Chiến
lược triệt thoái: Năm 1963 John F. Kennedy ra
lệnh cho rút toàn bộ khỏi Việt Nam James
K. Galbraith TS.Đỗ Kim Thêm dịch |
Tổng Thống John F.
Kennedy và phu nhân đến phi trường Love Field,
Dallas, Texas vào ngày 22 tháng 11 năm 1963. Ảnh do Cecil
Stoughton, nhiếp ảnh gia Toà Bạch Ốc, chụp,
hiện lưu trử tại Thư viện và Viện
Bảo tàng Tổng thống John F. Kennedy, Boston. Lời người dịch: Ngày
22 tháng 11 năm 2018 là kỷ niệm 55 năm ngày
Tổng thống John F. Kennedy bị mưu sát tại
Dallas vào năm 1963. Gần đây, Tổng thống
Donald Trump cho biết sẽ lần lượt cho
giải mật các tư liệu xem Kennedy có liên quan
đến cái chết của Tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm không. Dĩ nhiên, nhiều bí ẩn chưa
được hé lộ và c̣n cần thời gian để
trả lời. Nhưng vấn đề
liệu Kennedy sẽ từng bước leo thang chiến
tranh Việt Nam vào năm 1964 và 1965 như Johnson lănh
đạo không, đă lần lượt sáng tỏ. Qua tổng hợp các tài
liệu, James K. Galbraith chứng minh là vào ngày 2 tháng 10 năm
1963 Kennedy quyết định cho rút 1000 cố vấn
Mỹ vào năm 1963 và sau khi tái thắng cử vào năm
1964 sẽ rút toàn bộ vào năm 1965. Trước khi
đi Texas, Kennedy yêu cầu Mike Forestal t́m mọi
giải pháp để Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Kennedy không c̣n tín nhiệm Tổng thống Diệm khi
thấy mọi báo cáo về diễn tiến t́nh h́nh
tại Việt Nam đều mâu thuẩn hoặc sai
lạc. Ông lo âu trước các biểu hiện độc
tài, gia đ́nh trị, tham nhũng và đàn áp tôn giáo
của Tông thống Diệm. Khi được tin ông Ngô
Đ́nh Nhu đơn phương tiếp xúc với
đối phương và phong trào chống Mỹ lên
cao, ông dọa sẽ cúp hết các kinh viện cho
miền Nam và cho là chính người Việt phải
chiến đấu và người Mỹ không thể
thay thế. Do
đó, Kennedy không có ư chí leo thang chiến tranh và
kế hoạch triệt thoái không thành. James K. Galbraith, Học giả
Hoc viện Carnegie năm 2003, Giáo sư Lloyd M. Bentsen, Jr.,
Phân khoa Chính phủ/Quan hệ Kinh doanh Trường
Lyndon B. Johnson School of Public Affairs, Đại học Texas,
Austin. Nguyên tác: Exit Strategy: In 1963, JFK
ordered a complete withdrawal from Vietnam
http://bostonreview.net/us/galbraith-exit-strategy-vietnam Dịch giả cám ơn Cư
sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đă cung cấp
nhiều tư liệu mới của CIA
và chiến tranh Việt Nam. *** Kể từ ngày 22 tháng 11 năm
1963, bốn mươi năm đă trôi qua, nhưng
vẫn c̣n để lại những bí ẩn thương
đau. Chính sách của John F. Kennedy đối với
Việt Nam là ǵ lúc ông chết? Đó là một trong
những vấn đề trọng đại mà các tài
liệu lịch sử c̣n né tránh và gây tranh luận
trong hơn bốn thập niên. Tất nhiên, việc này
mang theo thanh danh của Kennedy, dù không trong một cách rơ
ràng. Hiện nay, các vấn đề
trọng đại hơn đang bị đe dọa khi
Hoa Kỳ đối mặt với các cam kết quân
sự bất định mà có thể tránh được
và có lẽ cũng không có thể thắng. Câu
chuyện về Việt Nam vào năm 1963 minh chứng cho
chúng ta thấy về cuộc chiến đấu
với sự thất bại của chính sách. Nhận
định về những biến cố xa xôi này
thử nghiệm năng lực của chúng ta một cách
sâu rộng hơn để đất nước nh́n
ra thực tế lịch sử của chính chúng ta trước
mắt. Người ta có thể
giới thiệu vấn đề này một cách
hữu ích bằng cách nhớ lại sự nổi
giận qua cuốn hồi kư năm 1995 của Robert
McNamara In Retrospect. Sau đó, phản ứng tập trung
chủ yếu vào việc giả định của
McNamara về trách nhiệm cá nhân đối với
cuộc chiến, đặc biệt là khi ông tuyên
bố rằng hành động của ḿnh như Bộ
trưởng Quốc pḥng phải chịu trách nhiệm
cho vấn đề là "sai lầm khủng khiếp,
một cách khủng khiếp“ Giới điểm sách ít quan
tâm tới các đóng góp của sách này cho lịch
sử. Trong bài xă luận vào ngày 12 tháng 4 năm 1995,
nhật báo New York Times đưa ra một nhận xét
nghiêm khắc: “Có lẽ giá trị duy nhất của
cuốn sách In Retrospect là nhắc nhở cho chúng ta đừng
bao giờ quên trong ánh sáng của trung tâm quyền
lực những người kiêu căn không lắng nghe
các lời cảnh báo thuần lư hoặc kêu gọi
đạo đức.” Bốn ngày sau, trong tạp chí
New York Times Book Review, Max Frankel đă viết: David Halberstam đă dùng cụm
từ mỉa mai về “Những người tuyệt
vời nhất và thông minh nhất” để tŕnh bày
câu chuyện của ông cách đây 23 năm, ông đă
nói chuyện này hay hơn so với cách của McNamara làm
hiện nay. Ngũ Giác Đài cũng làm như vậy,
khi tổng hợp kho tài liệu khổng lồ theo
lệnh của McNamara, khi lần đầu tiên ông
nhận ra rằng ḿnh đang có một mối nợ
đối với lịch sử. Theo quan điểm của
những lời chỉ trích này, thực ra, độc
giả sách của McNamara có thể bị sốc khi xem
qua bảng nội dung và nh́n bảng tóm tắt của
Chương 3, tựa đề là: “Sự sụp
đổ do định mệnh trong năm 1963: từ 24
tháng 8 đến 22 tháng 11 năm 1963”: Một giai đoạn quan
trọng trong sự tham gia của Hoa Kỳ tại
Việt Nam đă được nhấn mạnh bởi
ba biến cố nổi bật: lật đổ và ám
sát Ngô Đ́nh Diệm, Tổng thống Nam Việt Nam; quyết
định của Tổng thống Kennedy vào ngày 2 tháng
10 để bắt đầu rút quân Mỹ; và
vụ ông bị ám sát năm mươi ngày sau đó.
(Tác giả nhấn mạnh) Quyết định của
Kennedy vào ngày 2 tháng 10 năm 1963 là để bắt
đầu rút quân khỏi miền Nam Việt Nam? Trái ngược
với Frankel, đây không phải là một việc mà
bạn sẽ t́m thấy nơi Halberstam. Bạn sẽ
không t́m thấy nó trong bảng tóm tắt do Leslie Gelb biên
tập trong ấn bản Gravel của The Pentagon Papers, dù
qua nhiều tài liệu đưa ra về trường
hợp quyết định rút lui của Kennedy
được xuất bản trong ấn bản này. Ngoài
ra, chỉ với ba trường hợp ngoại lệ
trước khi tác phẩm Death of Generation của Howard
Jones công bố trong ấn bản muà xuân, một
cột mốc trong việc t́m sự thật khó khăn,
c̣n che đây quá cẩn mật, bạn sẽ không t́m
thấy nó ở nơi nào khác trong tài liệu lịch
sử về Việt Nam trong 30 năm qua. John F. Kennedy có ra lệnh
triệt thoái khỏi Việt Nam không? *** Có quan điểm do các phe cánh
tả, trung dung và hữu trưng ra, từ Noam Chomsky cho
đến Kai Bird kể cả William Gibbons hỗ
trợ. Họcho rằng Kennedy sẽ làm những ǵ mà
Johnson đă làm, ở lại Việt Nam và từng bước
leo thang chiến tranh vào năm 1964 và 1965. Quan điểm
này đă được cổ vũ mănh liệt qua
nhiều năm bởi Walt Rostow; bắt đầu
từ năm 1967, ông biên soạn công phu riêng cho Johnson
về những tuyên bố công khai của Kennedy về
chính sách cho Việt Nam và tiếp tục cho đến
những năm 1990. Trong một cuốn sách với ba
tập, Gibbons đă tuyên bố theo cách này: “Vào ngày
26 tháng 11 năm 1963, Johnson phê duyệt Giác thư về
Hành động cho An ninh Quốc gia, (National Security Action
Memorandum, NSAM 273), Hoa Kỳ tái khẳng định cam
kết đối với Việt Nam, tiếp tục các
chương tŕnh và chính sách của chính quyền
Kennedy.” Cũng cách tương tự
như vậy, trong cuốn sách Vietnam: A History (1983),
Stanley Karnow viết rằng sự cam kết của
Johnson “về cơ bản báo hiệu sự tiếp
tục chính sách của Kennedy.” Trong khi viết rất
chi tiết về cuộc đảo chính tại Sài G̣n,
Patrick Lloyd Hatcher không đề cập đến
tất cả các cuộc thảo luận ở Washington
về sau khi Johnson kế nhiệm ba tuần sau đó.
