Cuộc
chiến tranh dài nhất của thế kỷ Trọng Đạt |
Nhân dịp cuốn phim tài liệu mười
tập “The Vietnam” War mới thực hiện, làm
sống lại cuộc chiến đă qua từ hơn
bốn mươi năm, tôi xin làm một bảng
tổng kết ngắn về giai đoạn này.
Trước hết xin sơ lược cuốn
phim do đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick
thực hiện. Giống các phim tài liệu cùng đề
tài như Vietnam, A Television
History (Việt Nam
Thiên Sử truyền h́nh) mười ba tập, thực
hiện năm 1983 hay “Last
days in Vietnam” năm
2014, nhà đạo diễn lựa chọn trong đống
phim cũ để ráp nối thành tác phẩm. The
Vietnam War rất giống Việt Nam Thiên Sử
truyền h́nh (mà tôi đă xem hết) ở chỗ cùng
là phim nhiều tập, diễn tả lại cuộc
chiến tranh Việt Nam dài như vô tận nhưng
kết thúc khác nhau, một phim tại 1975, phim sau
tại 1990. Người Việt hải ngoại có kẻ
khen người chê, bá nhân bá tính, theo ư kiến tôi
về phương diện điện ảnh, The Vietnam
war khá hơn những phim tài liệu khác cùng loại
về h́nh ảnh, âm thanh, mầu sắc và nhạc
đệm, tôi nghe thoáng thấy điệu nhạc không
lời rất hay bản Nhớ Người Thương
Binh của Phạm Duy… Chiều về trên cánh đồng
xanh, có nàng gánh lúa cho anh ra đi diệt thù… Ngoài ra
dữ kiện, tài liệu dồi dào hơn. Về
nội dung th́ nghiêng ngả, nói về miền Bắc
nhiều mà không nói ǵ mấy về miền Nam, là
nạn nhân, băi chiến trường, vai chính trong
cuộc chiến. Về trận chiến, nhà đạo diễn
đă đưa lên nhiều trận đánh
cấp tiểu đoàn, đại đội giữa
Mỹ và bộ đội Bắc Việt thời Johnson
đến mức
nhàm chán, không
thấy đưa ra những trận đánh lớn
cấp Quân đoàn, Sư đoàn giữa VNCH và BV
thời Nixon. Những lời phát biểu của hai nhà văn
nổi tiếng (cựu cán binh) thiếu trung thực:
Huy Đức nói tinh
thần thanh niên cao vô cùng, ai nấy nô nức tham gia
nhập ngũ vào Nam. Tôi không hiểu nổi, chẳng lẽ lên đường vào chốn
tử địa y như Kinh Kha sang Tần, ra đi không
hẹn ngày về, cầm chắc cái chết trong tay
lại hồ hởi phấn khởi được sao?
Bảo Ninh nói Mỹ là
quân xâm lược, tôi
nghĩ xâm lược
là đem quân đánh chiếm nước khác, khuân
đồ, vơ vét của cải đem về th́
mới gọi là xâm lược, c̣n quân Mỹ không
chiếm đất, không lấy một cây kim sợi
chỉ của miền Nam, c̣n viện trợ cho dân ta hàng
tỷ đô la mỗi năm th́ sao lại gọi là xâm
lược? Bảo Ninh
nói đây là nội chiến, một
ông Giáo sư Việt Nam Hải ngoại nói đây là
cuộc chiến tranh ủy nhiệm, có người nói
đây là cuộc chiến ư thức hệ, nhưng ông
Bùi Tín cựu Đại tá Bắc Việt lại nói
mấy năm trước: đây
chỉ là một cuộc ăn cướp vĩ đại,
ông cũng nói 16 tấn vàng mà Hà Nội cướp
của miền Nam sau 30-4 nay không c̣n ǵ cả, không có
sổ sách, chia chác nhau hết… Phim này tôi chưa xem đầy đủ hoàn
toàn, sẽ coi lại và tường tŕnh quí độc
giả sau, bây giờ tôi
xin trở lại cuộc chiến tranh Việt Nam từ
1945 tới cuối thập niên 80.
