Điện Biên Phủ 1954: Gần 100 pháo đài bay B-29 của Mỹ đă sẵn sàng giải vây

 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng

 

Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

Ngày 5/04/1954, Đại sứ Mỹ Douglas Dillon đánh điện từ Paris về Washington:

"Tướng Navarre báo cáo rằng t́nh h́nh tại chiến trường này đang ở trong t́nh trạng bất quân b́nh trầm trọng… Với lực lượng đang được tăng cường, Việt Minh sẽ có thể mở cuộc tấn công mới vào giữa hay cuối tuần này. Nếu không được tiếp viện - từ đây tới lúc đó - th́ số phận của Điện Biên Phủ coi như đă xong rồi."

Gần một trăm máy bay B-29 của Mỹ đă chuẩn bị sẵn sàng, nhưng không bay vào giải vây. Pháp bại trận sau 56 ngày cầm cự.

02/09/1945: Liên Xô đă không ủng hộ Hồ Chí Minh

Đánh giá Điện Biên Phủ 'khách quan hơn'

Hóa ra có tới hai 'Tháng Tư Đen'

Sau Triều Tiên, Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower lo ngại

Tổng thống Eisenhower vừa lên cầm quyền, rất lo ngại Cộng sản đang đồng thời nhắm vào Đông Dương và Mă Lai Á.

Ông muốn đối phó với những đe dọa tại Đông Dương nhưng ông bị kẹt bởi hai chữ 'thuộc địa.' Muốn cho có danh chính, ngôn thuận, điều cần thiết là Pháp phải giải quyết vấn đề độc lập cho Việt Nam.

Trong thư gửi cho Thủ tướng Pháp René Mayer, TT Eisenhower yêu cầu hai điều: thứ nhất, "Tuyên bố cho thật rơ ràng và dứt khoát rằng Pháp đang trả quyền tự trị cho Đông Dương, và 'tự do chính trị thực sự' sẽ là một điều hiển nhiên sau khi chiến thắng với Cộng sản," và thứ hai, gửi sang Việt Nam một tướng tài giỏi và nhiều kinh nghiệm giống như Tướng de Lattre (qua đời 1/1952) để làm tư lệnh thay cho Tướng Raoul Salan không hữu hiệu.

Image captionTổng thống Mỹ Eisenhower muốn Pháp gửi Tướng Jean E. Valluy hoặc Tướng Augustin Guillaume sang làm tư lệnh tại Việt Nam thay cho Tướng Raoul Salan

Eisenhower đề nghị hai người, Tướng Jean E. Valluy hoặc Tướng Augustin Guillaume.

Valluy là tướng đă đánh chiếm Hải Pḥng hồi cuối năm 1946, Guillaume là Tổng Thanh tra quân đội Pháp ở Bắc Phi.

Nội các Trần Trọng Kim: 5 thành tựu trong 4 tháng

Băn khoăn về màu cờ cho Việt Nam năm 1945

Cuộc chiến ít biết của quân Anh ở Việt Nam

Nhưng đề nghị đến tay Mayer quá chậm v́ ông đă chọn Tướng Henri Navarre rồi (1898-1983). Navarre chưa bao giờ chiến đấu ở Đông Dương.

Kế Hoạch Navarre

Navarre sang Việt Nam nhận chức ngày 20/05/1953.

Ông tung ra Kế Hoạch Navarre bắt đầu vào tháng 7/1953 với nhiều cuộc hành quân tương đối là thành công như Hirondelle (Con Nhạn) nhảy dù xuống Lạng sơn, Carmargue đánh vào vùng duyên hải giữa Quảng Trị và Huế, rồi mở đầu cuộc hành quân Mouette (Hải Âu) đánh vào phía Tây Bắc Ninh B́nh. Cuộc hành quân này tương đối cũng thành công.

Con đường tới Điện Biên Phủ

Ngay từ khi tới Việt Nam, Tướng Navarre đă nghĩ đến việc tái chiếm Điện Biên Phủ, nơi mà Pháp đă rút đi từ ngày 30/11/1952.

Image captionTướng Navarre đă triển khai một số kế hoạch quân sự khá thành công tại Việt Nam từ 7/1953

Điện Biên Phủ là một làng hẻo lánh gần biên giới Lào c̣n gọi là Mường Thanh, một nơi Pháp cho là chiến lược. Navarre muốn tái chiếm nơi này để ngăn chận lực lượng Việt Minh từ miền Tây Bắc sắp sửa tiến sang Lào.

