Chiến trường
Việt Nam những con số biết nói |
Nhân một chuyến về quê thăm gia đ́nh, tôi có dịp đi thăm bà con ở nhiều tỉnh Miền Tây - Đồng bằng sông Cửu Long, "những kỷ niệm xưa c̣n gợi ta chi?!" (một câu thơ của một nhà thơ) như là những mũi kim đâm vào da thịt, làm cho tôi nhớ lại chiến trường xưa ở Miền Tây đă nuốt trọn những năm tháng trai trẻ tươi đẹp nhứt cúa tôi - từ năm 1963 đến năm 1970. Thời
oanh liệt, nay c̣n đâu?! Sau hơn nửa thế
kỷ, bây giờ đă qua tuổi 80, kỷ niệm
chiến trường xưa lại dồn dập quay
về trong kư ức. Những
biến cố về quân sự khác khắp các Vùng
Chiến Thuật cũng trở lại trong tâm thức,
những con số tử vong giữa ta và địch
(VC), đồng minh. Những con số biết nói
về những năm tháng nghiệt ngă trong các trại
tù khổ sai "cải tạo" của cộng
sản VN đối với những người ngă
ngựa, chỉ v́ tội yêu nước, yêu dân
chủ tự do mà phải trả một cái giá quá
đắt cho một kiếp người bị thua
cuộc. Tôi
miên man suy tư, nhớ nhiều, vội ghi lại để
chúng ta những chiến sĩ già về tuổi tác mà
sự nhận xét và suy nghĩ vẫn c̣n tinh anh và trung
thực, ôn cố tri tân. ***** Tôi
c̣n nhớ một câu nói của một nhà văn Pháp: Tout
passe, tout casse, tout lasse, le souvenir seul est vivace (Mọi
sự đều qua đi, đều găy đổ,
đều mệt chán, chỉ có kỷ niệm là
sống măi). Người chiến sĩ thứ thiệt
lại c̣n chịu chơi, trong mọi hoàn cảnh
“hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất
ly” nên thường nhớ thời quá khứ xa xưa.
Dấu
ấn thời gian một thuở tung hoành, nay tuổi già
xế bóng, ngoảnh mặt lại, chỉ c̣n trông
thấy một màu xanh xanh đang nhô lên, ló dạng
ở chân trờ́ hay ống khói cao ngất vẫy
gọi... Nhân
ngày Cựu Chiến Binh (Veterans Day) 11 – 11 vừa qua,
Mitch Stacy viết một bài, trong mục Remembering WW II
veterans, hảng thông tấn Associated Press phổ
biến, với tựa đề: U.S. is losing its WWII
heroes và với phụ đề bên dưới: Nearly
1,000 vets die each day nationwide; within 15 years the “greatest
generation” may be nearly gone. Những chiến sĩ tham
dự Đại Chiến Thế Giới II, những năm
40 “thế hệ vĩ đại nhất” của Hoa
Kỳ (và nhiều nước khác) đang lụi tàn và
sẽ mất hút trong ṿng 15 năm nữa. Hiện
nay, mỗi ngày có khoảng 1,000 ngườ́ cựu
chiến binh thời Đệ Nhị Thế Chiến
(39 – 45), chỉ riêng ở Hoa Kỳ, đă ra đi. Hoa
Kỳ đă tham chiến ở hải ngoại gọi là
Foreign Wars, rất nhiều lần, từ đệ
nhất, đệ nhị thế chiến, chiến tranh
Hàn Quốc, Việt Nam và gần đây chiến tranh vùng
Vịnh, Kuwait, Afghanistan, Iraq... chỉ có cuộc
chiến tranh VN có thể nói theo cách nói của các nhà
ngoại giao “không thắng không thua”. Nhưng, chúng ta
biết, Mỹ chỉ có ôm đầu máu “bỏ
của chạy lấy người” và nướng
miền Nam Việt Nam vào ḷ thiêu của tập đoàn
CS quốc tế. C̣n những cuộc tham chiến khác,
Hoa Kỳ đều chiến thắng và vẻ vang
nhất là trận chiến thế giới lần
thứ hai nên người Mỹ gọi thế hệ
tham chiến này là Greatest Generation. Những
chiến binh đệ nhất thế chiến (1914 –
1918), nay nếu c̣n sống cũng trên trăm tuổi,
chẳng c̣n mấy người. Những chiến binh
thời đệ nhị thế chiến, trẻ
nhất,18 tuổi vào năm 1945, đến năm 2014,
gần trọn 70 năm sau, đến nay cũng đă
ngoài 88 tuổi. Chiến tranh Hàn Quốc (50 – 53) và
cuộc chiến Việt Nam (65 – 75 ), nói đúng hơn,
HK đă bắt đầu tham chiến ở Việt Nam
từ năm 1955, nay các cựu chiến binh Mỹ cũng
già nua, tàn tạ, xếp hàng chờ lệnh "lên
đường" sang qua biên giới khác. Các
thế hệ chiến binh trong các cuộc chiến
gần đây, chừng một hai thập niên nữa cũng
đến thời điểm giă từ vũ khí,
về với cát bụi. Nghĩ
cho cùng, kẻ chiến thắng, người thua
cuộc, trước sau ǵ cũng đến ngày đi
về “Cơi Vô Cùng” (tên một cuốn truyện
của nhà văn nữ, đang ở Houston - Texas, Nguyên
Nhung). Nhiều
v́ sao đă lần lượt rơi rụng dần
của 2 miền Nam Bắc VN, những vị tướng
trẻ nhất trong QLVNCH c̣n sống khỏe hiện nay,
cũng đă qua tuổi 80 như Chuẩn Tướng
Mạch Văn Trưởng (cựu Tư Lệnh Sư
Đoàn 21 Bộ Binh - đang sinh sống tại Houston -
Texas), Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (cựu Tư
Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh - định cư
ở Connecticut), cuộc đời của 2 Tướng
quân này cũng đang lụi tàn dần theo năm tháng.
