Cái Bóng Cuộc Chiến Và Món Nợ 45 Năm Phạm Tín An Ninh |
Đă kết thúc đúng
45 năm, nhưng cái bóng của cuộc chiến ấy
dường như vẫn luôn bám theo đằng sau,
nhiều lúc muốn chụp phủ lấy tôi như bóng
ma, một thứ “bóng đè”, làm tôi muốn
ngộp thở. Từ giă học
đường, tôi vào lính khi c̣n rất trẻ. Cũng
không hẳn v́ thích đời binh nghiệp, nhưng ư
thức trách nhiệm làm trai trong lúc đất nước
đang trong khói lửa chiến tranh, nh́n quanh bạn bè
thân quen đều lần lượt nhập ngũ, và
gần như con đường nào rồi cuối cùng
cũng dẫn tới một quân trường, nên đúng
như lời một bài hát cũ, “năm 21 tuổi tôi
đi vào quân đội mà ḷng chưa hề yêu ai”. Ra trường, được
bổ nhậm về một đơn vị tác
chiến lưu động. Trải qua nhiều chức
vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp
chỉ huy tài ba đảm lược, những
chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương
của anh em binh sĩ. Không biết tôi đă hướng
dẫn họ được những ǵ, nhưng
chắc chắn tôi đă học được ở
họ sự trung thành, ḷng can đảm và nhiều
kinh nghiệm chiến trường. Trong hơn mười
năm chiến trận, tôi từng được thăng
cấp đặc cách ngoài mặt trận và nhận
một số huy chuơng tưởng thưởng.
Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu
đó có phải thực sự là công trạng của
ḿnh, khi h́nh dung đến khá nhiều khuôn mặt
đồng đội dưới quyền đă hy sinh,
trong lúc ḿnh vẫn đang c̣n sống? Tôi không bao
giờ quên được những ánh mắt của
họ đă nh́n tôi trước khi trút hơi thở
cuối cùng. Không biết họ muốn trăng
trối, gởi gấm hay oán trách điều ǵ. Tôi thường
giành phần để được vuốt mắt
họ khi t́nh h́nh có thể, như muốn thay một
lời tạ lỗi, ít nhất là đă không bảo
vệ được họ. Lời người xưa
bao giờ cũng đúng “Nhất
tướng công thành vạn cốt khô”. Tôi không hề dám mơ
tưởng đến chuyện làm tướng bao
giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ quan cấp
nhỏ, tôi cũng đă mắc nợ khá nhiều xương
máu của đồng đội anh em, mà chắc
chắn sẽ không bao giờ c̣n trả được. Phục vụ trong
một đơn vị Bộ Binh b́nh thường, nhưng
chúng tôi chưa hề một lần bại trận.
Ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu
nhất, với lực lượng địch đông
gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, chúng
tôi vẫn chiến thắng vẻ vang, như trận
phản phục kích trên QL-20 gần Di Linh (Lâm Đồng),
trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Phan
Thiết, trận phản công tiêu diệt một
lực lượng biển người của địch
tại Pu-Brang (Quảng Đức) và đặc
biệt nhất là trận chiến Kontum mùa Hè 1972.
Vậy mà cuối cùng chúng tôi bỗng dưng trở thành
những người bại trận. Bi thảm và
tủi nhục hơn là dù có găy súng, buông súng hay không,
chúng tôi cũng thuộc về phía “đầu hàng”
theo lệnh của ông tướng mới lên làm
tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh.
Sau này, có người bảo ông làm đến đại
tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ,
móc nối của ai đó và một người em
ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập
“chính phủ ba thành phần”. Có người lại
bảo ông giành chức tổng thống chỉ để
làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng
có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu
hàng nên tránh được một cuộc tắm máu,
và có đủ thời gian cho một số người
kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang
Mỹ sớm. Là một thằng lính năm tháng ở
trong rừng núi, ngộp thở với bao nhiêu thứ
lệnh lạc trên chiến trường, tôi không
biết ǵ về chính trị, nhất là các biến
cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày
cuối cùng tại thủ đô Sài g̣n, nhưng tôi
cảm thấy “nhục!” Trong chiến tranh,
thắng bại dù sao cũng là lẽ thường t́nh.
Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đă
đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị
Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đă
phải đầu hàng quân đội Đồng Minh,
sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống
thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng
đă hành xử văn minh, nhân bản như thế nào,
cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn
khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh
của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc
bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và
đau đớn quá. Bị đồng minh phản
bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi.
Thua một kẻ địch không đáng để
thua. Và một chế độ tự do nhân bản, văn
minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng
một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc
hậu. (Có
lẽ trong lịch sử chiến tranh thế giới,
chưa từng có những người lính nào ở phe
thắng trận lại ngồi khóc ở vệ
đường trên phần đất vừa mới
chiếm được – như trường
hợp nhà văn bộ đội Dương Thu Hương
và có thể c̣n nhiều người khác nữa–
bởi nhận ra ḿnh bị lừa dối, uổng phí
cả một thời trai trẻ để đi
“giải phóng” một đất nước tự
do, văn minh, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần
xứ sở của ḿnh.) Điều đau ḷng và
đáng tủi nhục hơn là thua quá nhanh. Hai cuộc
triệt thoái sai lầm tệ hại, từ Pleiku theo
Tỉnh Lộ 7B của Quân Đoàn II và từ bờ
biển Thuận An của Quân Đoàn I, dự trù theo
đường biển, đă thất bại quá
nặng nề bi thảm, không những làm mất hai quân
đoàn ở những tuyến đầu cùng cả
một sư đoàn tổng trừ bị tinh nhuệ,
mà quan trọng hơn, làm mất tinh thần và niềm
tin chiến đấu cho quân, dân cả nước.
Điều đau đớn và tội nghiệp
nhất của người lính chiến là khi họ không
c̣n niềm tin vào cấp chỉ huy, lănh đạo
của ḿnh. Đánh giặc mà không có hậu phương,
không c̣n được tiếp tế, không có viện
binh, có nơi không có cả cấp chỉ huy, và
nhất là không biết cắt bỏ đất đến
đâu, th́ trận đánh đó trở thành bi
thảm, niềm tin chiến thắng trở nên rất
mong manh, vô vọng, người lính nếu c̣n chiến
đấu chỉ v́ t́nh đồng đội và
tự vệ cho sự sống c̣n của chính cá nhân ḿnh. Mặc dù ghi được
hai điểm son cuối cùng trong quân sử (–
Tại Ban Mê Thuột, chỉ một tiểu đoàn
bộ binh thuộc Trung Đoàn 53 được tăng
cường hai Trung Đội PB 105 ly và một Đại
Đội Trinh Sát, dưới sự chỉ huy của
Trung Tá Vơ Ân, quyết tử thủ tại căn
cứ B50 bên phi trường Phụng Dực, đă dũng
cảm chống trả một lực lượng hùng
hậu của địch, với quân số gấp 5, 7
lần cùng nhiều chiến xa T-54, bao vây đúng
một tuần sau khi cả thành phố Ban Mê Thuột
đă thất thủ, tiêu diệt nhiều đơn
vị, chiến xa địch, cho đến khi cạn
đạn dược, phải mở đường máu
thoát ra – và tuyến thép Long Khánh của Tướng Lê
Minh Đảo đă cầm chân cả hơn một quân
đoàn Cộng sản gần hai tuần lễ, gây
tổn thất nặng nề cho địch, làm ngỡ
ngàng cả thế giới, nhất là Ṭa Bạch
Ốc); nhưng cũng chỉ đúng 50 ngày, kể
từ khi mất Ban Mê Thuột, một quân lực hùng
mạnh gần như tan ră, và cả miền Nam
mất vào tay giặc! Ngoại trừ phần
lớn lực lượng Hải Quân và Lữ Đoàn
I Nhảy Dù có phương tiện ra đi theo kế
hoạch, một số thuộc các đơn vị Không
Quân, và từng nhóm hoặc cá nhân mang theo gia đ́nh
tự vượt thoát bằng các loại phi cơ, ghe
tàu kiếm được, hầu hết c̣n lại
phải vào tù, từ những tướng lănh đến
sĩ quan mới ra trường, có cả một số
hạ sĩ quan giữ những chức vụ liên quan
tới an ninh, t́nh báo. Một số không nhỏ đă
bị “bên thắng cuộc” tàn sát dă man tại
địa phương, ngay sau khi cướp lấy chính
quyền. Đặc biệt đáng kính phục,
một số tướng lănh cùng nhiều cấp
chỉ huy và binh sĩ khí phách đă tự sát vào
giờ thứ 25 để giữ tṛn tiết tháo.