Khởi đầu là cuộc chiến chống thực
dân của Việt Minh 1946-1954, sau đó là cuộc
chiến từ cuối thập niên 50 tới ngày
sụp đổ miền nam 1975, và cuối cùng cuộc
chiến tranh giữa các chế độ Cộng
sản Việt-Miên, Việt- Hoa…từ cuối thập
niên 70 tới cuối thập niên 80, bài sẽ không trích
dẫn tài liệu tham khảo v́ phạm vi giới
hạn. Chiến tranh Đông Dương lần thứ
nhất Giữa thập niên 60, báo Constellation có
đăng bài của một kư giả Pháp “Cuộc
chiên tranh dài nhất thế kỷ”
(La Guerre la plus longue du siecle) diễn tả lại
trận đánh lịch sử tối 19-12-1946 Vơ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp
tại Hà Nội mở đầu cho cuộc chiến
tranh dài nhất của thế kỷ. Trung đoàn
Thủ đô chiến đấu anh dũng trong khi quân
chính qui VM rút vào hậu phương, Hồ Chí Minh kêu
gọi toàn quốc kháng chiến. Việt Minh tuy đông nhưng thiếu thốn,
trên vĩ tuyến thứ 16, Pháp chỉ có hơn
một sư đoàn nên chỉ đủ lực lượng
giữ các thành phố lớn. Họ tiến nhanh
chiếm Phủ Lư, mỏ than Ḥn Gay, Sơn La, Lai Châu…đầu
năm 1947. Gần cuối 1947
Pháp hành quân lên miền rừng núi Việt Bắc
để tiêu diệt các lực lượng chính qui
Việt Minh, chiếm Thất Khê, Đông Khê, Cao
Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Sang năm 1948, Pháp
mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên,
Kiến An, Hà Đông, Ninh B́nh… Những
năm 1947, 1948, 1949 VM tháo chạy, Pháp truy kích ráo
riết để tận diệt chủ lực địch,
họ sẽ đưa thêm quân từ trong nam ra hoặc
từ bên Pháp tới để tiêu diệt nốt
đám VM c̣n lại. Tháng 10 năm 1949
một phép lạ đă cứu Việt Minh thoát
chết, Mao Trạch Đông chiếm được
phần lớn Hoa Lục, tuyên bố thành lập nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa. Sau khi tiến sát biên
giới Việt-Hoa cuối năm 1949, Trung
Cộng viện trợ nhiều vũ khí đạn dược
và huấn luyện cho VM, họ giúp thành lập
nhiều sư đoàn chính qui 304 và 308, 312, 316, 320 và sư
đoàn vũ khí nặng 351
những năm 1950 và 1951.
Việt Minh ngày càng lớn mạnh, mới đầu
kháng chiến là một phong trào yêu nước, sau thành
phong trào Cộng Sản. Đây là một thời điểm vô cùng quan
trọng: trước hết nó khởi đầu
sự cáo chung của chế độ Thực dân Pháp
tại Đông Dương và đặt ra nhiều
thử thách lớn lao cho người Mỹ. Khi
bỏ rơi người bạn đồng minh Trung Hoa
Dân Quốc năm 1948, 49 họ không ngờ tới cái
hậu quả khốc liệt để rồi phải
trả giá đắt cho tới tận ngày hôm nay.
Chỉ sáu tháng sau khi chiếm được Hoa
lục, Mao yểm trợ cho Bắc Triều Tiên (Cao Ly)
xua quân xâm chiếm miền Nam và giúp Việt Minh
chống Pháp. Nay người Mỹ mới biết sự
đe dọa của Cộng sản, họ vội
đưa quân vào bảo vệ Nam Triều Tiên,
cuộc chiến khốc liệt giữa Mỹ và
Bắc Tiều Tiên, Trung Cộng diễn ra cho tới tháng
7 năm 1953 mới chấm dứt. Từ 29-9 tới
7-10-1950 tại
Bắc Việt, Việt Minh đánh thắng trận
Cao-Bắc-Lạng, chiến thắng đă làm rung động
cả nước Pháp, thực dân bị thiệt
hại nặng: trên 7,000 người bị giết và
mất tích, VM tịch thu được nhiều
chiến lợi phẩm. Những năm sau đó 1951, 52, 53… Việt Minh
ngày càng mạnh, kiểm soát đa số đất
đai, Pháp chỉ c̣n giữ được các thành
phố lớn.