Gary Hess đưa ra bảng tóm tắt về chính sách mà
Johnson thừa kế: “Đối với Kennedy và các
cộng sự viên trong chương tŕnh Biên cương
mới của ông, đó là một học thuyết
về niềm tin mà các vấn đề Việt Nam
tự nó sẽ mang lại một giải pháp của
Mỹ.” Cuốn sách về Tiểu
sử McGeorge và William Bundy Jerry của Kai Bird năm 1998
đă tóm lược các cuộc thảo luận về
việc triệt thoái đă xảy ra vào cuối năm
1963, nhưng chấp nhận một nghi vấn chung cho là
Kennedy không có ư định bỏ cuộc. Trong cuốn
sách quan trọng năm 1999, Fredrik Logevall cũng nghĩ
như vậy, ông khẳng định rằng những
lựa chọn mà Kennedy phải đối mặt là leo
thang hoặc đàm phán và không bao giờ gồm có
việc triệt thoái mà không có thương thảo. Bất chấp các bằng
chứng trái ngược, tất cả điều này
(và c̣n nhiều thứ khác nữa) được
tŕnh bày qua nhiều năm bởi một số tác
giả. Năm 1972, lần đầu tiên, Peter Dale Scott
đât vấn đề Giác thư NSAM 273 của Johnson,
tài liệu mà Gibbons dựa vào đó để nói
về trường hợp cho sự liên tục,
thực ra, đó là một sự tháo chạy trong chính
sách của Kennedy; tiểu luận của ông đăng
trong The Pentagon Papers, ấn phẩm của Gravel. Robert M.
Schlesinger có đề cập trong tác phẩm Robert Kennedy
and His Time một vài trang trêu chọc “cách áp dụng
đầu tiên” vào tháng 10 năm 1963 “về kế
hoạch triệt thoái theo từng giai đoạn
của Kennedy”. Một nghiên cứu cẩn
trọng hơn được ấn hành vào năm 1992
là tác phẩm JFK và Việt Nam do John M. Newman xuất
bản.1 Cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm
1994, Newman là thiếu tá trong quân đội Hoa Kỳ,
một sĩ quan t́nh báo trú đóng cuối cùng tại
Fort Meade, Bộ Tổng Hành Dinh của Cơ quan An ninh
Quốc gia. Là một nhà sử học, chuyên đề
nghiên cứu của ông là giải mă các tài liệu
được giải mật, một tài năng mà sau
này ông đă áp dụng cho các kho văn khố lưu
trữ lâu đời của CIA về vụ Lee Harvey
Oswald. Lập luận của Newman không phải là trường hợp về “lư luận lịch sử phản chứng”, như Larry Berman đă mô tả vấn đề trong một phản ứng đầu tiên.2 Không phải chuyện ǵ đă có thể xảy ra khi mà Kennedy c̣n sống. Lập luận của Newman thuyết phục hơn: ông cho là Kennedy đă quyết định bắt đầu rút khỏi Việt Nam theo từng giai đoạn và ông đă ra lệnh cho việc rút lui bắt đầu. Theo Newman, thời biểu như sau: (1) Vào ngày 2 tháng 10 năm 1963,
Kennedy nhận được phúc tŕnh của McNamara và
Maxwell Taylor, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân
(Joint Chiefs of Staff, JCS). trong nhiệm vụ đến Sài
G̣n. Các khuyến cáo chính được đăng
trong Phần I (B) của Báo cáo McNamara-Taylor là việc rút
quân theo từng giai đoạn sẽ được hoàn
thành vào cuối năm 1965 và “Bộ Quốc Pḥng
phải thông báo trong tương lai gần nhất các
kế hoạch được chuẩn bị hiện
nay là rút 1.000 trong số 17.000 nhân viên quân sự Mỹ
đồn trú tại Việt Nam vào cuối năm
1963.” Theo chỉ thị của Kennedy, Tùy viên Báo chí
Pierre Salinger thông báo công khai vào buổi tối thời
biểu rút quân do McNamara đề nghị. (2) Vào ngày 5 tháng 10, Kennedy
đă đưa ra quyết định chính thức.
Newman trích dẫn biên bản cuộc họp ngày hôm
đó: Tổng thống cũng nói
rằng quyết định của chúng ta về
việc triệt thoái 1.000 cố vấn Hoa Kỳ vào tháng
12 năm nay không được đề ra chính
thức với ông Diệm. Thay vào đó, hành động
này phải được thực hiện xem như là
thông lê của một phần trong quan điểm chung
của chúng ta về việc rút quân khi mà họ không c̣n
cần nữa. (Tác giả nhấn mạnh) Trích đoạn này minh
chứng hai điểm:(a) thực ra, quyết định
được đưa ra vào ngày hôm đó, và
(b) bất chấp việc tuyên bố trước đó
về khuyến cáo của McNamara, quyết định vào
ngày 5 tháng 10 không phải là một chiến thuật mưu
mẹo hay áp lực để tạo cho ông Diệm
cải cách (như Richard Reeves, một trong số
những tác giả khác, đă tranh luận, 3) nhưng
quyết định bắt đầu rút quân không quan
tâm đến ông Diệm hoặc các phản ứng
của ông ta. (3) Vào ngày 11 tháng 10, Toà
Bạch Ốc đă công bố Giác thư NSAM 263, trong
đó nêu rơ: Tổng thống đă phê
chuẩn các khuyến cáo quân sự trong phần I B (1-3)
của Báo cáo, nhưng chỉ đạo rằng không
đưa ra thông báo chính thức kế hoạch rút
1.000 nhân viên quân sự Mỹ vào cuối năm 1963. Nói cách khác, lệnh rút quân
do McNamara đề nghị vào ngày 2 tháng 10 đă
được Kennedy bí mật chấp nhận vào ngày
5 tháng 10 và được thực hiện theo lệnh
của Kennedy vào ngày 11 tháng 10 cũng trong bí mật.
Newman lập luận rằng tính cách bí mật sau ngày 2
tháng 10 có thể được giải thích bởi
một lư do ngoại giao. Kennedy không muốn ông Diệm
hay bất cứ ai khác giải thích sự rút quân như
là một phần của bất kỳ chiến
thuật áp lực nào (các biện pháp khác được
xem là các chiến thuật áp lực cũng đă
được phê chuẩn). Cũng có một lư do chính
trị: Kennedy đă không quyết định liệu
xem ông có thể thoát khỏi các cáo buộc việc rút
quân không, mà đó là do kết quả của sự
tiến triển hướng đến mục tiêu cho
miền Nam tự lực duy tŕ. Một giải thích tương
ứng là rút quân trong khi chấp nhận sự thất
bại. Về chuyện này, Newman lập luận là
Kennedy đă chuẩn bị để làm nếu nó
trở nên cần thiết. Tuy nhiên, Kennedy không thấy
lư do để thực hiện biện pháp này, trước
khi nó trở nên cần thiết. Nếu các lực lượng
quân đội có thể rút đi trong khi miền Nam
vẫn c̣n đứng vững, trường hợp này
là tốt hơn nhiều.4 Nhưng từ ngày 11 tháng 10
trở đi, báo cáo của CIA đă thay đổi
một cách thảm hại. Sự lạc quan chính
thức đă được thay thế bằng cách t́m
kiếm một sự bi quan tương đối
thực tế. Newman tin sự bi quan này, mà nó liên quan
đến việc đánh giá lại như hồi tháng
7 trước đó, đó là một phản ứng
với Giác thư NSAM 263. Nó biểu hiện một
nỗ lực của CIA làm suy yếu lư do triệt thoái
là thành công, và do đó mà nó cản trở việc
thực hiện kế hoạch rút quân. Không cần
phải nói, Kennedy đă không đồng t́nh trong toàn
bộ về các lư luận với CIA. (4) Vào ngày 1 tháng 11 đă có
cuộc đảo chính ở Sài G̣n và vụ ám sát ông
Diệm và ông Nhu. Tại một cuộc họp báo ngày
12 tháng 11, Kennedy đă công khai tái xác định các
mục tiêu của Mỹ về Việt Nam: "để
tăng cường công cuộc chiến đấu"
và "để đưa người Mỹ ra
khỏi nơi đó." Chiến thắng, đă
được h́nh dung một cách nổi bật trong
một lời tuyên bố tương tự vào ngày 12
tháng 9, đă không c̣n được t́m thấy trong
danh sách. (5) Hội nghị Honolulu đă
triệu tập các giới chức cấp cao trong
nội các và và quân sự vào ngày 20 và 21 tháng 11
nhằm xem xét các kế hoạch sau cuộc đảo
chính tại Sài G̣n. Tuy nhiên, quân đội và CIA đă
hoạch định sử dụng cuộc họp đó
là để che đậy sự lạc quan sai lầm mà
một số người đă sử dụng để
hợp lư hoá về Giác thư NSAM 263. Tuy nhiên, Kennedy không
tự tin rằng chúng ta rút lui với chiến
thắng. Các h́nh ảnh thay đổi của t́nh h́nh
quân sự sau đó cũng sẽ không làm thay đổi
quyết định của Kennedy. (6) Tại Honolulu, McGeorge Bundy
chuẩn bị một dự thảo về những ǵ
mà cuối cùng trở thành Giác thư NSAM 273. Kế
hoạch đă được đệ tŕnh cho Kennedy
sau khi cuộc họp kết thúc. Dự thảo này
được ghi ngày 21 tháng 11, nó phản ánh sự
thay đổi trong báo cáo quân sự. Ví dụ, báo cáo
nói về nhu cầu phải “thay đổi trào lưu
không chỉ là trên chiến trường mà c̣n là trong
niềm tin”. Tuy nhiên, các kế hoạch tăng cường
cuộc đấu tranh không vượt quá những ǵ
mà Kennedy sẽ chấp thuận: Một phân đoạn
kêu gọi thi hành chống lại miền Bắc
nhấn mạnh đến vai tṛ của lực lượng
quân sự người Việt. 7. Đối với hành động
chống Bắc Việt, cần có kế hoạch chi
tiết cho việc phát triển thêm nguồn lực
của Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là
hoạt động trên biển, và việc hoạch
định như vậy cần chỉ ra thời gian và
đầu tư cần thiết để đạt
được một cấp độ hoàn toàn mới
có và hiệu quả trong lĩnh vực thi hành này.
(Tác giả nhấn mạnh) (7) Tại Honolulu, một
kế hoạch sơ bộ được biết đến
như là CINCPAC OPLAN 34-63 và sau đó được
thực hiện là kế hoạch OPLAN 34A, nó đă
được chuẩn bị để đệ tŕnh.