Cả một miền Nam thua trận đă nhanh chóng
trở thành một vùng đất chết, khốn cùng,
bi thảm. Tiền bạc (có được từ
mồ hôi nước mắt và có khi bằng xương
máu) bỗng chốc không c̣n giá trị, nhà cửa, tài
sản bị cướp sạch dưới danh nghĩa
tịch thu, rất nhiều gia đ́nh từ ông bà già
đến những đứa con nít sơ sinh bị xua
đuổi, cưỡng bách đi đến những nơi
rừng thiêng nước độc. Người dân có
cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê
hương ḿnh. Tương lai chỉ c̣n là những cơn
ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ c̣n
biết nh́n ra biển khơi mênh mông để ước
mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên
kia chân trời mịt mờ vô định. Và c̣n ǵ
đau đớn hơn khi con người nghĩ
tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi
lại là một niềm khát vọng! Hơn tám năm bị
đày ải qua nhiều trại tù Nam-Bắc, ngày
trở về tôi không c̣n được nh́n lại
mặt cha ḿnh. Ông đă chết sau gần một năm
bị bắt vào một trại tù khác trong Nam khi
tuổi sắp 70. May mắn là tôi c̣n người
vợ chung t́nh cùng tôi qua bao cuộc biển dâu, bươn
chải nuôi đàn con dại, cho dù bữa no bữa
đói. Nh́n thấy vợ con
đói khổ, tả tơi, ḿnh chẳng có thể giúp
được điều ǵ, mà c̣n tạo thêm gánh
nặng, cuối cùng, chỉ c̣n cách duy nhất – đem
hết sinh mạng cả nhà để đánh một
canh bạc cuối cùng – vượt biển. *** Tôi đến trại
tị nạn khi phong trào kháng chiến, phục quốc
đang trong thời kỳ đỉnh điểm. Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng
Việt Nam do vị tướng Hải Quân Hoàng
Cơ Minh lănh đạo, nghe nói có căn cứ,
chiến khu ở đâu đó trên đất Thái Lan
gần biên giới Lào-Việt. Có cả tờ báo và
đài phát thanh Kháng Chiến. Tôi cùng rất nhiều
anh em nức ḷng hăng hái tuyên thệ để
được trở thành đoàn viên. Đứng trước
bàn thờ tổ quốc, đưa tay lên chào lá
quốc kỳ, hô mấy lời thề mà trong trái tim
bừng lên khí thế và nước mắt rưng rưng
cảm động. Nhiều người sẵn sàng
trở về chiến đấu. Riêng tôi c̣n tin tưởng
và phấn chấn hơn khi được xem cuốn
phim quay trong “chiến khu quốc nội”, nhận ra người
bạn học đồng hương thân thiết,
một sĩ quan TQLC, là kháng chiến quân cầm súng
đứng bên cạnh Trung Tá Lê Hồng (bấy
giờ được gọi là Thiếu Tướng
Đặng Quốc Hiền), dưới lá cờ vàng
phất phới tung bay giữa núi rừng biên giới.