Ngay từ 1950 Mỹ đă giúp Pháp đánh Việt Minh,
mấy năm đầu 1950, 51, 52 Mỹ chỉ viện
trợ tượng trưng v́ c̣n phải tham gia
cuộc chiến Triều Tiên. Tháng
7-1953 khi Triều Tiên đ́nh chiến, Trung Cộng quay
sang giúp Việt Minh là lúc Mỹ cũng tăng viện
trợ cho Pháp, năm 1953 họ chi một nửa
chiến phí cho Pháp, năm 1954 viện trợ Mỹ lên
tới trên 75%. Hoa Kỳ giúp Pháp bảo vệ Đông
Dương để ngăn chận Cộng sản bành
trướng tại Á châu, nói cho ngay v́ quyền
lợi của chính họ.
Pháp và Việt Minh đánh lớn tại Điện
Biên Phủ. Ngày giao chiến đầu tiên 13-3-1954 hai
tiền đồn Pháp tại đây bị đánh
sập. ĐBP ngày càng nguy ngập chỉ c̣n tiếp
tế bằng thả dù. Từ cuối tháng 3-1954, Ṭa
Bạch Ốc đă nghiên cứu kế hoạch
cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt với
gần 100 oanh tạc cơ hạng nặng B-29, cùng
với 400 máy bay chiến đấu hộ tống. Kế hoạch này lấy mật danh Kên Kên do Đô đốc Arthur Radford, Tham mưu trưởng
liên quân đề nghị được Tổng
thống Eisenhower, Phó Tổng thống Nixon, Bộ trưởng
ngoại giao Foster Dulles ủng hộ, chấp thuận. TT Eisenhower
cẩn thận hỏi ư kiến Quốc hội trước
khi thực hiện chiến dịch. Tám vị dân
cử đại diện Lập pháp sau khi hội
thảo với đại diện Hành pháp đ̣i
sự can thiệp của Mỹ phải có Liên minh
với các nước Đông Nam Á, Anh Quốc. Đây
là ư kiến của Thượng nghị sĩ Lyndon Johnson đă được các vị dân
cử đồng thuận. TT Eisenhower không thành lập
được Liên minh, không thực hiện được
chiến dịch Kên Kên khiến ĐBP thất thủ
ngày 7-5-1954. Hơn
hai tháng sau Pháp kư Hiệp định Geneve với
Hồ Chí Minh chia đôi Việt Nam từ Vĩ
tuyến 17 để rút quân bỏ Đông Dương,
chính Phủ Quốc Gia và
quân Pháp rút vào Nam sau thời hạn 300 ngày. Năm 1948, 49 người
Mỹ bỏ Trung Hoa
và đă phạm một lỗi lầm tai hại, nay tháng
4-1954 họ lại bỏ lỡ cơ hội cứu nguy
ĐBP để rồi lại gánh chịu hậu
quả lớn lao khác. Tại ĐBP Việt Minh đă
đă đưa hầu hết các sư đoàn chính
qui của họ vào trận đánh, tổng cộng
khoảng 63,000 người, trong khi quân Pháp ước lượng
16,000 người, vào khoảng 5% quân số của
họ tại Đông Dương. Một trận oanh
tạc trải thảm của 100 B-29 đủ sức
tiêu diệt chủ lực quân Việt Minh không
những cứu nguy ĐBP mà c̣n cứu được
cả Đông Dương. Cuộc chiến Đông Dương lần
thứ hai Năm 1954 Lê Duẩn được phân công
ở lại miền Nam lănh đạo.