Kế hoạch này kêu gọi tăng cường các
cuộc đột kích phá hoại chống miền
Bắc, sử dụng các lưc lượng biệt kích
người Việt dưới quyền kiểm soát
của Mỹ, một sự leo thang đáng kể.5 Trong
khi Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, đă chấp
thuận chuẩn bị kế hoạch này, nó đă không
tŕnh qua cho McNamara. Bảng E của cuốn sách tóm
tắt của cuộc họp, nó được Taylor
chấp thuận và cũng không gửi trước cho
McNamara, cho thấy lệnh rút quân do Kennedy đưa ra vào
tháng 10 đă bị hoàn toàn phá huỷ, thay thế cho
việc rút toàn đơn vị bằng cách rút
những cá nhân binh sĩ mà trong mọi chuyển
biến họ sẽ bị luân phiên thuyên chuyển ra
khỏi Việt Nam (8) Phiên bản cuối cùng
của Giác thư NSAM 273 do Johnson kư vào ngày 26 tháng 11 khác
với bản dự thảo ở một số khía
cạnh. Hầu hết là những thay đổi
nhỏ là về từ ngữ. Thay đổi chính là
ở đoạn 7 của bản dự thảo đă
bị xoá toàn bộ (có hai dấu gạch chéo bằng
bút ch́ trên bản thảo ngày 21 tháng 11) và được
thay thế bằng đoạn sau: Việc hoạch định nên
bao gồm các mức độ khác nhau của hoạt
động có thể tăng lên, và trong mọi trường
hợp, có ước tính về các yếu tố như
sau: A. Kết quả thiệt hại cho Bắc Việt;
B. Sự phủ nhận mức độ hợp lư; C.
Trả đũa của Việt Nam; D. Phản ứng khác
của quốc tế. Các kế hoạch được
đệ tŕnh ngay để được chính
quyền phê duyệt. Ngôn ngữ mới chưa hoàn
chỉnh. Nó không bắt đầu bằng cách tuyên
bố thẳng thừng là các cuộc tấn công
miền Bắc là chủ đề. Nhưng động
lực thúc đẩy là không thể nhầm lẫn, và
tham chiếu giới hạn đối với
“nguồn lực của chính phủ Việt Nam”
hiện không c̣n đề ra. Newman kết luận
rằng sự thay đổi này đă mang lại
quyền lực mới trong các hành động chiến
đấu chống lại Bắc Việt do Hoa Kỳ
chỉ đạo hữu hiệu hơn. Hoạch định
hành động này bắt đầu từ đó, và
hiện nay chúng ta biết rằng một cuộc đột
kích theo kế hoạch OPLAN 34A vào tháng 8 năm 1964
đă gây hấn cho Bắc Việt trả thù chống
lại khu trục hạm Maddox, trở thành biến
cố đầu tiên trong Vịnh Bắc Bộ. Điều
này lần lượt dẫn đến sự cố
đầy rối rắm trong những đêm sau đó
trên tàu Turner Joy, để rồi có báo cáo rằng
Mỹ cũng đă bị tấn công, và quyết định
tức thời của Johnson để t́m kiếm
sự ủng hộ của quốc hội về
"trả thù" chống lại miền Bắc.
Tất nhiên, từ biến cố này, cuộc chiến
tranh lan rộng hơn. Đáp ứng cho cuốn sách
của Newman xuất hiện một cách nhanh chóng. Nó do
Noam Chomsky, nhưng hầu như ông không phải là
một nhà biện hộ cho Lyndon Johnson hay cho chiến
tranh. Chomsky khinh thường
những người biện hộ cho Kennedy: cho dù
họ là những người trong cuộc trước
đây và những người hoài niệm về
phản chiến – như Arthur Schlesinger và Oliver Stone - và
kư ức lịch sử của "người lănh
đạo đă nằm xuống, các người đă
tăng cường cho các cuộc tấn công chống
Việt Nam từ khủng bố đến xâm lăng."
Ông nhục mạ những nỗ lưc nhằm tô
vẽ lại quan điểm về chính sách ngoại
giao của Kennedy là khác với quan điểm của
Johnson. Về điểm này, về cơ bản, ông có
thể là chính xác, mặc dù v́ những lư do hoàn toàn
khác với những lư do mà ông trưng ra. Những suy nghĩ lại
của Chomsky thách thức những điểm chính
của Newman. Đầu tiên, có phải Kennedy đă có
kế hoạch rút lui mà không chiến thắng không?
Hoặc là các kế hoạch theo Giác thư NSAM 263 có
dựa trên nhận thức tiêp nối theo thành công trên
chiến trường không? Thứ hai, thay đổi
trong Giác thư NSAM 273 giữa bản dự thảo (đă
được chuẩn bị cho Kennedy nhưng Kennedy chưa
bao giờ thấy) và phiên bản cuối cùng (do Johnson
kư) đă biểu lộ một sự thay đổi
trong chính sách không? Chomsky cả quyết trên
cả hai vấn đề: "Hai tuần trước
khi vụ ám sát Kennedy, không có một đoạn văn
nào trong hồ sơ nội bộ dày đặc mà
thậm chí có gợi ư cho việc rút lui mà không
chiến thắng." Ở một chổ khác, ông lưu
ư rằng "chủ đề rút quân mà không
chiến thắng dựa trên giả định rằng
Kennedy nhận thấy các báo cáo quân sự lạc quan là
không chính xác. . . . Không có dấu vết chứng
cứ hỗ trợ thể hiện trong hồ sơ
nội bộ, hoặc được đề ra
[bởi Newman]. ”Và, đối với những thay đổi
đối với Giác thư NSAM 273: “Không có sự khác
biệt có liên quan giữa hai tài liệu [bản dự
thảo và bản chung quyết], ngoại trừ phiên
bản của Johnson là yếu hơn và có nhiều
lẩn tránh hơn.” Chomsky phủ nhận lời cáo
buộc của Newman rằng phiên bản mới của
đoạn 7 trong bản dự thảo chung quyết
của Giác thư NSAM 273 được Johnson kư vào ngày
26 tháng 11 đă mở đường cho kế
hoạch OPLAN 34A và việc sử dụng các lực lượng
do Mỹ chỉ huy trong các hoạt động bí
mật chống lại Bắc Việt. Thay vào đó, ông
đọc phiên bản của Johnson chỉ áp dụng
cho các lực lượng của Chính phủ Việt
Nam, mặc dù ngôn ngữ hạn chế hành động
đối với các lực lượng này không c̣n
trong bản văn đó nữa. Peter Dale Scott, một cựu viên
chức ngoại giao, giáo sư Anh ngữ tại Đại
học California, Berkeley, và là tác giả của một
phần của tác phẩm Pentagon Papers, đă trả
lời tức khắc cho Chomsky trên cả hai điểm. Về điểm đầu
tiên, rút lui mà không chiến thắng, Scott viết: Theo [Leslie] Gelb, Chomsky cáo
buộc rằng kế hoạch rút lui của Kennedy là
để đáp lại một “sự đánh giá
lạc quan vào giữa năm 1962 . . . Nhưng thực ra,
kế hoạch được McNamara đề ra đầu
tiên vào tháng 5 năm 1962. Đây là chuyện một tháng
sau khi đại sứ Kenneth Galbraith, thất vọng sau
một chuyến thăm Việt Nam theo lệnh của
Tổng thống, ông đă đề xuất một
"giải pháp chính trị" một phần dựa
trên việc cho Liên Xô tham gia cứu xét việc
triệt thoái theo từng giai đoạn của
Mỹ.” Scott tiếp tục chỉ ra
rằng không thể chứng minh là khuyến cáo của
Galbraith là có trách nhiệm cho mệnh lệnh của
McNamara. Nhưng có lư do chính đáng để tin
rằng cả hai liên kết nhau, cả hai đều
phản ánh chiến lược dài hạn của Kennedy
đối với Việt Nam.6 Về đề xuất
cho là không có bằng chứng cho thấy có việc
triệt thoái mà không có chiến thắng, Scott lập
luận rằng "hồ sơ về hoạch định
trong nội bộ" của Chomsky, mà nó là một
phần lớn của Pentagon Papers“, thực tế là
một phiên bản đă chỉnh sửa từ các
hồ sơ nguyên thủy.” Hơn nữa, “hồ sơ
lưu trử là khiếm khuyết rơ ràng” vào tháng 11
năm 1963. “Trong tất cả ba ấn phẩm của
Pentagon Papers, không có tài liệu hoàn chỉnh giữa năm
lần điện tín vào ngày 30 tháng 10 và Giác thư
của McNamara vào ngày 21 tháng 12; 600 trang tài liệu
của chính quyền Kennedy kết thúc vào ngày 30 tháng
10.” Về điểm thứ hai,
liên quan đến Giác thư NSAM 273, Scott viết
rằng Chomsky đọc Giác thư NSAM của Johnson như
thể không có đặt nó trong ngữ cảnh như
trong tác phẩm "Dead Sea Scroll", ông bỏ qua
tầm quan trọng của nó và xem thường
“những phúc tŕnh đầu tiên như là một
'quyết định quan trọng', một hứa
hẹn sẽ quyết định cho mọi sự
sẽ theo sau, do các kư giả khác nhau như Tom Wicker,
Marvin Kalb và I. F. Stone. Scott đă viết rằng Chomsky cũng
bỏ qua Giác thư của Taylor gởi cho Tổng
thống Johnson ngày 22 tháng 1 năm 1964, trong đó trích
dẫn Giác thư NSAM 273 là có thẩm quyền để
"chuẩn bị để leo thang hoạt động
chống Bắc Việt." Trong tiến tŕnh tranh luận
này, điểm nền tảng thu hẹp lại rơ nét.