Tr/Tá Lê Hồng trong chiến khu
(Trung Tá Lê Hồng là
một cấp chỉ huy nổi tiếng trong binh
chủng Nhảy Dù, mà tôi từng biết danh và kính
phục. Ông xuất thân từ người lính binh nh́
và hầu hết những cấp bậc đều
được vinh thăng tại mặt trận. Sau
trận chiến Long Khánh lẫy lừng, cùng sát cánh
với SĐ 18 của Tướng Đảo, ngăn
chặn hằng cả quân đoàn Bắc Việt có
nhiều chiến xa, trên đường tiến
chiếm Sài g̣n, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù di chuyển
về G̣ Công, t́m đường để về Vùng
4 chiến đấu cùng Tướng Nguyễn Khoa Nam,
nhưng đă quá muộn, không c̣n thời gian và cơ
hội nữa. Với chức vụ Lữ Đoàn Phó
LĐ1/ND, Trung Tá Lê Hồng đă thừa lệnh
vị Lữ Đoàn Trưởng t́m mua ghe thuyền
đưa toàn quân ra biển. Và đó là đơn
vị Lục quân tác chiến duy nhất đă di
tản toàn bộ đến Hoa Kỳ.) Nhưng chỉ vài
tuần, sau ngày “Đại Hội Chính Nghĩa” của
Mặt Trận tổ chức rầm rộ tại
Washington DC-Hoa Kỳ th́ chúng tôi dồn dập nhận
được bao nhiêu tin tức không vui. Một số
lớn cán bộ chủ chốt và đoàn viên tách ra,
chia làm hai ba nhóm, lên án tố cáo lẫn nhau, lộ ra
nhiều điều không thật. Chúng tôi ở tít mù
xa nên chỉ biết tạm thời “án binh bất
động.” để giữ t́nh anh em, chiến
hữu. Chưa kịp phản ứng ǵ th́ nghe tin
vị Tướng lănh đạo cùng nhiều cán
bộ, kháng chiến quân đă hy sinh tại Nam Lào. H́nh
ảnh và tin tức có đầy trên báo chí, truyền
h́nh Cộng sản. Lực lượng “quốc
nội” xem như tan ră. Thằng bạn tôi có tên trong
danh sách “bị giết”, Trung Tá Lê Hồng cũng không
c̣n (sau này nghe nói ông chết trong chiến khu v́
trọng bệnh). Như một quả bóng căng đầy
bị x́ hơi, chúng tôi chẳng c̣n ǵ để hy
vọng. Tôi đau đớn rời khỏi tổ
chức mà ḿnh đă hết ḷng góp công gầy
dựng. Nỗi buồn lại tăng lên gấp
bội, khi những người chết, dù ǵ họ cũng
đă hy sinh v́ Tổ quốc, lại không hề
được chính thức công bố, truy điệu,
vinh danh. Tôi ra phía sau nhà, đứng một ḿnh trong bóng
đêm, đốt ba nén hương hướng về
phương Đông để tưởng nhớ
thằng bạn cũ mà trong ḷng ngậm ngùi đau
đớn. Sau này tôi có dịp liên lạc được
với vợ con nó, sống rất nghèo khổ ở
Việt nam, ngay quê vợ tôi. Ông bà nhạc tôi từng
cưu mang đứa con trai lớn của nó một
thời gian, lo cho việc ăn ở, học hành. Những năm đầu
định cư, sống trên vùng Bắc Âu băng giá,
tôi càng lạnh lẽo hơn khi biết tin người
anh hùng Trần Văn Bá, Chủ tịch Tổng Hội
Sinh Viên Việt Nam ở Pháp cùng các ông Lê Quốc Túy,
Mai Văn Hạnh và một số thành viên trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng
Yêu Nước Giải phóng Việt Nam bị bắt khi xâm nhập vào bờ
biển Cà Mau. Sau đó anh Bá đă bị CS xử
bắn cùng nhiều người khác. Trên bàn thờ nhà
tôi, có thêm tấm di ảnh của anh. Anh rất
xứng đáng để được vinh danh như
một vị anh hùng.