Cuộc Tổng tuyển cử thống nhất mà
Bộ Chính trị hy vọng nhưng bất thành v́
nhiều lư do: Nga
và Trung Cộng không ủng hộ Việt Minh,
họ muốn hai miền ở đâu ở đó, tại
miền Nam Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm
mặc dù hoan nghênh thống nhất nhưng không tin tưởng
miên Bắc có tự do đầu phiếu. Về
căn bản điều khoản Tổng tuyển
cử không có ghí trong Hiệp định kư ngày 20-7 mà
ghi ngày hôm sau 21-7 trong bản Tuyên bố cuối cùng
của ba bề bốn bên, nó chỉ là lời nói
miệng với nhau (oral statements) và không có chữ kư
(unsigned document) của bất cứ phái đoàn nào, nó
thiếu cơ sở pháp lư, chỉ là nói chơi cho vui
thôi. Năm 1956
Lê Duẩn gửi từ trong Nam ra Hà Nội bản
Đề cương cách mạng miền Nam chủ trương
dùng vũ lực thống nhất đất nước.
Bộ Chính trị miễn cưỡng chấp nhận
giới hạn đường lối của Duẩn v́
họ chủ trương xây dựng Xă hội chủ
nghĩa miền Bắc trước hết, vả
lại, sợ Mỹ đem chiến tranh vào Đông Dương.
Năm sau 1957 Lê Duẩn được Hồ Chí Minh
gọi ra Bắc nhận chức quyền Tổng bí thư
thay thế Trường Chinh từ chức v́ Cải Cách
Ruộng Đất, đây là một khúc quanh rất
quan trọng của cuộc chiến VN. Năm 1960
Duẩn được Đại hội đảng chính
thức bầu làm Bí thư thứ nhất (Tổng bí
thư), thực ra do Hồ Chí Minh cất nhắc. Cuộc chiến Đông Dương lần
thứ hai có thể chia làm 4
giai đoạn: 1-Thời TT Kennedy từ 1961-1963
Cuối thập niên 50, cán bộ CS nằm vùng
bắt đầu nổi dậy như ong vỡ tổ
tại miền nam, chúng gây chiến tranh du kích, giết
hại xă trưởng, trưởng ấp. Mặt
trận giải phóng miền Nam được thành
lập tháng 12- 1960. Năm 1961
chiến tranh lan rộng hơn nhiều, Việt Cộng
đầu năm có 5,500 người tới cuối năm
1961 tăng lên 25,000. Tổng thống Kennedy cho tăng quân
số VNCH từ 170,000 lên 200,000 người, tăng
cố vấn huấn luyện lên 3,200 người. Năm
1962 chính phủ Mỹ vội viện trợ cho quân
đội VNCH ba đại đội trực thăng
H-21, 16 phi cơ vận tải C-123, hai chi đoàn
thiết giáp M-113. Việt Cộng bị bao vây tiêu
diệt dần, quân
đội VNCH nhờ chiến thuật và vũ khí
mới đă đạt thắng lợi năm 1962,
phiến quân bị mất tinh thần. Năm sau 1963,
chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bị sa lầy v́
vụ Phật giáo khởi đầu từ giữa cho
tới cuối năm 1963 th́ hoàn toàn sụp đổ. Kennedy có mục đích rơ ràng về VN, ông
chỉ gửi cố vấn sang huấn luyện không
gửi quân tác chiến.
Trong giai đoạn này cuộc chiến chỉ là du kích
cấp đại đội hoặc tiểu đoàn v́
Nga Sô thời Khrushchev chủ
trương sống chung ḥa b́nh với Mỹ, chỉ
giúp Hà Nội giới hạn.