Sau khi tác phẩm của Newman ra đời, không có ai
tranh luận nghiêm túc rằng Kennedy đang dự tính rút
khỏi Việt Nam. Thay vào đó, những bất đồng
tập trung vào bốn vấn đề: Các kế
hoạch triệt thoái có phụ thuộc vào nhận
thức về chiến thắng không? Kennedy có hành động
đúng với kế hoạch của ông không? Những
hành động mà ông có thể đă gây ồn ào, nhưng
có tác dụng phô trương, có phải là một
chiến thuật gây áp lực nhắm vào ông Diệm
hay tạo lợi thế đối với công chúng
Mỹ, hay là các hành động này là thực tê? Và có
phải các hoạt động của Kế hoạch
OPLAN 34A đă được tiến hành sau cái chết
của Kennedy là một sự tách biệt rơ ràng
với chính sách trước đây của Hoa Kỳ hay
chỉ là hoạt động của “Chính phủ
Việt Nam” phụ thuộc với việc tăng cường
chiến tranh ở miền Nam? Việc phát hành tác phẩm In
Retropspect của McNamara đă làm rơ thêm các điều
kiện tranh luận. Một số ngưồn tài
liệu chính, bao gồm các báo cáo McNamara-Taylor và Giác thư
NSAM 263 và 273 đă công khai trong nhiều năm. Các câu
chuyện kể của McNamara vào năm 1995 về
nhiệm vụ của ông vào tháng 9 năm 1963 tại
Việt Nam đă sử dụng báo cáo McNamara-Taylor và các
trích dẫn được tŕnh bày là một công tŕnh
nghiên cứu c̣n trong mơ hồ. Chiến dịch quân sự
đă đạt được tiến bộ lớn
lao và tiếp tục tiến triển. . . . Có những căng
thẳng chính trị nghiêm trọng ở Sài G̣n. . . . Các
hành động đàn áp nhiều hơn của ông
Diệm và ông Nhu có thể thay đổi xu hướng
quân sự thuận lợi trong hiện tại. . . .
Chuyện không rơ rằng là liệu Hoa Kỳ gây áp
lực sẽ giúp cho ông Diệm và ông Nhu tiến
tới mức dung hoà không. . . . Các triển vọng
về một sự thay đổi cho chế độ
sẽ cải thiện dường như khoảng 50-50. Chúng tôi đề nghị
rằng: [1] Tướng Harkins duyệt xét với ông
Diệm về những thay đổi quân sự cần
thiết để hoàn thành chiến dịch quân sự
ở miền Bắc và miền Trung vào cuối năm
1964, và ở vùng châu thổ vào cuối năm 1965. [2]
thiết lập một chương tŕnh huấn
luyện cho người Việt trong các chức vụ
chủ yếu mà hiện nay do quân đội Mỹ
đảm trách. Việc này có thể được
thực hiện bởi người Việt vào cuối
năm 1965. Rút đi số lượng lớn nhân viên
Mỹ vào thời điểm đó là khả thi. [3] Phù
hợp với chương tŕnh đào tạo dần
dần cho người Việt để đảm
nhiệm các chức vụ quân sự, Bộ Quốc pḥng
sẽ công bố trong tương lai gần nhất các
kế hoạch được chuẩn bị hiện
nay là rút 1000 nhân viên quân sự Mỹ vào cuối năm
1963. Sau đó, báo cáo tiếp
tục đưa ra một số khuyến nghị để
"gây cho ông Diệm có ấn tượng về
sự bất b́nh của chúng ta đối với chương
tŕnh chính trị của ông." Những vấn đề
này liên quan đến việc đàn áp Phật tử
và các vấn đề liên hệ; khuyến cáo công
bố các kế hoạch rút 1.000 binh sĩ không
được liệt kê trong đoạn này. Lư do cho sự mơ hồ
về t́nh h́nh quân sự, cũng như câu nói mơ
hồ “nó có thể thực hiện được”
theo lời khuyến cáo thứ hai, trở nên rơ ràng hơn
khi McNamara mô tả cuộc họp Hội đồng An
ninh Quốc gia ngày 2 tháng 10 năm 1963, cho thấy
“thiếu tất cả về sự đồng
thuận” về t́nh h́nh chiến trường: Một nhóm tin rằng có
tiến bộ quân sự tốt đẹp và huấn
luyện tiến triển đến mức mà chúng ta có
thể bắt đầu triệt thoái. Nhóm thứ hai
không nh́n thấy là cuộc chiến đang tiến
triển tốt và miền Nam không có bằng chứng
cho thấy về huấn luyện là thành công. Nhưng
họ cũng đồng ư rằng chúng ta nên bắt
đầu rút lui. . . . Nhóm thứ ba, đại diện
cho đa số, cho là người Việt có thể
đào tạo được, nhưng tin rằng
việc đào tạo của chúng ta để thay thê
đă không đủ lâu dài để đạt
được kết quả và do đó, nên tiếp
tục ở mức độ hiện tại. Khi McNamara kể chuyện
lịch sử vào năm 1986, kư gởi các tường
thuật vào Thư viện Lyndon Baines Johnson, ông nêu rơ
(nhưng cuốn sách của ông không ghi rơ), ông chính là
người trong nhóm thứ hai, người ủng
hộ rút quân mà không chiến thắng - không nhất
thiết phải thừa nhận hoặc thậm chí
dự đoán thất bại, nhưng chấp nhận
sự bất trắc về những ǵ sẽ theo sau. Trích
đoạn kế tiếp được đưa ra
sau đó: Sau nhiều cuộc tranh
luận, tổng thống đă ủng hộ đề
nghị của chúng tôi là rút 1.000 quân trước ngày
31 tháng 12 năm 1963. Tôi nhớ lại rằng ông đă
làm như vậy mà không nêu lập luận. Trong
mọi trường hợp, v́ có nhiều phản đối
dữ dội và v́ tôi nghi ngờ những người
khác có thể cố gắng khiến cho ông đảo
ngược quyết định, tôi thúc dục ông công
bố chính thức quyết định này. Điều
đó sẽ đặt vấn đề trong cụ
thể. . . . Cuối cùng, Tổng thống đă đồng
ư, và thông báo được Pierre Salinger phổ
biến sau cuộc họp. Trước một cử
toạ đông đảo tại Thư viện LBJ vào
ngày 1 tháng 5 năm 1995, McNamara đă tái xác nhận câu
chuyện kể của ḿnh về cuộc họp này và
nhấn mạnh tầm quan trọng của nó. Ông xác
nhận rằng hành động của Tổng thống
Kennedy có ba yếu tố: (1) rút lui toàn bộ "vào ngày
31 tháng 12 năm 1965," (2) rút 1.000 quân đầu tiên
vào cuối năm 1963, và (3) thông báo công khai, để
đặt các quyết định này "trong cụ
thể. McNamara cũng bổ sung thông tin quan trọng
rằng có một cuốn băng ghi âm của cuộc
họp này trong Thư viện John F. Kennedy ở Boston, nơi
ông truy cập đựơc câu chuyện đă đề
cập. Sự tồn tại của
một hệ thống băng ghi âm trong Văn pḥng
Bầu dục của John.F.Kennedy đă được
biết đến qua nhiều năm, đặc
biệt là thông qua việc phổ biến một
phần các bản kư tự các cuộc họp lịch
sử của “ExComm” trong cuộc khủng hoảng
về vũ khí nguyên tử tại Cuba vào tháng 10 năm
1962. Nhưng toàn văn các băng ghi âm của Kennedy là
không được biết đến. Theo McNamara,
quyền truy cập các băng ghi âm đặc biệt
được kiểm soát chặt chẽ bởi các
đại diện của gia đ́nh Kennedy. Khi McNamara nói
chuyện ở Austin, chỉ có ông và Brian VanDeMark, đồng
tác giả của ông, đă được cấp
đặc quyền nghe những bản ghi âm thực
sự của các cuộc họp của Kennedy tại Toà
Bạch Ốc về vấn đề Việt Nam. Tuy nhiên, vào năm 1997, t́nh
trạng này đă thay đổi. Ủy ban Xét duyẽt
Hồ Sơ về vụ ám sát (The Assassination Records
Review Board, ARRB), một cơ quan dân sự độc
lập được thành lập theo Đạo
luật về Hồ sơ của JFK vào năm 1992 (The
1992 JKF Records Act) đă chịu trách nhiệm cho phổ
biến hàng triệu trang hồ sơ chính thức, mà
được cho là có liên quan đến vụ ám sát
Kennedy, luật này quy định rằng các băng ghi
âm của ông liên quan đến quyết định
về Việt Nam phải được phổ
biến. Vào tháng 7, Thư viện JFK đă bắt đầu
cho phổ biến các băng ghi âm chính, bao gồm
cả các cuộc họp rút quân vào ngày 2 và 5 tháng 10 năm
1963.7 Một cuộc xét duyệt
cẩn trọng về phiên họp ngày 2 tháng 10 cho
thấy rơ là chuyện kể của McNamara chủ
yếu là chính xác và dù thậm chí ở mức độ
nào đó được đề cập ít hơn. Người
ta có thể nghe McNamara-giọng nói không thể nhầm
lẫn được- ông lập luận về
thời biểu xác định để rút tất
cả các lực lượng Mỹ ra khỏi Việt
Nam, cho dù chiến tranh có thể thắng trong năm
1964 hay không, dù ông có nghi ngờ. McNamara nhấn
mạnh: "Chúng ta cần một cách để thoát
khỏi Việt Nam, và đây là một cách để làm
điều đó." Cuộc thảo luận trong tác
phẩm In Retrospect về quyết định rút quân
của Kennedy kết thúc vào thời điểm này.