Anh hùng Trần Văn Bá
Một tổ chức khác, Liên
Minh Quang Phục Việt Nam của ông Vơ Đại
Tôn, một cựu sĩ quan cao cấp, từ Úc Châu,
gạt lệ từ giă vợ trẻ con thơ t́m
đường về phục quốc. Tôi hoàn toàn không
biết ǵ về sách lược hay kế hoạch
của ông cho đến khi nghe tin ông bị bắt. (Sau
này bất ngờ được xem cuốn phim quay
cảnh ông bị cộng sản đưa ra một
cuộc họp báo quốc tế tại Hà Nội ngày
13.7.1982. Cuốn phim do phóng viên Neil Davis của NBC News cùng
kư giả Mori của đài truyền h́nh NHK/ Nhật
Bản, thực hiện và may mắn được mang
ra khỏi Việt Nam để tŕnh chiếu trên đài
truyền h́nh Tokyo, Nhật Bản. Chắc chắn
bọn cầm quyền Hà Nội đă áp lực để
bắt ông phải nói theo sự dàn dựng của chúng,
nhưng ông đă khôn khéo lừa dụ địch, tương
kế tựu kế, nhằm đưa được
tiếng nói của ḿnh ra bên ngoài thế giới. Trước
nhiều phóng viên của các nước cộng sản
và thế giới tự do, với nét mặt đanh thép
và giọng nói dơng dạc, hùng hồn ông tuyên bố
(nguyên văn): “Tổ
chức của tôi có cơ sở tại Châu Á, Châu Âu,
Châu Mỹ và Châu Úc. Trong một mục đích của
tổ chức, chúng tôi có kế hoạch dự trù xâm
nhập trở về Việt Nam để t́m hiểu t́nh
h́nh và từ đó sẽ đặt kế hoạch cho
tương lai. V́ lẽ đó, tôi sẽ không phản
bội bất cứ ai đă giúp đỡ, ủng
hộ tôi. Tôi tiếp tục lập trường chính
trị của tôi để tranh đấu cho tự do
và giải phóng dân tộc. Tôi đă sẵn sàng
nhận bất cứ bản án nào mà chế độ
Công sản dành cho tôi” Cả hội trường
im bặt, các phóng viên quốc tế sửng sốt,
đám cán bộ cộng sản nh́n nhau ngơ ngác.
Cuộc họp báo buộc phải dừng lại
bởi xem như bất thành với ư đồ của
đám người tổ chức (thuộc Bộ Thông
Tin Văn Hóa CS). Niềm hạnh phúc
vỡ ̣a trong trái tim tôi, hănh diện về một
vị đàn anh khí phách, nhưng sau đó lo lắng
cho số phận của ông.
Ông Vơ Đại Tôn trong buổi họp báo
của CS tại Hà Nội
Sau mười năm
bị hành hạ kiên giam trong ngục tối, nhờ
sự can thiệp của chính giới quốc tế và
Úc Châu, ngày 11.12.1991, ông được trở về Úc
với thân xác gầy g̣ c̣n hằn những vết
đ̣n thù. Nhiều báo chí trên thế giới và
hầu hết cộng đồng người Việt
khắp nơi ca ngợi ông như một anh hùng, nhưng
rồi cũng có ít người chê trách, kể cả
miệt thị ông. Một lần nữa, tôi có cảm
giác cay đắng, ngậm ngùi. Dù ǵ, ḷng can đảm,
tính khí khái và sư hy sinh lớn lao của ông cũng
đă quá đủ để làm tôi kính phục. Xưa
nay mấy ai đem chuyện thành bại mà luận anh hùng.
Và với tôi, ông xứng đáng là một anh hùng. Rồi tất cả cũng
từ từ đi vào quên lăng. Chuyện kháng chiến,
phục quốc lắng xuống, nhưng mầm móng
chia rẽ, nghi kỵ bắt đầu. Niềm tin
mất dần, và dường như ḷng một số
đông người Việt tị nạn cũng
dần dà chán chường, nguội lạnh. *** Vừa bỏ lại
đằng sau gần mười năm khốn cùng tăm
tối, lại vừa thoát chết trên biển Đông,
giờ mới bước lên bến bờ tự do th́
gặp bao nhiêu điều hụt hẫng đau ḷng, tôi
không c̣n muốn nh́n lại vùng bóng tối phía sau lưng
bằng cách dồn hết nỗ lực ḥa nhập vào
quê hương mới. Đời sống ở
vùng Bắc Âu thật an b́nh, dân t́nh hiền ḥa, đất
nước thơ mộng với rừng núi, sông
hồ quanh năm tĩnh mịch, như là những
liều thuốc nhiệm mầu tưởng chừng có
thể chữa lành được những vết thương