Cuộc chiến leo thang dần, năm 1961 số cố
vấn Mỹ tăng lên 3,000, năm sau 1962 thành 11,000, năm
sau 16,000. Phía CS Hà Nội, từ sau khi Lê Duẩn
được bầu làm Bí thư thứ nhất, Lê
Đức Thọ cánh tay phải của Duẩn đă
cài đặt nhiều bộ hạ vào guồng máy
đảng, củng cố địa vị cho Duẩn. 2-Thời
TT Johnson từ 1964 tới 1968
Tại Nga Sô, Khrushvhev bị lật đổ năm
1964, Brehznev
lên thay giúp Hà Nội mạnh hơn,
tại miền Nam TT Ngô Đ́nh Diệm bị
đảo chánh tháng 11-1963, ba tuần sau TT Kennedy bị
ám sát, Phó TT Johnson lên thay. Tại
miền Bắc Lê Duẩn con người hiếu
chiến ngày càng nắm nhiều quyền, phe chủ ḥa
Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp và cả ông Hồ
bị cô lập dần. Từ 1965 trở đi, Hồ
Chí Minh đau ốm hay sang Tầu chữa bệnh, Lê
Duẩn nắm trọn quyền hành trong tay, tha hồ làm
trời làm đất, y bắt đầu đưa
nhiều trung đoàn chính qui vào Nam leo thang chiến
tranh. Các sử gia Bernard
Fall, Logevall, Ted Morgan
đă nhận định: Mỹ tránh can thiệp oanh
tạc Điện Biên Phủ năm 1954 để
rồi mười năm sau phải đương
đầu với cuộc chiến lớn 1964, 65… Năm
1954, TNS Johnson đóng vai chính trong việc ngăn cản
Eisenhower cứu nguy ĐBP và bây giờ năm 1964,
một sự t́nh cờ lịch sử ông trở thành
Tổng Thống lại gánh chịu hậu quả
sự sai lầm của chính ḿnh mười năm trước
đây. Hoa Kỳ vội đưa quân vào cứu
miền Nam mà thực ra v́ quyền lợi của chính
họ v́ mất Đông Dương, toàn vùng Đông
Nam Á sẽ sụp đổ y như ván bài Domino. Năm
1965 TT Johnson đưa 184,000 quân vào miền nam VN, cho
đến năm 1968 con số này lên tới 530,000 người.
Sau này McNamara, Tướng Westmoreland, McNamara, Tướng
Ngô Quang Trưởng nói nếu Mỹ không đổ quân
vào miền Nam có thể mất trong sáu tháng. Mục tiêu chính của Johnson là giúp VNCH đánh
bại VC và CSBV, buộc Hà Nội phải rút, ngăn
chận Trung Cộng bành trướng. Chiến lược
của ông gọi là chiến tranh giới hạn (limited
war), trong Nam cho bộ binh lùng và diệt địch
(search and destroy), cho không quân oanh tạc miền
Bắc, các tuyến đường xâm nhập. Mục
đích chính của Johnson-McNamara chỉ là đánh cho nó
sợ phải thương thuyết rút về Bắc. Phong trào phản chiến ngày càng lên cao khi
số lính Mỹ thiệt mạng gia tăng, năm 1965
có 1,928 lính Mỹ tử trận, năm 1968 đă tăng
lên 16,899 người, gần 9 lần, đáng lẽ TT
Johnson phải thực hiện Việt Nam hóa chiến
tranh sớm từ 1965, 66. Ngoài ra ông cũng sai
lầm ở chỗ khi chống đối trong nước
ngày càng mạnh lại áp dụng chiến tranh giới
hạn (limited war) chậm như rùa ḅ. Một sai
lầm trầm trọng nữa là TT lại trao hết
quyền hành cho Bộ trưởng quốc pḥng McNamara,
một người dân sự, không có kinh nghiệm
về quân sự bị các Tướng lănh chống
đối. Mặc dù giết được nhiều
Việt Cộng tính tới 1968 có khoảng trên 200,000 tên
thiệt mạng nhưng địch vẫn gia tăng xâm