Thế
hệ thanh niên trong cuộc chiến ư thức hệ
quốc cộng - hay c̣n gọi là cuộc nội
chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu
nhất trong lịch sử Việt Nam rồi cũng tan
biến vào cơi hư vô và lúc ấy chế độ
cộng sản vào cơi hư không, đất nước
Việt Nam sẽ hồi sanh, an b́nh ấm no thạnh phúc,
không c̣n hận thù và chắc chắn dân giàu nước
mạnh, người viết cầu mong như thế!.
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính
Việt Nam Cộng Ḥa đều trở thành đối
tượng của “chế độ tù lao động
cải tạo”, một chính sách do cộng sản
Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được
tôi luyện từ miền Tây Bá Lợi Á của
"thiên đường" Nga sô viết. Tài
liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San
Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo như
sau: *
- Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá
và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là
80.000, c̣n lại là hạ sỹ quan và binh sĩ. Thời
cao điểm nhứt, quân số Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa lên trên 1 triệu 100 ngàn chiến sĩ,
được xếp hạng tư (quân số cộng
sản Bắc Việt cũng được xếp
hạng như vậy) trên thế giới, chỉ đứng
sau Trung Cộng, Liên Xô và Hoa Kỳ. C̣n
các binh chủng có quân số cũng khá nhiều như
Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Quân Y, Quân Cảnh,
Truyền Tin, Nữ Quân Nhân và các binh chủng, binh
sở, chuyên môn...Tính chung chủ lực quân, cộng
lại cũng sẽ đạt được con
số 1/3 hay cao hơn 1 chút của 1 triệu 100 ngàn quân
- từ 300 đến 400 ngàn chiến sĩ. Tất
cả số quân c̣n lại là Địa Phương
Quân và Nghĩa Quân - những chiến sĩ diện
địa - chiếm gần 2/3 quân số của toàn
thể QLVNCH, một lực lương hứng chịu
nhiều thiếu thốn, gian khổ, trực tiếp
đối đầu thường trực với cán
binh VC ở điạ phương. -
Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm
75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng
lănh di tản và c̣n vài vị tướng không bị
bắt giam trong các đợt đi tù cải tạo
tập thể. -
Đại tá có 600, bị tù 366. -
Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. -
Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. -
Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này chưa
kể đến các thành viên đảng phái và các
cấp chính quyền, cảnh sát, cán bộ... Đây
là con số ghi nhận được từ phía Hoa
Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, không có tài liệu
của các trại giam phía cộng sản để
đối chiếu; và không có con số chính xác tù
cải tạo bị chết trong khi giam cầm, một
con số khá lớn. Ghi
chú: Tất cả danh từ “học tập cải
tạo” thực sự đều là tù chính trị
bị khổ sai, không có bản án. NHỮNG
NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN Không
kể thành phần bị bắt trước 1975, nhưng
không được trao trả tù binh sau 1973, khi có
Hiệp Định Paris, thời gian tù “cải
tạo” kéo dài từ 1 năm đến 17 năm.
Từ 1975 đến 1992. Năm 1988 gần như là năm
cuối cùng, hầu hết tù được trả
tự do. Suốt 4 năm tiếp theo - đến năm
1992 - chỉ c̣n lại 120 tù bị giam tại Z30D
gọi là Trại Thủ Đức (Rừng Lá) Hàm Tân.
Trong số này có 9 vị tướng lănh. Đại tá
Phạm Duy Khang khóa 6 Vơ bị, làm thư kư Trại c̣n
nhớ tên từng người. 4 Thiếu tướng:
Lê Minh Đảo, Đỗ kế Giai, Trần Bá Di, Hoàng
Lạc, và 5 Chuẩn Tướng: Lê Văn Thân,
Nguyễn Ngọc Sang, Mạch Văn Trường,
Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất. Cấp
Đại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các thành
viên cảnh sát, đảng phái...