McNamara không đề cập đến Giác thư NSAM
263. Tuy nhiên, trên băng thu âm của cuộc họp ngày
5 tháng 10 năm 1963, người ta có thể nghe rơ
một giọng nói-có thể là Robert McNamara hay McGeorge
Bundy-yêu cầu Tổng thống John F. Kennedy chấp
thuận chính thức về "Đề mục
một, hai, và ba" trên một tờ giấy trước
mặt họ. Chuyện rơ ràng là một trong những
đề mục này là khuyến nghị rút 1.000 người
vào cuối năm 1963, biện minh cho việc này th́
họ cho không c̣n cần thiết nữa. Do đó,
cuộc trao đổi ngắn này rơ ràng là yêu cầu
về một quyết định chính thức của
tổng thống liên quan đến các khuyến
nghị của McNamara-Taylor. Sau cuộc thảo luận
ngắn về hậu qủa chính trị có thể
xảy ra ở Việt Nam khi công bố quyết định
này, tiếng nói của JFK có thể được nghe
rơ ràng: "Hăy tiếp tục và làm điều đó",
theo sau là một vài từ được nhà sử
học George Eliades giải mă là "không tuyên bố công
khai về việc này.” Chuyện không may là băng ghi
âm cuối cùng tại Toà Bạch Ốc của chính
quyền Kennedy được ghi là ngày 7 tháng 11 năm
1963. Các nhân viên lưu trữ tại Thư viện JFK
không có thông tin về lư do tại sao các băng ghi âm
bị kết thúc hoặc các băng của những ngày
sau đó không có. McNamara nói rằng ông đă "không
nhớ rơ cụ thể" của Hội nghị
Honolulu mà ông đă được phái đến để
chủ toạ vào ngày 20 tháng 11 năm 1963. Các tài liệu quân sự Tổng thống Hoa Kỳ không
ra các quyết định mà không có cơ sở. Các cơ
quan phải được thông báo, các kế hoạch
phải được đề ra, các hành động
phải được thực hiện. Một phần
nghi ngờ c̣n kéo dài về quyết định của
Kennedy trong việc rút quân khỏi Việt Nam chắc
chắn bắt nguồn từ sự thất bại
của quyết định này tạo ra các mờ ám
trong hồ sơ gốc, và đặc biệt là trong tài
liệu Pentagon Papers, mà rất nhiều sử gia đă
dựa vào đó trong nhiều năm. Hơn nữa,
một người luôn hoài nghi vẫn có thể
chỉ ra giọng văn “việc này phải được
làm” của Báo cáo McNamara-Taylor liên quan đến ngày
cuối cùng của năm 1965 khi đề ra trường
hợp rút quân khi t́nh h́nh quân sự có thể trở
nên tệ hại. Trong hai năm và hai tháng, nhiều
chuyện có thể xảy ra, như các biến động
sẽ chứng minh Nhưng như Scott đă
chỉ ra cho Chomsky vào năm 1993, hồ sơ chính
gốc c̣n khả dụng cho đến ngày nay đă
được chỉnh sửa rất nhiều. Các tài
liệu từ ngày 1 tháng 11 năm 1963, đến đầu
tháng 12 là thiếu sót rất dể nhận ra. V́
vậy, bây giờ chúng ta mới biết là các tài
liệu khác cũng vậy Vào tháng 1 năm 1998, một
lần nữa, dưới sự giám sát của ARRB,
khoảng 900 trang tài liệu mới đă được
giải mă và công bố từ các kho văn khố lưu
trữ của JCS. Chúng bao gồm các hồ sơ quan
trọng từ tháng 5 năm 1963, từ tháng Mười,
và từ thời kỳ ngay sau khi Kennedy chết;
nhiều tài liệu đă được xét duyệt
để giải mật vào năm 1989, nhưng không
được phép giải mật vào thời điểm
đó. Các tài liệu làm sáng tỏ một cách đáng
kể về tính chất của "các kế hoạch
chuẩn bị trong hiện tại" được
đề cập trong khuyến cáo thứ ba của
McNamara-Taylor, và nó đưa ra cách giải thích của
giới lănh đạo quân sự về chỉ đạo
nhận được từ J.F. Kennedy. V́ được
biết Ngũ Giác Đài không ủng hộ việc rút
quân, nên thật là công bằng khi cho rằng c̣n
tồn tại nhiều điểm không rơ trong các hướng
dẫn của Tổng thống, việc này c̣n thể
hiện trong các tài liệu này. Một vài tài liệu mới
liên quan đến Hội nghị lần thứ tám
của Bộ trưởng Quốc pḥng được
tổ chức tại Honolulu vào ngày 6 tháng 5 năm 1963.
Ở đây, người ta nhận ra một cảm tường
hoài nghi của McNamara và các lời đáp ứng
từ các giới chức cấp cao. Ví dụ, tại
một thời điểm khi Bộ trưởng trích
ra một lời nhân nhượng rằng "50-60
phần trăm vũ khí của Việt Cộng có
nguồn gốc từ Hoa Kỳ." Sau đó, chúng ta
đọc: "Tướng Harkins xác định
rằng để kiểm soát hiệu quả biên
giới cần được xác định, đánh
cột móc và xác định tương tự như
ranh giới Hy Lạp với Albania và Bulgaria. Tuy nhiên,
điều này không thể được thực
hiện trong tương lai gần.” Chuyển sang sự phát
triển của một "kế hoạch toàn
diện", các tài liệu phản ảnh ngay các
cuộc thảo luận về giai đoạn cắt
giảm sự hiện diện của Hoa Kỳ. Ví
dụ: “Bộ trưởng McNamara đă xác định
rằng những nỗ lực của chúng ta cần
được hướng đến việc chuyển
giao các trang thiết bị hiện tại ở các
đơn vị Hoa Kỳ để hỗ trợ cho người
Việt càng nhanh càng tốt. Ông nói thêm rằng chúng ta
phải tránh tạo ra một t́nh huống mà hiện
nay ở Hàn Quốc xảy ra, nơi chúng ta hiện
đang chi gần nửa tỷ đô la mỗi năm
cho ngoại viện. Sau đó, chúng tôi t́m thấy
một quyết định đă được ghi là:
“1. Lập các kế hoạch đào tạo cho QLVNCH
sẽ cho phép chúng ta bắt đầu rút lui nhân viên
của Hoa Kỳ sớm hơn theo đề xuất
của kế hoạch đă đệ tŕnh.” Và:“ d.
Hoạch định việc rút 1000 nhân viên quân sự
Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam vào tháng 12 năm 1963.” Thảo luận thêm về
việc rút 1.000 người được ghi âm
ngắn: Tướng Harkins nhấn
mạnh rằng ông không muốn gom lại 1.000 nhân viên
của Hoa Kỳ và để họ khởi hành có các
ban nhạc tŕnh diển và cờ bay .v.v . .. Điều
này sẽ ảnh hưởng xấu đến người
Việt, rút quân vào đúng lúc mà có vẻ như là
họ đang thắng. Bộ trưởng McNamara nói
điều này sẽ phải được xử lư
cẩn thận do tác động tâm lư. Tuy nhiên, cần
có một chương tŕnh đào tạo cấp
tốc cho QLVNCH để cho phép các đơn vị
Mỹ ra đi hơn là cho từng các cá nhân. Có các thảo luận quan
trọng theo sau về các đề xuất khởi
động các cuộc đột kích miền Bắc. V́
các lư do chiếu theo hiệp ước Geneva, có
thỏa thuận cho là công việc này phải là bí
mật. Việc sử dụng đất Lào là không
khả thi; không có các việc thâm nhập bằng
đường bộ xuyên qua khu phi quân sự. Đối với việc thâm
nhập bằng đường biển, tàu thuyền
khả dụng dễ đạt được do
thời tiết và quá chậm. Biển là phương
tiện duy nhất để đào thoát. Tuy nhiên, đối
với bất kỳ hoạt động chủ yếu
nào, lực lương hải quân VNCH không đủ
điều kiện để đối phó lực lưông
hải quân của VNDCCH. . . . Xây dựng nguồn
lực của CIA vào cuối năm 1963 bao gồm 40 toán
và 9 toán trong nước. Những chiếc tàu vũ
trang mới với tốc độ cao có thể sử
dụng để xâm nhập và đào thoát vào tháng Chín,
cung cấp khả năng quanh năm, mọi thời
tiết. Do đó, Chomsky có câu trả
lời cho một trong những câu hỏi quan trọng khác
riêng biệt của Newman và Scott. Khi kế hoạch OPLAN
34A đặt ra vào tháng 11, đó là một hoạt
động của CIA. Không thể khác được,
v́ Chính phủ Việt Nam không sở hữu các tàu
thuyền.8 Cuối cùng, thảo luận
chuyển sang vân đề các cấu trúc lực lượng
được dự phóng, và một thời biểu có
tiêu đề “CPSVN - DỰ BÁO RÚT QUÂN THEO GIAI ĐOẠN
CAC LỰC LỰỢNG HOA KỲ” đưa ra các ước
tính chính xác, theo từng đơn vị chính, của
cam kết dự kiến của Mỹ trong năm 1968.