nhập. Năm
1968 Lê Duẩn đốt giai đoạn, cho mở trận Tổng công kích Tết
Mậu thân trên toàn cơi VNCH, 84,000 cán binh được
dưa vào cuộc thí quân kinh hoàng. Riêng trận này, Lê
Duẩn đă mất gần 70 ngàn quân, trong đó hơn
58 ngàn người bị giết, 9,460 tên bị bắt
làm tù binh, 16 ngàn chạy thoát chưa tới 20%. Số tổn thất của Cộng quân
gấp mười lần phía VNCH, mặc dù Mỹ và
VNCH đánh thắng một trận lớn nhưng thua
cuộc chiến khi chống đối lên cao hơn bao
giờ hết. Người dân Mỹ quá chán nản,
biểu t́nh dữ dội đ̣i chính phủ phải rút
ra khỏi Đông Dương ngay. Trận
Mậu thân coi mở đầu cho sự kết thúc, The
beginning of the end. Nay
miền Bắc sống dưới sự cai trị theo
kiểu Staline khi Lê Duẩn đă nắm được
quyền lực tối cao trong đảng. Từ 1967
tới 1973 Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn
đă cho bắt giam không xét xử tổng cộng ba trăm
đảng viên v́ tội theo chủ nghĩa xét
lại, chống đảng, trong đó ba mươi người
là đảng viên cao cấp. Cuộc
chiến này được coi là của Hà Nội như
Giáo Sư Liên Hằng đặt tên cho cuốn sách Hanoi’s
war của bà, thực ra là cuộc chiến của Lê
Duẩn. 3-Thời TT Nixon từ 1969-1974
Nixon đắc cử Tổng thống tháng
11-1968, vào Ṭa Bạch Ốc đầu năm 1969
để hốt đống rác lớn do Johnson-McNamara
để lại, trên 500 ngàn quân Mỹ c̣n đóng
tại miền Nam. Dân Chủ sa lầy v́ chiến
tranh Đông Dương, người dân bầu cho
Cộng Ḥa hy vọng rút ra khỏi cuộc chiến. Năm
1968 ông Thiệu ủng hộ Nixon, sau này ông cho biết
nếu Humphrey (Dân Chủ) đắc cử TT Mỹ năm
1968, sáu tháng sau họ sẽ bắt VNCH phải vào Liên
Hiệp với CS sau đó sẽ rút quân, tôi tin là ông
nói đúng. Một nhà nghiên cứu sử Mỹ gọi
cuộc chiến thời Nixon là A War To End A War,
cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh. Năm
1969, 1970 biểu t́nh chống chiến tranh sang giai đoạn
bạo động, chết người. Nixon cứng
rắn hơn chính phủ trước, ông thực
hiện Việt Nam hóa chiến tranh, giúp VNCH tăng quân
số và viện trợ quân sự. Ông cũng giúp VNCH hành quân sang Miên bắt đầu
từ 29-4-1970 tới 22 -7-1970 giết hàng chục ngàn cán
binh, tịch thu được trên 20 ngàn vũ khí, phá
hủy nhiều cơ sở quân sự, làm suy yếu áp
lực địch tại miền Nam. Năm sau ông giúp
VNCH hành quân sang lào (Lam Sơn) bắt đầu ngày
8-2-1971, giữa tháng 3 ông Thiệu cho rút quân bị
địch truy kích thiệt hại nhiều, cho tới
25-3-1972 cuộc hành quân coi như chấm dứt,
tổng cộng chỉ kéo dài 45 ngày. Mặc dù VNCH
phải tháo chạy nhưng CSBV chịu tổn thất
khá nặng, hơn 10,000 người bị giết, cơ
sở hậu cần bị phá hủy. Lê Duản phải đương đầu
với một Tổng thống Mỹ cương
quyết và mạnh tay hơn nhưng ông ta không chùn bước,
vẫn tiếp tục đẩy hàng trăm ngàn thanh niên
vào cuộc chiến qui mô lớn. BV chịu thiệt
hại nặng nề hơn trước, họ chấp
nhận tổn thất 10 hoặc trên 10 cán binh để
