Chạp 1969, Thượng Viện DC thông qua
luật Church-Cooper cấm triệt mọi hoạt động
quân sự trên lănh thổ Lào. Đường ṃn
Hồ Chí Minh được các nghị sĩ DC Mỹ
bảo đảm an toàn tuyệt đối. Trong
chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971, khi CSBV phản công
với ít nhất 5 sư đoàn [binh đoàn 70, sư
đoàn 304, 308, 320, và 2], trọng pháo và thiết giáp,
chống lại vài tiểu đoàn dù VNCH bảo vệ
cuộc triệt thoái về nước, quân Mỹ án
binh bất động bên này biên giới, chỉ
hỗ trợ pháo binh lai rai v́ bị trói tay bởi
luật Church-Cooper. Năm 1974, VNCH bất lực nh́n CSBV
chuyển quân và súng đạn ào ạt vào Nam VN qua
đường ṃn HCM. TT Nixon muốn đánh bom, nhưng
bị vướng x́nh lầy Watergate, không đủ
hậu thuẫn chính trị để vượt qua
luật Church-Cooper. “Đương ṃn” đă thành xa
lộ nhờ các nghị sĩ DC Mỹ.
Tháng 6, 1970, Thượng Viện DC thông qua một tu chính
Church-Cooper cấm chính quyền Nixon không được
chi một đồng nào cho cuộc chiến tại Căm-Pu-Chia,
cấm đánh bom xứ này luôn. Đến phiên các
mật khu VC trên đất Căm-Pu-Chia được
Thượng Viện DC Mỹ bảo đảm an toàn
tuyệt đối. VC di chuyển bộ tư lệnh
từ “R” qua Căm–Pu-Chia.
Năm 1972, vẫn nghị sĩ DC Frank Church ra dự
luật cấm mọi chi tiêu liên quan đến
chiến tranh tại cả vùng Đông Nam Á, ngoại
trừ trong mục đích rút quân. Nhưng may mắn
cho VNCH, quốc hội không đạt được
đồng thuận, nên dự luật này không thi hành
được.
Một năm sau, 1973, lấy cớ Hiệp Định
Paris đă kư, cũng TNS Church lại cho thông qua luật
mới xác nhận cắt hết mọi viện trợ
quân sự cho Đông Nam Á. Lần này được
Hạ Viện DC thông qua luôn. Và được thi hành.
Cũng năm 1973, quốc hội thông qua War Power Act,
Quyền Tham Chiến, bắt tổng thống phải
xin phép quốc hội nếu tham gia bất cứ
cuộc chiến nào quá ba tháng.
Ông Frank Church, nghị sĩ DC của Idaho, là người
có trách nhiệm lớn nhất trong việc giết Nam
VN.
Tháng Ba năm 1975, khi VC bắt đầu ào ào đổ
quân dọc miền Trung, tiến về Sàig̣n, quốc
hội DC bác đơn của TT Ford xin tháo khoán
khẩn cấp 700 triệu viện trợ quân sự
đă được phê chuẩn từ lâu nhưng chưa
xuất quỹ. Tháng Tư năm đó, khi VC gơ cửa
Sàig̣n, quốc hội DC cũng bác luôn đơn xin
viện trợ khẩn cấp 300 triệu để tăng
cường bảo vệ thủ đô.
Nh́n vào diễn tiến trên, với các nỗ lực không
ngừng nghỉ của khối dân cử DC để
ép từ TT Johnson đến TT Nixon rồi TT Ford phải
chấm dứt sự can dự của Mỹ vào
cuộc chiến tại Nam VN bằng cách cắt
tiền, ra luật cấm đoán đủ chuyện, làm
sao có thể nói TT Nixon là người chịu trách
nhiệm về việc mất VNCH? Điều ngạc
nhiên đáng nói là việc ông đă cầm cự dai
dẳng được 4 năm, vớt vát đến cùng,
trước khi kư Hiệp Định Paris.
Trên phương diện ngoại giao, sách lược
của ông là làm sao tạo được chia rẽ
trong khối CS quốc tế giữa Liên Xô và Trung
Cộng, để giảm hậu thuẫn của
họ đối với CSBV, hậu thuẫn tinh
thần cũng như tiền bạc và súng đạn,
rồi đích thân ông đi nói chuyện trực
tiếp với cả hai đối thủ để t́m
giải pháp cho cuộc chiến.
Có nghiă là những nỗ lực của Kissinger-Nixon khi
móc nối với Mạc Tư Khoa và nhất là Bắc
Kinh, phải nói là để t́m cách vớt vát, gỡ
gạc được bao nhiêu hay bấy nhiêu trước
áp lực của khối phản chiến và quốc
hội DC, chứ không phải là chuyện đi đêm
để bán đứng Nam VN cho TC.