Phản ứng của McNamara về thời biểu này
được ghi lại rơ ràng Trong sự kết nối
với việc đệ tŕnh này, được
thực hiện bởi COMUSMACV (kèm theo đây), Bộ trưởng
Quốc pḥng tuyên bố rằng giai đoạn rút quân
dường như quá chậm. Ông chỉ đạo các
kế hoạch đào tạo cho Chính phủ Việt Nam
được cơ quan CINCPAC xây dựng, nó sẽ cho
phép việc rút lực lượng Mỹ nhanh chóng hơn,
nói cho rơ rằng là chúng ta nên xem xét kế hoạch
huấn luyện phi công nhằm tăng tốc cho kế
hoạch về mặt vật chất. Ông đă
đưa ra một điểm đặc biệt
về sự mong muốn tăng tốc huấn luyện
các phi công trực thăng, để chúng ta có thể
cung cấp cho người Việt những các phi công
trực thăng của chúng ta và do đó có thể
triệt thoái lực lượng của chúng ta ra
khỏi. Tham mưu Liên quân (J-3): ĐỂ THI HÀNH,
CINCPAC: để thông báo chỉ thị, COMUSMACV: để
tường (Tác giả nhấn mạnh) Do đó, hội nghị tháng
5 thay thế cho hồ sơ chính gốc: các kế
hoạch đang được khai triển để rút
toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ ra khỏi
Việt Nam. Vào ngày 2 tháng 10 năm 1963, như chúng ta
đă thấy trước đây, Tổng thống
Kennedy đă làm rơ quyết tâm để thực
hiện những kế hoạch đó - rút 1.000 quân vào
cuối năm 1963, và hầu hết số c̣n lại
được rút vào cuối năm 1965. Sau đó, vào
ngày 4 tháng 10, có một bản Giác thư có tựa
đề “Các Hành động tại Nam Việt Nam”
của Tướng Maxwell Taylor gởi cho các Tướng
May, Wheeler, Shoup và Đô đốc McDonald trong Tham mưu
trưởng Liên Quân, với nội dung: b. Chương tŕnh đang
được tiến hành để đào tạo cho
quân đội người Việt sẽ được
xét duyệt và tăng tốc khi cần thiết để
đảm bảo rằng tất cả các nhiệm
vụ chủ yếu được h́nh dung cho môi trường
hoạt động theo dự kiến, bao gồm
những nhiệm vụ trong hiện tại do các
đơn vị và nhân viên quân đội Hoa Kỳ
đảm trách, tất cả có thể giao lại cho
nguùi Việt đảm đương vào cuối
năm 1965. Tất cả các kế hoạch sẽ
được hướng tới việc chuẩn
bị cho quân đội VNCH để thay cho tất
cả các đơn vị hỗ trợ đặc
biệt và nhân viên của Hoa Kỳ rút đi vào
cuối năm 1965. (Tác giả nhấn mạnh) "Tất cả các kế
hoạch" là một câu nói vô điều kiện.
Ở đây hoặc ở nơi khác trong bản giác thư
này không có kế hoạch dự pḥng. Nôi dung đoạn
tiếp theo là: c. Thực hiện kế
hoạch rút 1.000 nhân viên quân sự Hoa Kỳ vào
cuối năm 1963 cho mỗi DTG 212201Z tháng 7 và được
phê duyệt để lập kế hoạch bởi JCS
DTG 062042Z tháng 9. Hướng dẫn trước đây
trong bảng phụ lục về công vụ được
thay đổi trong phạm vi mà hành động này
sẽ được xử lư ở mức thấp, như
sự gia tăng ban đầu của các lực lượng
Mỹ mà sự hiện diện không c̣n cần
thiết v́ (a) quân đội Việt Nam đă
được đào tạo để đảm
nhận nhiệm vụ liên quan; hoặc (b) nhiệm
vụ mà họ đến Việt Nam nay đă
được hoàn thành. (Tác giả nhấn mạnh) Điều này giải
quyết vấn đề về cách rút quân ban đầu
được thực hiện như thế nào. Nó không
phải là một chuyện có tác dụng ồn ào hay tô
vẽ, được đề ra để làm hài ḷng
cho công luận của Mỹ hoặc là thay đổi các
chính sách ở Sài G̣n. Đúng ra. đó là một
sự khởi đầu ít quan trọng nhưng
thực tế đối với một tiến tŕnh
sẽ diễn ra trong hai năm tiếp theo. Đoạn văn
cuối cùng trong bản Giác thư của Taylor nhấn
mạnh điểm này bằng cách chỉ đạo
rằng “các điểm kiểm soát cụ thể
sẽ được đề ra ngay theo tiến độ
nào có thể được đánh giá qua từng quư
một.” Trong các tài liệu của JCS cho thấy có
nhiều hơn nữa rằng Kennedy đă nhận
thức rơ về bằng chứng thực tế Nam
Việt Nam đang thất baị trong cuộc chiến.
Nhưng hầu như nó không quan trọng. Việc rút
quân được quyết định là vô điều
kiện, và không phụ thuộc vào tiến bộ quân
sự hay không có việc tiến bộ. Leo thang sau cái chết của
Kennedy Bốn ngày sau khi Kennedy bị
giết, Giác thư NSAM 273 đă được kết
hợp chung vào trong các chỉ thị về chính sách
của tân tổng thống. Giác thư nêu rơ là các
mục tiêu về chính sách của Johnson vẫn
giống như chính sách của Kennedy: “hỗ trợ dân
chúng và chính quyền miền Nam Việt Nam giành
chiến thắng cuộc thử thách chống lại âm
mưu của Cộng sản do ngoại bang hỗ
trợ và chỉ đạo” thông qua huấn luyện
hỗ trợ và không áp dụng các lực lượng
quân sự Mỹ công khai. Nhưng Johnson cũng đă phê
duyệt kế hoạch tăng cường về các
hoạt động bí mật chống lại Bắc
Việt bởi các lực lượng Nam Việt Nam do
CIA hỗ trợ. Với
điều này, McNamara xác nhận một trong những
luận điểm chính của Newman: Giác thư NSAM 273
đă thay đổi chính sách. Đúng, "mục tiêu
chính" vẫn giữ nguyên: một cuộc chiến
tranh Việt Nam không có "lực lượng quân
sự công khai của Hoa Kỳ". Nhưng lực lượng
bí mật vẫn là "lực lượng quân sự
Hoa Kỳ. ”Và việc này đă được đề
ra hoặc ít nhất được chấp thuận
đầu tiên, như McNamara viết, do Giác thư NSAM
273 trong ṿng bốn ngày của vụ ám sát Kennedy. Hơn
nữa, McNamara hỗ trợ một cách tích cực cho
Newman về ư nghĩa của đoạn thứ bảy
của Giác thư NSAM 273, mà nó được đưa
vào bản dự thảo (như chúng ta đă thấy)
vào khoảng giữa ngày 21 và 26 tháng 11 — sau cuộc
họp Honolulu đă hoăn lại và có lẽ sau khi Kennedy
chết. Một
tài liệu quân sự cuối cùng có liên quan ở
đây, nó có tiêu đề “Hành động của
Bộ Quốc pḥng để thực hiện Giác thư
NSAM số 273, 26 tháng 11 năm 1963.” được ghi
ngày 11 tháng 12 năm 1963. Tài liệu này do Trung tá
Hải quân M. C. Dalby soạn thảo; nó nằm trong
hờ sơ tệp CINCPAC và được gắn nhăn
là “Nhóm 1 — Cấm tự động hạ cấp phân
loại và giải mật.” Tài liệu bắt đầu
một cách lạnh lùng: “Sau
khi duyệt lại các cuộc thảo luận gần
đây về miền Nam Việt Nam tại Honolulu và sau
khi thảo luận vấn đề sâu xa hơn với
Đại sứ Lodge, Tổng thống chỉ đạo
rằng một số hướng dẫn nhất định
được ban hành cho nhiều Cơ quan khác nhau
của Chính phủ. Điều này đă được
ban hành dưới h́nh thức Giác thư Hành động
An ninh Quốc gia 273, 26 tháng 11 năm 1963.” Không
có sự tham chiếu đối với sự thay
đổi của vị Tư lệnh, mà nó đă
xảy ra trong khoảng thời gian được
chỉ ra bởi câu mở đầu. Tầm quan
trọng đặc biệt của tài liệu này là
tham chiếu đến đoạn 7 của Giác thư
NSAM 273. Việc
hoạch định cho hành động tăng cường
chống lại Bắc Việt được chỉ đạo
sau Hội nghị Honolulu (JCS 3697, ngày 26 tháng 11 năm
1963) dưới h́nh thức một chương tŕnh 12
tháng. . . . 20 tháng 12 năm 63 là hạn chót đă
được đề ra để hoàn thành kế
hoạch. Sau
đó, có những bút chú ghi rằng các yêu cầu này
được thông báo tới hai cơ quan CINCPAC và
COMUSMACV vào ngày 2 tháng 12, COMUSMACV trả lời vào ngày 3
tháng 12. Tuy nhiên, hướng dẫn của trạm CIA
đă xảy ra nhanh hơn: Hướng
dẫn của CIA cho Trạm Sài G̣n cho kế hoạch tăng
cường được gửi đi sau Hội
nghị Honolulu (CAS 84972, 25/11/63). (Tác giả nhấn
mạnh) Nói
cách khác, CIA bắt đầu khai triển các kế
hoạch tăng cường để thực thi
kế hoạch OPLAN 34A, chương tŕnh đột kích
trên biển và phá hoại Bắc Việt mà nó dẫn
đến sự cố Vịnh Bắc Bộ và
cuối cùng là chiến tranh lan rộng hơn, một ngày
trước khi Tổng thống Johnson kư chỉ thị
cho phép hành động. Làm thế nào việc này
xảy ra, và ư nghĩa chính xác của nó vẫn c̣n
phải được xác định.9 Kết
luận John
F. Kennedy đă chính thức quyết định rút
khỏi Việt Nam, cho dù chúng ta có thắng hay không.
Robert McNamara, người không tin rằng chúng ta
thắng, ủng hộ cho quyết định này.10 Giai
đoạn đầu tiên của việc rút quân đă
được đề ra. Ngày cuối cùng, hai năm
sau, đă được quy định. Những
quyết định này đă được thực
hiện, và thậm chí đặ thu xếp, trong một
cách giới hạn cẩn thận và gián tiếp trước
khi đưa ra cho công chúng. Howard
Jones có hai đóng góp lớn cho câu chuyện này.
Một trong số này chỉ thuần là tầm vóc
vấn đề, sự sâu xa và tính toàn diện.