giết một tên lính Mỹ đẩy mạnh phong trào
phản chiến. Cuối tháng 3 năm 1972 khi TT Nixon
đi thăm Bắc Kinh về, quân Mỹ đă hồi
hương gần hết, Lê Duẩn đánh một
canh bạc táo bạo. Ông ta mở trận Tổng
tấn công lớn qui mô nhất từ trước
tới nay, đưa 14 sư đoàn chính qui và 26 trung
đoàn độc lập, khoảng 500 xe tăng và pháo
binh vào miền nam đánh theo qui ước. CSBV
nghĩ là sẽ đè bẹp quân đội VNCH
bằng một lực lượng hùng hậu, dù
Mỹ yểm trợ không quân cũng không cứu văn
được. TT Nixon đáp trả mănh liệt
bằng một lực lượng chưa từng
thấy trong chiến tranh Đông Dương: 4 Hàng không
mẫu hạm, 409 máy bay chiến thuật F-4, F-5, 171 pháo
đài bay B-52, một Tuần dương hạm
lớn, bốn Tuần dương hạm nhỏ, 44 Khu
trục hạm… đă được đưa
tới ngoài khơi VN hỗ trợ cuộc
chiến. Nixon mở chiến dịch Linebacker, không
lực yểm quân đội VNCH tại Quảng
trị, Kontum, An Lộc bằng pháo đài bay B-52
đồng thời cho phong tỏa cảng Hải pḥng
để ngăn chận tiếp liệu. Cuộc
tấn công vũ băo của BV phần bị không quân
Mỹ oanh tạc, phần bị quân đội VNCH
phản công dữ dội. Tính
tới tháng 10-1972 có khoảng từ 80 ngàn cho tới
100 ngàn cán binh bị giết, VNCH từ 25 tới 30 ngàn người thiệt
mạng. Ngày 11 tháng 10-1972, BV nhượng bộ
tại bàn Hội nghị phần v́ thảm bại trên
chiến trường và sợ Nixon tái đắc
cử ông sẽ mạnh tay hơn, họ không đ̣i TT
Thiệu từ chức, không đ̣i Liên hiệp, hai bên
dự trù kư kết cuối tháng 10. Ông Thiệu
phản đối không chịu kư v́ BV không chịu rút
về Bắc, Hiệp định bất thành. Ḥa đàm
Ba Lê ngày càng khó khăn trở ngại, tháng 12 đại
diện BV phá ḥa đàm hy vọng Quốc hội
mới nhóm họp ngày 3-1-1973 sẽ ra luật chấm
dứt chiến tranh. TT Nixon giận dữ cho B-52 oanh
tạc Hà Nội, Hải pḥng mười một ngày
đêm cuối năm 1972 khiến BV phải trở
lại bàn Hội nghị. Hiệp
định Paris kư ngày 27-1-1973 nhưng BV không giữ cam
kết, họ vi phạm ngay sau đó. Quốc hội đa số Dân chủ phản
chiến ra luật trói tay Tổng thống giữa tháng
8-1973, cắt hết ngân khoản của Hành pháp xử
dụng tại Đông Dương, cuối năm
họ cắt giảm quân viện cho VNCH từ hơn
hai tỷ năm 1973 xuống c̣n một tỷ năm 1974
và 700 triệu năm 1975. 4-
Thời kỳ TT Ford từ 1974-1976
Ngày
8-8-1974, TT Nixon từ chức v́ vụ Watergate, phó TT Ford lên thay gần như bù nh́n trong khi
Quốc hội mới nằm trong tay đối lập.
Cuối năm 1974 Cộng quân đánh thăm ḍ Phước
Long sau đó tháng 3-1975 chúng tiến đánh Ban Mê
Thuột, Quảng trị, Huế… quân đội VNCH
kiệt quệ v́ tiếp liệu đạn dược
tan ră nhanh chóng. Chưa đầy hai tháng sau khi mở
chiến dịch, CSBV đánh chiếm được Sài
G̣n ngày 30-4-1975, miền nam VN hoàn toàn sụp đổ. Nhờ
phong trào phản chiến lên cao mà BV đă chiếm
được miền Nam, chính phong trào đă cứu
mạng nhiều triệu thanh niên miền Bắc mà Lê
Duẩn chuẩn bị đẩy vào tử địa.