Khi VNCH rơi vào tay CSBV, hàng triệu người dân
miền Nam bỏ phiếu bằng chân trốn chạy
CS, cản trở và gây rối loạn các cuộc điều
quân của các tướng Phú và Trưởng, trong khi
VC thẳng tay bắn đại bác vào cả dân
lẫn quân ta, đưa đến hàng trăm ngàn người
chết trong các cuộc trốn chạy quân CSBV từ
Cao Nguyên và miền Trung. Ta thua. Sau 30-4, hàng trăm ngàn
người bị đi tù cải tạo, hàng trăm
ngàn người khác chết trên Biển Đông. Phe
cấp tiến DC và TTDC trắng mắt, t́m cách
chạy tội, thả lập luận Nixon bán đứng
miền Nam cho TC. Thực tế là cánh cấp tiến
thiên tả trong đảng DC đă tập trung mọi
nỗ lực chống phá việc Mỹ tham chiến
ngay từ những năm TT Johnson vừa đổ quân
vào miền Nam, 1964-65. Tất cả những tiếng nói
chống đối ồn ào nhất như vợ
chồng Jane Fonda/Tom Hayden, hay Frank Church, hay Robert Kennedy,
Eugene McCarthy, và sau đó George McGovern,... đều
thuộc đảng DC hết.
Ngay cả đến khi VC đe dọa chiếm hết
miền Nam, khối DC cũng vẫn là khối chống
đối mọi biện pháp cứu nguy, thà chống
mắt nh́n Miền Nam rơi vào tay CSBV chứ không
chịu chi thêm một xu viện trợ quân sự
khẩn cấp do TT Ford xin. Ngay cả việc nhận
những người Việt nạn nhân CS vào tỵ
nạn khi đó cũng bị khối DC chống, trong
đó nổi bật nhất có TNS Biden, TNS Kerry,
thống đốc Brown, tất cả đều
thuộc đảng DC hết.
Công bằng mà nói, để mất nước là trách
nhiệm của chính chúng ta trước tiên, trước
khi chúng ta xỉa tay đổ thừa người khác.
Ta thua v́ lănh đạo dở, lệ thuộc quá
nhiều vào viện trợ Mỹ, v́ hậu phương
thiếu đoàn kết, v́ chính sách “dân chủ”
nửa chừng xuân dung túng cho những phá rối
của đám chính khách thời cơ lực lượng
cẳng giữa, hay đám nhạc sĩ, sinh viên
phản chiến ngây ngô, linh mục và sư săi ôm
mộng hăo làm giáo chủ,... Tất cả chỉ
khiến cho sự hy sinh của người lính Cộng
Ḥa trở thành công dă tràng.
Hồ sơ VN c̣n quá nhiều bí ẩn chưa giải
toả hết mà cũng có thể không bao giờ có câu
trả lời cuối cùng. Nhưng nh́n vào những
diễn biến trên, trách nhiệm của khối
cấp tiến DC không thể chối căi. Chẳng
những đảng DC ép chính quyền Nixon/Ford phải
tháo chạy mà c̣n không cho chúng ta cơ hội chống
đỡ khi cắt hết tiền bạc và súng đạn
để có thể tiếp tục cuộc chiến,
rồi c̣n muốn đóng cửa không cho chúng ta vào
tỵ nạn.
TT Nixon đă từng thẳng tay thả bom Bắc
Việt, tung quân qua đánh mật khu VC bên Căm-Pu-Chia,
bí mật thả bom xứ này mấy tháng ṛng ră mà
cả VC lẫn Sihanouk đều không dám lên tiếng
phản đối v́ há họng mắc quai. Nếu không
bị quốc hội DC khoá tay, ai biết được
ông sẽ đi xa tới đâu. Đổ bộ Vinh
hay Hải Pḥng?
Các ông Nguyễn Tiến Hưng và Hoàng Đức Nhă
đă nhiều lần kết án Kissinger và Nixon đă
ma-nớp đủ kiểu kể cả áp lực và
lừa gạt TT Thiệu để rút ra khỏi Nam VN,
không sai. Nhưng có lẽ họ ở trong cuộc quá
gần, quan hệ trực tiếp với Kissinger và Nixon
quá nhiều, chỉ nh́n thấy hai ông này mà không nh́n
thấy cả quốc hội và phong trào “phản
chiến” bên Mỹ, nên không đánh giá đúng
mức áp lực trên đầu TT Nixon. Theo ông Nhă, TT
Thiệu trách TT Nixon không giữ lời hứa sẽ
cứu VNCH, chỉ chứng tỏ lănh đạo VNCH
quả không hiểu ǵ hay không muốn hiểu chính
trị Mỹ, nhất là sau gần cả trăm
biểu quyết của quốc hội và sau vụ
Watergate.
CSVN huyênh hoang đấm ngực khoe công, thật ra
chỉ thắng nhờ... ù lỳ, coi rẻ mạng
sống dân và bộ đội, chết bao nhiêu cũng
bất cần để đám lănh đạo chiếm
quyền. Tướng Westmoreland đă từng nói, trong
quân đội Mỹ, nướng quân như Giáp th́ ông
ta chưa lên được đại úy đă bị
ra toà án quân sự rồi.
Từ phiá Mỹ, truyền thông mỵ dân, trí thức
cấp tiến thiên tả, đảng DC yếu đuối,
đó chính là những thành phần chịu trách
nhiệm lớn nhất cho cơn ác mộng 30 tháng 4
của chúng ta. (07-05-17)
Vũ Linh
|