Cuốn sách gần đây của ông Death of Generation là
một lịch sử đầy đủ về vụ
ám sát ông Diệm và sau đó là vụ ám sát của
của JFK đă làm kéo dài cuộc chiến như
thế nào mà nếu không, cuộc chiến có thể
đă kết thúc trong lặng lẽ trong ṿng một vài
năm. Khi bài viết này đă tŕnh bày câu chuyện
trong một câu chuyện chỉ trong vài tuần ở
Washington, Jones quay trở lại đầu thập niên
1960, biên soạn theo ngày tháng về cuộc tranh
quyền và chính sách đánh dấu toàn bộ trong ngàn
ngày của Kennedy. Ông tŕnh bày câu chuyện toàn bộ
một cách hợp lư của hồ sơ lưu trữ
xung quanh các quyết định rút quân của tháng 10 năm
1963. Cũng
quan trọng không kém là phạm vi nghiên cứu của
Jones mở rộng đến Sài G̣n. Trong một
phần dài và hấp dẫn, ông vạch ra những âm
mưu dẫn đến những vụ giết ông
Diệm và Bào đệ Ngô Đ́nh Nhu vào ngày 1 tháng 11
năm 1963. Tại đây, Toà Bạch Ốc của
Kennedy thể hiện ở mức tồi tệ
nhất. Nền chính trị Mỹ đă bị xáo
trộn, vô tổ chức, bận rộn, không biết
về các lực lượng nào mà Mỹ phải
đối phó ở Việt Nam. Sự ngược đăi
của ông Diệm đối với Phật tử,
điều này đă làm cho nhà sư Quang Đức
tự thiêu trên một con đường Sài G̣n vào tháng
6 năm 1963, làm tổn thương Toà Bạch Ốc. Và
sau biến cố đó, bà Nhu và những nhận xét
của bà về “những vị sư bị nướng”
gây kích động vựọt ra ngoài tầm quan
trọng của vấn đề. Do đó, một
phần nào, đó là quyết định tách rời
khỏi ông Diệm. Vào
tháng 8 năm 1963, một đoàn tùy tùng (Averell Harriman,
Roger Hilsman, Michael Forrestal), là những người đă
nắm cơ hội để khuấy động
cuộc đảo chính ở Sài G̣n, họ lợi
dụng sự vắng mặt của các quan chức
cấp cao nhất trong một cuối tuần ở
Washington. Sau đó, khi biến cố chuyển động,
Toà Bạch Ốc đă trở nên quan tâm đến
chuyện phủ nhận mà tất cả vấn đề
là hoàn toàn không thể thuyết phục. Một
phần kết quả là v́ Toà Bạch Ốc đă có
tiếp xúc hạn chế với những kẻ âm mưu
và không thể bảo vệ cho ông Diệm và Nhu khi
cuộc đảo chính xảy ra. Ông Diệm không
thể tự bảo vệ qua nhiều cách. Nhưng
cuộc đảo chính đă tiến hành mà không xét
đến một giải pháp khác khả thi; và khi
vị đại sứ Pháp tại Sài G̣n đưa ra
một giải pháp vào thời điểm đó:
“bất kỳ chính phủ nào khác sẽ phụ
thuộc nhiều hơn vào người Mỹ, sẽ
phục tùng họ trong tất cả mọi thứ, và
như vậy sẽ không có cơ hội cho b́nh yên.”
Trong khi đó, c̣n các chuyển động ngầm bên dưới
của những ǵ có thể đang xảy diển.
Liệu ông Như đang có các cuộc thảo luận
với các người trung gian đại diện cho ông
Hồ Chí Minh, với khả năng có thể có
một thỏa thuận giữa miền Bắc và Nam
để đẩy người Mỹ ra khỏi
Việt Nam? Có vẻ như ông Nhu đang làm. Và nếu
như ông Nhu đă thành công, chuyện này tránh
được biết bao nhiêu rắc rối. Chính
sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam đă
lại thay đổi vào cuối tháng 11 năm 1963. Thay
đổi chính là quyết định cho phép kế
hoạch OPLAN 34-A - những cuộc đột kích
nhỏ nhưng là sống chết chống lại các
mục tiêu ở miền Bắc. Quyết định
tung ra các cuộc tấn công bí mật miền Bắc
tự nó không tạo ra được chuyện Lyndon
Johnson muốn có một cuộc chiến lớn hơn.
Khi những cuốn băng ghi âm mới do Thư
viện LBJ phổ biến, Johnson cũng biết rằng
Việt Nam là một cái bẫy, một bi kịch đang
thành h́nh. Johnson sợ rằng một thảm họa
sẽ theo sau. Về mặt này, Johnson và Kennedy là tương
tự nhau. Tuy
nhiên, Johnson không thể tập hợp quyết tâm
của Kennedy, người ta có thể nói quyết tâm mù
quáng, để tránh thảm họa. Ông đă tán thành
các hoạt động bí mật, và ông đă hứa
với quân đội vào ngày 24 tháng 11 rằng họ có
thể có những ǵ họ muốn. Và do đó,
một chuỗi các diễn biến dẩn đến
vụ việc Vịnh Bắc Bộ, vụ trả thù
của chúng ta, vụ quyết định của
Bắc Việt đưa lực lượng chính quy
của họ vào miền Nam, và quyết định
của chúng ta đưa các lực lượng chủ
lực rút đi. Những ngày từ Hội nghị
Honolulu đến Giác thư NSAM 273, ngày 20 đến 26
tháng 11 năm 1963, chỉ đơn giản là đánh
dấu bước ngoặt đầu tiên. Không
có ǵ là khó hiểu tại sao Johnson cảm thấy
buộc phải khẳng định cam kết của ḿnh
đối với Việt Nam vào tháng 11 năm 1963. Để
tiếp tục sự rút lui của Kennedy, sau khi ông qua
đời, sẽ rất khó khăn, v́ công chúng Mỹ
không được cho biết là sẽ thua trong
cuộc chiến. Họ cũng không được cho
biết rằng Kennedy đă thực sự ra lệnh rút
quân. Do đó, để duy tŕ cam kết của chúng ta
là duy tŕ ảo tường của sự liên tục, và
chuyện này là mục tiêu chính trị tối cao
của Johnson ngay trong thời điểm đang bị
chấn thương sau vụ ám sát. Hơn nữa,
sự chậm trễ trong việc giải quyết
vấn đề Việt Nam vào cuối năm 1963 không
nhất thiết kéo theo cuộc chiến. Cam kết
của chúng ta sau đó vẫn c̣n nhỏ. Vịnh
Bắc Bộ và hậu quả của nó hầu như
nằm trong một năm của tương lai. Mặc
dù có các cuộc đột kích của lực lượng
biệt kích, một giải pháp ngoại giao có thể
đă được t́m thấy về sau này. C̣n
phải mang trọng trách, Lyndon Johnson phải giải
quyết tạm thời, khổ sở và nguyền
rủa về số phận. Nhưng cuối cùng, Johnson
đă cam kết với chúng ta về một cuộc
chiến mà ông biết trước là trong thực
tế sẽ không thể thắng cuộc. Không có ǵ có
thể xóa bỏ việc này. Tuy nhiên, trong khi đó, cùng
với McNamara, ông cũng ngăn cản bất kỳ
biện pháp nào có thể dẫn đến một
cuộc xâm lược miền Bắc, xung đột
trực tiếp với Trung Quốc và đối đầu
về vũ khí hạch tâm. Ông đă chờ thời
của ḿnh, măi cho đến khi bị tổn thương
trong dịp tấn công Tết vào tháng Giêng năm 1968 và
rời khỏi chính trường vào tháng Ba đă giúp
ông khỏi phài làm những ǵ Kennedy đă làm ở Lào
năm 1961: phái Harriman để chấm dứt vấn
đề tại bàn đàm phán.
*** Tại sao Johnson làm điều
đó? Ông không hiểu sai về triển vọng thành
công. Ông không điên cuồng. Số phận chính
trị của ông vào năm 1964 không phụ thuộc vào
việc bày tỏ sự bền bỉ. Nhưng như ông
đă nh́n thấy khả năng là các lựa chọn
thay thế khác là tệ hơn. Để đánh giá
khả năng này, người ta cần phải nắm
bắt không chỉ một mà là hai vấn đề
đặc biệt gai góc: một mặt, đó là
sự quân b́nh chiến lược trong những năm
đầu của thập niên 1960 và mặt khác,
vấn đề của vụ ám sát John F. Kennedy. Khi suy
ngẫm về t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan
của Johnson, chúng ta thấy ḿnh đă trong tư
thế sẵn sàng giữa hai hố đen của
lịch sử hiện đại của Hoa Kỳ.11 Khi Jones viết: "Quyết
định rút khỏi Việt Nam của Kennedy là vô
điều kiện, ông đă phê duyệt thời
biểu các diễn biến mà không đ̣i hỏi có
chiến thắng." Nó cũng là một phần trong
chiến lược lớn hơn, bao gồm cả phân
cảnh có các giải pháp của Lào và Berlin vào năm
1961, không xâm lược Cuba vào năm 1962, Hiệp ước
cấm thử nghiệm vũ khí vào năm 1963. Kennedy
đă đặt thời biểu của các diễn
biến này lệ thuộc vào chính trị: ông đă
chuẩn bị sẵn sàng để rút quân theo cách
nguy hại cho đến sau khi ông tái đắc cử.
Mục tiêu lớn hơn của Kennedy sau đó là
giải quyết vấn đề Chiến tranh Lạnh,
không có chuyện thắng hay bại - một tầm nh́n
chiến lược được tŕnh bày trong bài phát
biểu bắt đầu niên học của JFK tại
Đại học American vào ngày 10 tháng 6 năm 1963. Một phần đó là
vấn đề về sự tồn tại của vũ
khí nguyên tử - một chủ đề chỉ có
thể được nói là đă gây ám ảnh cho
giới lănh đạo dân sự của Mỹ trong
thời gian đó, và v́ có một lư do chính đáng. Liên
Xô, lúc đó chỉ có bốn hoả tiển liên
lục địa có khả năng đánh vào đất
liền Hoa Kỳ, không phải là mối nguy hiểm mà
những người suy nghỉ thuần lư lo sợ
nhất. Hoa Kỳ đă giử một lợi thế
về vũ khí hạch tâm ở mức áp đảo vào
cuối năm 1963. Theo đó, các kế hoạch về
vũ khí hạch tâm của chúng ta không thực sự
lo về ngăn chặn. Thay vào đó, sau đó
lại thành hiển nhiên như hiện nay, các
kế hoạch này h́nh dung cuộc chiến tranh pḥng
ngự dựa trên một lư cớ đưa ra 12. Đă
có những người tận ḷng đóng góp để
thực hiện những kế hoạch này vào thời
điểm thích hợp. Vào tháng 7 năm 1961, các nhà
hoạch định về vũ khí hạch tâm đă xác
định rằng thời điểm tối ưu cho
một cuộc tấn công như vậy sẽ đến
vào cuối năm 1963. Tuy nhiên, đứng chống
lại các kế hoạch này (như Daniel Ellsberg cho
biết vào thời điểm đó), các nhà lănh đạo
dân sự của Hoa Kỳ đă kiên định không
bao giờ, trong mọi trường hợp, để
cho phép vũ khí hạch tâm của Hoa Kỳ được
sử dụng đầu tiên - không phải ở Lào
hoặc Việt Nam, cũng không chống Trung Quốc, không
phải qua Cuba hay Berlin, cũng như không chống
lại Liên Xô. V́ các lư do chính trị, tại một
thời điểm khi người Mỹ đă
được tuyên truyền để suy nghĩ
về bom nguyên tử như là cách pḥng thủ tốt
nhất của họ, đây là bí mật sâu xa
nhất của thời đại. Đâu cũng là một bí
mật chết người? Có phải L. B. Johnson có lư
do để lo sợ, vào ngày ông nhậm chức,
rằng ông đang đối mặt với một
cuộc đảo chính bằng vũ khí hạch tâm không?