Ông ta đă từng nói giải phóng miền Nam
bằng mọi giá cho dù phải hy sinh thêm hàng triệu
chiến sĩ. Nếu
không có phản chiến cho dù Duẩn đưa thêm
mấy triệu cán binh vào trận địa cũng
chỉ làm mồi cho B-52 một cách vô ích. Dựa theo nhiều thống kê, số tổn
thất về quân sự của ba phe như sau: Mỹ:
58,220 người, trong đó chết tại mặt trận (killed
in action) là 40,934, c̣n lại (hơn 17 ngàn) chết
v́ nhiều lư do khác như tai nạn, bệnh tật,
thất t́nh tự tử… VNCH: ước lượng 230,000
tử trận Quân đội BV một
triệu, VC 100
ngàn thiệt mạng, con số này do phía CSVN đưa ra năm
1995. Tổn thất thường dân: số
thống kê không thống nhất, họ nói từ một
tới hai triệu
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần
thứ ba Từ sau trận Mậu Thân 1968, Hà Nội
đàm phán với Mỹ tại Paris khiến Trung
Cộng bất b́nh, dần dần Lê Duẩn thân Nga
chống Tầu. Giữa
năm 1977 Trung Cộng khuyến khích Khmer đỏ
tấn công biên giới Việt-Miên, một năm sau, Trung Cộng cắt hết
viện trợ cho CSVN. Từ
đầu tới cuối tháng 12-1978, Hà Nội huy động
18 sư đoàn đánh sang Miên cho tới giữa tháng
1-1979 th́ hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh tại xứ Chùa
Tháp. CSVN phải chiếm đóng xứ Chùa Tháp 10 năm
giao tranh với Khmer đỏ tại biên giới Thái
Lan, tới cuối năm 1989 mới hoàn toàn rút
khỏi Campuchia. Phía CSVN cho biết họ thiệt
hại 55,300 người tử thương, phía
Khmer đỏ khoảng 100,000 người bị
giết. Một năm sau, Bắc Kinh mở cuộc
tấn công vĩ đại vào biên giới Việt Hoa
để trừng trị CSVN chiếm đóng Cao Miên.
Họ huy động 9 quân đoàn chủ lực
tổng cộng 32 sư đoàn hơn 300,000 người,
550 xe tăng, 480 đại bác, 1,200 súng cối, hỏa
tiễn, 200 tầu chiến, 1,700 máy bay ở hậu
cứ. CSVN khoảng từ 60,000 tới 100,000 người,
7 sư đoàn, 15 trung đoàn độc lập cùng
lực lượng biên pḥng. Phần lớn các sư
đoàn chính qui VN đang đóng ở Campuchia. Cuộc
tấn công ngắn nhưng khốc liệt từ
17-2-1979 cho tới 16-3-1979, Trung Cộng rút sau khi đă
chiếm và tàn phá các tỉnh Lạng Sơn, Lào cai, Cao
Bằng.. Sau đó chiến tranh c̣n tiếp diễn 10 năm,
13 năm sau mới b́nh thường hóa quan hệ. Phía
VN nói họ có 20,000 người tử trận, Trung
Cộng thiệt hại gấp ba lần. Lê Duẩn chết năm
1986 khi ấy
đất nước mới hết loạn lạc,
binh đao. Hồ Chí Minh lănh đạo tám năm kháng
chiến từ 1946 tới 1954 cộng thêm hơn ba mươi
năm chiến tranh do Lê Duẩn khởi xướng
từ 1956 tới 1990, vị chi cũng được
gần nửa thế kỷ núi xương sông máu. Cuộc chiến hơn bốn mươi năm
máu chảy thịt rơi, tang thương đau
khổ do CSVN gây lên đă kéo lùi đất nước
trở lại tới mấy chục năm. Cho tới ngày nay người
Mỹ vẫn kết án cuộc chiến VN là sai
lầm, chết người, tốn của, nhưng
nhờ xương máu của miền nam VN mà họ
đă bắt tay được Trung Cộng tháng 2 năm
1972, giải quyết được tận gốc
thuyết Domino. Cái bắt tay giữa TT Nixon và Chủ tịch
Mao đă thay đổi cả một kỷ nguyên, xương
máu của miền Nam đồng thời cũng đóng
góp cho sự ḥa hoăn (detente) của Mỹ với Nga tháng
5-1972 tại Mạc Tư Khoa. Nhờ
cuộc chiến VN mà đất nước Hoa Kỳ yên
hưởng thái b́nh từ đó đến nay. Người Mỹ vờ than van trách móc lờ
đi không nói sự thật, họ chỉ nói cái
mất mà giả vờ quên cái được. Trọng Đạt |