c̣n lại trong ḷng ḿnh. Tám năm sau, nhân dịp
đưa ba cô gái sang Mỹ học, tôi có dịp
gặp lại một số đồng đội và
bạn cùng tù cũ. Thời gian này, đă có nhiều
đợt cựu tù “cải tạo” đến
Mỹ theo diện HO. Rất vui và cảm động qua
bao cuộc trùng phùng. Một chiều cuối tuần,
chúng tôi theo anh bạn, trước kia là tiểu đoàn
trưởng, đến tham dự buổi họp
mặt binh chủng của anh, một binh chủng
từng vang tiếng một thời, được
tổ chức tại một nhà hàng lớn trong khu
Little Saigon. Rất đông đảo người tham
dự. Sau gần hai mươi năm tôi mới
thấy lại nhiều anh em mặc quân phục, có vài
người mang cả cấp bậc, và lần đầu
tiên ở hải ngoại, chứng kiến một nghi
lễ rước quốc, quân kỳ và chào cờ,
với đầy đủ súng ống, có cả
tiếng kèn đồng thổi bài truy điệu, tôi
đă xúc động, nước mắt tuôn trào. Sau
khi vị trưởng ban tổ chức giới
thiệu thành phần ban chấp hành và đọc qua
tiểu sử cùng những chiến công hào hùng của
binh chủng, một vị tướng đại
diện cho binh chủng được trịnh trọng
mời lên sân khấu để “có đôi lời” cùng
anh em đồng đội. Mái đầu đă
bạc, nhưng phong cách của ông vẫn uy nghi,
lời nói dơng dạc, lẫn chút xúc động khi
nhắc đến những “thằng em” c̣n nằm
lại ở chiến trường, hay đă chết
trong tù ngục. Không khí như trầm xuống. Nước
mắt tôi lại trào ra. Sau đó, tiếng nhạc
nổi lên và cả chương tŕnh dài c̣n lại dành
cho văn nghệ, dạ vũ. Sự đổi “tông”
ấy đă làm tôi hụt hẫng, tiếc nuối. Như
một giấc mơ đẹp đẽ bỗng
biến mất bởi những h́nh ảnh và âm vang
đưa tôi trở về thực tế. Giá mà tôi
rời khỏi hội trường sớm, sau phần nói
chuyện của ông tướng th́ hay biết bao nhiêu.
Chắc tôi c̣n giữ được trong ḷng nhiều
hơi ấm cùng chút niềm kiêu hănh hiếm hoi. Thời gian sau này, sau khi
về hưu, tôi sang Mỹ sống nhiều hơn,
đă làm quen với các sinh hoạt ở đây,
dần dà rồi cũng thấy b́nh thường trước
bao điều nhân t́nh thế thái. Nhưng tôi vẫn
thấy nao ḷng, khi chứng kiến những đồng
đội của ḿnh ngày một già thêm và bộ quân
phục trên người không c̣n tạo cho họ cái
oai phong, đẹp đẽ của ngày xưa, cái
thời mà hầu như bản nhạc nào của
miền Nam cũng nhắc đến và ca ngợi
họ như những người hùng lư tưởng
của các cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Bùi
Thị Xuân, Đồng Khánh, các cô sinh viên Văn Khoa,
Luật Khoa trên những con đường t́nh có lá me
bay, cây dài bóng mát…, hay h́nh ảnh đẹp đẽ
oai phong trong các cuộc diễn binh vào những Ngày Quân
Lực năm nào, giờ thỉnh thoảng vẫn c̣n
được nh́n thấy lại trên các video. Một hôm, tôi lặng người
khi thấy trong cuộc diễn hành Tết trên
đường phố Bolsa, có mấy ông bà mặc quân
phục mang cả lon tướng, tá của nhiều quân
chủng, mà tôi chưa hề nghe danh, biết mặt,
bởi trông họ quê mùa, kệch cỡm, mang phù
hiệu, giây biểu chương c̣n không đúng cách.
Th́ ra một đám tướng tá phường
tuồng của một nhóm bệnh hoạn tự phong nào
đó. Tôi giận đến phải buông ra mấy
tiếng chửi thề và trách cứ ban tổ chức
sao có thể để cho họ mạo nhận,
diễn tṛ lố lăng như thế? Chẳng lẽ
cái quân đội của chúng tôi từng có biết
bao máu đào của hàng hàng lớp lớp chiến
binh đổ xuống tô thắm màu cờ, giờ
bị “xuống cấp” đến mức này sao?