(H:
Cảnh 1 trại tù cải tạo ở miền Nam hay
miền Trung, miền Bắc, cũng đều rập
khuôn như trong h́nh). Thiếu
tướng Đỗ Kế Giai tả lại quang cảnh
khi tất cả mọi người được
thả hết chỉ c̣n mấy ông Tướng.
Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng sản
cho xe chở 5 ông tướng về chuyến cuối cùng.
V́ đường đi thuận tiện, xe về
Saigon, chạy đến nhà các vị Tướng,
hết 1 ṿng, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai
(hiện đang định cư tại tiểu bang
Texas) là người về sau cùng. Ông bước
xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó
tả, tù vừa tṛn 17 năm. Những ông tướng
khác về trước ông chừng nửa giờ nên Tướng
Giai là người sau cùng, theo ư nghĩa tiêu biểu
của lịch sử. Hỏi
chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu danh ngôn
của người xưa: “Bại binh chi tướng,
bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua
trận, không thể nói mạnh). Lại
hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm có
thấy các nhà báo cộng sản hay thế giới
tự do vào quay phim hay chụp h́nh để bây giờ
có thể đi t́m dấu tích của những năm dài
“cải tạo”; vị Chỉ Huy Trưởng binh
chủng Biệt Động Quân cho biết, dường
như chẳng thấy ǵ. NHỮNG
NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN: 1975
: Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa
bị cộng sản tập trung “cải tạo”
(bị bắt bỏ tù). 1980
: Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và
thế giới áp lực Hà Nội phải thả tù . 1982
: Tại Pháp, Phạm văn Đồng, Thủ tướng
Hà Nội thách thức sẽ trả tự do nếu
Mỹ nhận hết tù cải tạo. 1982
: Ngoại trưởng Mỹ điều trần
tại Quốc Hội cho biết sẽ nhận 10.000 tù
chính trị Việt Nam (tù cải tạo) và gia đ́nh. 1985
: Lần đầu tiên , cơ quan IRCC,Inc. tại San Jose
(của cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc)
nhận được 1 video tape do phóng viên tự do Hoa
Kỳ quay tại Việt Nam. Trong đó có ba đoạn
hết sức đặc biệt: 1)
Phi công Việt Nam Cộng Ḥa, vừa được
tự do 2)
Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm Tân; 3)
Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân; 4)
Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp
Thiếu tá. 1985
: Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn
về việc thả tù cải tạo. 1987
: Lần đầu tiên nhà báo Thụy Điển
được vào làm phóng sự tại Trại Nam Hà,
tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm tù
cải tạo vào Nam và trả tự do từng đợt
. Tháng
7 năm 1988 : Phái đoàn Hoa Kỳ Funseth đi Hà
nội họp về việc nhận tù cải tạo. Tháng
8 năm 1988 : Hà Nội đơn phương loan báo (làm
eo, đưa thêm yêu sách) đ́nh chỉ việc
thảo luận. Tháng
1 năm 1989 : Lần đầu tiên Hồng Thập
Tự Hoa Kỳ được phép gửi quà cho tù
“cải tạo”. Một
chiến dịch gửi quà rầm rộ được
phát động tại hải ngoại . Tháng
4 năm 1989 : Phái đoàn Quốc hội Cali về
Việt Nam thảo luận về đề tài xă
hội và tù “cải tạo”. Có các thành phần
tỵ nạn Việt Nam cùng đi. Đại diện IRCC
trách nhiệm tiểu ban tù chính trị. Phái đoàn yêu
cầu trả tự do cho ông Vơ Đại Tôn. Phỏng
vấn thu thanh nhà văn Quân Đội Phan Nhật Nam
vừa được tự do tại Saigon. Tháng
6 tháng 1989 : Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu
cầu Hà Nội trả tự do cho tù “cải
tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận . Tháng
7 năm 1989 : Phái đoàn Hoa kỳ về Việt Nam kư
thỏa ước nhận định cư tù
“cải tạo” (với nhiều điều kiện,
giới hạn...) Tháng
8 tháng 1989 : Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên về
Saigon làm một loạt bài phỏng vấn “tù cải
tạo” sắp ra đi có gia đ́nh chờ đợi
tại San Jose. Tháng
1 tháng 1990 : 15 gia đ́nh H.01 đi chuyến đầu
tiên đến phi trường San Francisco, có 4 gia đ́nh
về Bắc Cali. 11 gia đ́nh chuyển tiếp đến
các tiểu bang khác và Quận Cam. Tháng
8 năm1992 : Đại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm tù
đă trở về đợt sau cùng với 120 người.
Ông đến San Jose và dự lễ thượng
kỳ ngày 8/8/1993 . Sau
đó các đợt HO bổ túc và chương tŕnh
đoàn tụ gia đ́nh HO lần lượt tiếp
diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho
đến tháng 4 năm 2009 vẫn c̣n gia đ́nh
thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa
Kỳ. KƯSỰ
- Trần Văn Ngà (Email: tiengvangusa@yahoo.com
- Tel: 916.519.8961)
|