13 Các vấn đề tương tự đă gây ra gây
khinh miệt trong 40 năm qua. Nhưng các vấn đề
không phải là không chính danh - hăy để tôi mạo
muội nói rằng không c̣n ǵ hơn là ư tưởng
rằng Kennedy thực sự đă quyết định
từ bỏ Việt Nam. Có lẽ một ngày nào đó,
một nhà sử học sẽ trả lời các
vấn đề này cũng như Howard Jones đă
giải quyết vấn nạn Việt Nam. Trong khi đó,
chúng ta hăy hy vọng rằng chúng ta có thể học
hỏi điều ǵ đó về nhu cầu công
nhận và đối phó với thất bại của
chính sách. Và về sự thật đằng sau
những bí mật quốc gia đen tối nhất, chúng
ta cũng hy vọng rằng các nạn nhân của ngày
11 tháng 9 năm 2001, không phải chờ đợi quá lâu. *** Chú thích của tác giả 1. Tác phẩm JFK và Việt Nam
có một câu chuyện lạ thường, mà trong đó
tôi phải nhận là có một vai tṛ nhỏ. Khi sách
phát hành, Arthur Schlesinger Jr. đă viết một bài
điểm sách nơi trang bià của trong Tạp chí New
York Times Book Review. Nhưng khi khoảng 32.000 bản in sách
(theo Newman có hai bản in,) chỉ khoảng 10.000 bản
đă được bán trước khi NXB Warner Books
đột ngột ngừng bán sách loại b́a cứng
- một sự kiện mà tôi phát hiện ra vào mùa thu năm
1993, khi tôi cố gắng đưa sách cho vào chương
tŕnh cho ban cao học. Tôi đă gặp Newman vào tháng 11
năm 1993, một phần thông qua văn pḥng của Thư
viện LBJ. Cá nhân tôi đă than phiền với một
viên chức cấp cao của Time Warner, mà các can
thiệp của họ bảo đảm thu hồi
các tác quyền của ông. Tuy nhiên, bản sách b́a
cứng chưa bao giờ được tái phát hành và
không có sách b́a mềm nào xuất bản. 2. "Counterfactual Historical
Reasoning: NSAM 263 and NSAM 273,” mimeo for a conference at the LBJ
Library, 14–15 October 1993, published as “NSAM 263 and 273:
Manipulating History” in Lloyd C. Gardner and Ted Gittinger, eds.,
Vietnam: The Early Decisions (University of Texas Press, 1997). 3. Reeves, tác giả sách President
Kennedy: Profile of Power, đă lập luận trong
một bài giảng trên truyền h́nh tại Thư
viện LBJ vào đầu năm 1995. 4. Trong In a early contribution to
Vietnam: The Eaarly Decisions, Newman thêm một lư do sâu xa: vào
ngày 2 tháng 10, Kennedy đă cho phép McNamara và Taylor thông báo,
như theo ngày dự kiến của họ, việc
rút quân được hoàn tất vào năm 1965.
Chuyện không may là chỉ ba ngày sau đó, một
quyết định của tổng thống qui định
rơ về thời biểu mà thực tế ra là đă
tiên quyêt. 5. Số phận của các lính
biệt kích này xuất hiện trong tờ New York Times ngày
14 tháng 4 năm 1995, nơi có báo cáo rằng sau 30 năm
tù, nhiều người đă bị từ chối
nhập cảnh vào Hoa Kỳ v́ thiếu hồ sơ quân
vụ. 6. Cha tôi đă nói nhiều
lần rằng Kennedy đă gửi ông đến
Việt Nam "v́ ông ấy biết tôi không có tinh
thần cởi mở." 7. Tôi đă yêu cầu phổ
biến các băng ghi âm trong một bức thư
gửi ARRB vào tháng 11 năm 1996. 8. Theo Newman, CINCPAC đă khai
triển các kế hoạch này, nhưng họ đă không
tŕnh cho JFK. 9. Theo Newman, LBJ đă có
một giọng điệu hiếu chiến tại
cuộc họp đầu tiên tại Việt Nam với
tư cách là tổng thống vào ngày 24 tháng 11, và
McGeorge Bundy tăng thêm ngôn ngữ leo thang của Giác thư
NSAM 273 trong cuộc họp này. Tuy nhiên, theo bất
kỳ tiêu chuẩn nào, CIA đă thay đổi nhanh chóng,
và nhân chuyện này, nó dựa vào các cuộc thảo
luận ở Honolulu – mà nó xảy ra trong khi JFK vẫn
c̣n sống. 10. Trong phần tường
thuật này, tôi có cố t́nh xem nhẹ vai tṛ
của chính cha tôi, người đă nhiều lần kêu
gọi Kennedy đưa ra các lư lẽ ủng hộ
việc rút quân khỏi Việt Nam, và năm 1962 Kennedy
đề nghị rút lui có lẽ là cơ sở
của các lệnh trong năm 1963. Cha tôi không
biết rằng quyết định thực sự đă
được đưa ra vào tháng 10 năm 1963, nhưng
ông không nghi ngờ ǵ về quyết tâm của Kennedy:
ông nhớ lại Kennedy năm 1962 nói với ông một
cách riêng tư và không thể nhầm lẫn là rút
khỏi Việt Nam là vấn đề thời điểm
chính trị, như chuyện Lào và tách rời khỏi
Cuba, 11. Cha tôi có một kư ức rơ
ráng lạnh lùng về những lời nói của LBJ
đối với ông, trong chốn riêng tư, trong
một cuộc họp cuối cùng trước khi
chiến tranh Việt Nam đẩy họ xa cách nhau: “Ông
có thể không thích những ǵ tôi đang làm ở
Việt Nam, Ken, nhưng ông sẽ không tin chuyện ǵ
sẽ xảy ra nếu tôi không có ở đây.” 12. Heather Purcell và tôi ghi
lại những cơn ác mộng này trong một bài báo
xuất bản năm 1994 có tựa đề “Quân
đội Mỹ có kế hoạch tấn công bằng
vũ khí hạch tâm lần đầu tiên vào năm
1963 không?” Bài này vẫn c̣n trên trang web của American
Prospect. Khi tôi hỏi Walt Rostow nếu ông biết bất
cứ điều ǵ về cuộc họp của
Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 20 tháng 7 năm
1961 không (tại đó những kế hoạch này đă
được tŕnh bày),ông trả lời không do
dự: "Ông muốn nói về những người
muốn nổ tung thế giới?" 13. Không nghi ngờ ǵ về
sự nguy hiểm của chiến tranh với vũ khí
hạch tâm có trong tâm trí của Johnson. Nó cũng
giải thích những điểm quan trọng về hành
vi của ông trong lúc đó, bao gồm cả các
lệnh của ông cho Earl Warren và Richard Russell (trong
một cuộc gọi điện thoại của Richard
Russell có một bản ghi âm đă có sẵn từ lâu
trên trang web của C-SPAN) về việc họ thực
hiện việc ủy nhiệm như thế nào. Điểm
đáng ghi nhận là chỉ có một cách mà một
cuộc chiến có thể đă bắt đầu
tại thời điểm đó: Hoa Kỳ tấn công
trước chống Liên Xô. Phụ chú của dịch
giả Tác phẩm In Retrospect của
McNamara được viết sau khi ông rời khỏi
chức vụ. Khi nh́n lại toàn bộ bối cảnh
xung đột, McNamara cho rằng: "Chúng ta đă không
nêu lên năm vấn đề quan trọng: Sụp
đổ miền Nam có kéo theo sự sụp đổ
của Đông Nam Á và đe doạ cho an ninh phương
Tây không? Một loại chiến cuộc nào, quy ước
hay du kích, sẽ thành h́nh tại miền Nam? Khi Quân
đội Mỹ hợp tác với miền Nam, liệu
chúng ta có thắng không? Chúng ta có biết trả lời các
câu hỏi này trước khi quyết định
gởi quân đến miền Nam không?”. Dĩ nhiên,
Kennedy và các tổng thống kế nhiệm đă không
nghiêm túc trả lời các câu hỏi này, kể cả
McNamara. Hơn ai hết, McNamara không thể hiện tinh thần tương kính và am tường văn hoá Việt Nam. Khi đến Việt Nam, ông thản nhiên mặc quần ngắn mùa hè trong khi chính quyền tiếp đón theo lể nghi quân cách dành cho một quốc khách và mang quốc phục trang trọng. McNamara thể hiện tinh thần đạo đức giả khi trong nội tâm không tin Mỹ sẽ thắng cuộc, nhưng ngoài mặt, ông đă đến từng Sư đoàn và các tỉnh của VNCH có tổ chức các buổi lể và hô hào chung là chúng ta sẽ chiến thắng. Thái độ này đă bị chỉ trích sau khi sách của ông ra đời. |