Từ đó, tôi không c̣n muốn có mặt trong các
buổi họp mặt, diễn hành khi có những người
mặc quân phục, mang lon lá một cách ô hợp,
lố lăng như thế. Tôi không muốn phải
đau ḷng. Chính những h́nh ảnh tệ hại này
đă nhắc nhớ, ám ảnh để tôi nhận
ra ḿnh là người lính trong đội quân thất
trận, điều mà lúc nào tôi cũng muốn quên
đi. Cũng ở Mỹ, đặc
biệt Tiểu Bang California, nơi từng được
mệnh danh “thủ đô người Việt
tị nạn” và “thành tŕ chống
Cộng”, tôi đă phải chứng kiến bao
điều thị phi, chia rẽ, nghe những lời
miệt thị giữa những người từng
một thời là huynh đệ, đồng môn, đồng
đội, đă từng quỳ xuống trên cùng
một vũ đ́nh trường đưa tay lên “xin
thề” trong ngày lễ ra trường, và cùng sống
chết bên nhau trên những chiến trường
ngập đầy lửa đạn. Gần như
cộng đồng, tập thể nào cũng chia ba
xẻ bảy. C̣n sức mạnh nào để đối
phó với kẻ thù xảo quyệt, gian trá, bạo tàn,
khi thế hệ chúng tôi tuổi đă già, sức
đă kiệt, và sẽ để lại được
những hoài băo ǵ cho con cháu mai sau? Mảnh đất
xấu là nơi cơ hội cho cỏ dại, thường
là loại cỏ đuôi chó. Tôi thật sự buồn
nôn khi nh́n thấy vài bộ mặt, nhận ḿnh
từng là người hùng của binh chủng này binh
chủng nọ, nhưng chạy về khóc lóc, bợ
đỡ kẻ thù. Nghe những lời xu nịnh
của họ, mà tôi thấy lợm giọng Bạn bè chiến đấu
cùng tôi ngày xưa, hay cả những đồng môn,
huynh đệ xuất thân từ một quân trường,
từng cùng quỳ xuống vũ đ́nh trường
đưa tay lên thề trong ngày lễ ra trường,
giờ cũng bị những biến cố của ḍng
đời “lưu vong” này mà chia năm xẻ
bảy. Tệ hơn có một số c̣n xem nhau như
kẻ thù. Từ những bất đồng trong “kháng
chiến”, “phục quốc” đến việc
hội hè, đoàn thể, xây dựng tượng đài,
tu sửa Nghĩa Trang QĐ Biên Ḥa, thậm chí đến
cả việc ủng hộ hay chống TT Trump, và
mới đây là chuyện “Recall” hay “No Recall” trong
Hội Đồng Thành Phố Westminster- đă giết
chết biết bao t́nh chiến hữu, đồng
đội, đồng môn, huynh đệ một
thời. Tôi thực t́nh không
hiểu nổi, chỉ cảm thấy đau ḷng, xót
xa, và nuối tiếc. Cái bóng ma cuộc chiến
của hơn 45 năm trước mà tôi luôn muốn quên
đi, giờ càng đè nặng lên tấm thân c̣m cơi,
bóp nghẹt trái tim già nua của tôi, từng khát khao
bao niềm hy vọng. Vết thương cũ trong ḷng,
tưởng có thể lành, giờ nhói đau trở
lại. Và món nợ máu xương của bao đồng
đội, đă hơn 45 năm rồi, biết đến
khi nào mới trả được cho anh em! Cầu xin hồn thiêng sông
núi, anh linh tiên tổ và liệt vị anh hùng, tử sĩ
phù trợ cho cộng đồng người Việt
hải ngoại, đặc biệt những huynh đệ
từng mặc áo lính của tôi, sớm dẹp bỏ
mọi chia rẽ, tị hiềm, đưa tất
cả quy về một mối, cùng một ḷng hổ
trợ đồng bào trong nước, để họ
có đủ can đảm bước qua nỗi sợ
hăi, cùng đứng lên làm ngọn sóng thần nhận
ch́m chế độ Cộng sản man rợ, độc
tài, tham nhũng, bán nước cầu vinh, để
con cháu đời sau không c̣n bị nợ nần, ô
nhục, xích xiềng, vươn lên sánh vai ngẩng
mặt tự hào cùng năm châu bốn bể. Một chế độ
đi ngược lại ḷng dân và xu thế phát
triển của nhân loại, tất yếu phải
bị đào thải. Vấn đề c̣n lại
chỉ là thời gian – và sẽ biến thiên tùy theo
những trái tim có cùng nhịp đập. Tháng 4/ 2020 Phạm Tín An Ninh |