Để bảo vệ vùng thượng Lào, ông lập một căn cứ không-lục quân ở miền Thượng du Bắc Việt.

Đầu tháng 11/1953, khi ông ra lệnh cho Tướng René Cogny (1904-1968) soạn thảo một kế hoạch không vận lấy mật hiệu là Opération Castor, Cogny đồng ư một cách rất miễn cưỡng, v́ chính bộ chỉ huy của ông cũng phản đối.

Người ta đồn thổi nhiều về sự bất b́nh giữa cặp Navarre - Cogny đă từ lâu. Cogny coi thường, lại c̣n chế nhạo là Navarre chỉ ngồi trong pḥng gắn máy lạnh ở Sài G̣n để điều khiển.

Cogny (to lớn, hoạt bát) có nhiều kinh nghiệm, được Navarre chỉ định làm Tư lệnh Quân đội Viễn Chinh tại Bắc Việt. Cogny cũng đă làm việc dưới quyền Tướng de Lattre nên rất quen thuộc với vùng này. Navarre (mảnh dẻ, trầm lặng) th́ chưa có kinh nghiệm ở Việt Nam nhưng lại là sếp của Cogny.

Theo tác giả nổi tiếng (gốc Pháp) Bernard Fall (đồng nghiệp với chúng tôi ở Howard Unversity): có lần Cogny c̣n dám nói "Nếu ông không phải là đại tướng th́ tôi đă cho ông một cái bợp tai rồi." Nói xong ông đứng vào thế nghiêm chào sếp rồi ra về.

Ngày 17/11/1953, Navarre họp toàn bộ tư lệnh chiến trường để hỏi ư kiến.

Image captionTướng Navarre cùng Tướng Cogny và các sĩ quan khác đánh giá t́nh h́nh Điện Biên Phủ hôm 29/11/1953

Mọi người, trong đó có Cogny đều phát biểu dè dặt về Opération Castor. "Tôi chỉ muốn hỏi mấy ông là liệu ta có thể thực hiện được cuộc hành quân này hay không, thế thôi," Navarre nói lại. Tất cả đều lưỡng lự nhưng lẩm bẩm trả lời là có thể. "Được rồi, cuộc hành quân sẽ bắt đầu sau ba ngày nếu như thời tiết cho phép."

Navarre tính lầm

Về phía Hoa kỳ, Tướng Mỹ O'Daniel cũng không tin tưởng vào việc tái chiếm Điện Biên Phủ.

Ông cho rằng Tướng Navarre đă rập theo kinh nghiệm "nhử địch" của Mỹ tại Triều Tiên để thí nghiệm một chiến lược gọi là 'những trận tiêu diệt địch' (Killer Operations).

Theo mưu kế này, một đơn vị quân đội Mỹ được dàn trải ra ở một địa điểm để làm mồi nhử địch. Khi địch tới đúng tầm của đại pháo th́ sẽ bị oanh kích ào ạt.

Bây giờ vừa nhận được khí giới mới của Mỹ, Navarre cho là cơ hội đă tới để có thể bắt chước như vậy.

Ông tin vào mưu lược của ḿnh v́ nó đă giúp ông thành công khi rút lui khỏi căn cứ Nà Sản (8/08/1953): Navarre dùng kế nghi binh, triệt thoái an toàn 5.000 quân đang bị bao vây tại Nà Sản.

Nhưng về Điện Biên Phủ th́ ông đă tính lầm.

"Lạy Trời mưa xuống" chẳng phải để lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, nhưng là "để tôi khỏi phải nhảy vào cái thung lũng bùn lầy này," viên chỉ huy trưởng nhảy dù đă cầu mong. V́ lệnh trên là cuộc hành quân này sẽ bắt đầu 'nếu thời tiết cho phép,' cho nên ông cầu cho trời mưa để hủy bỏ cuôc hành quân.

Theo Mỹ thẩm định th́ Navarre đă dựa vào hai giả thiết sai lầm:

Việt Minh khó có thể vận dụng được quá hai sư đoàn tới điện Biên Phủ; và

Việt Minh không có nhiều đại bác, và nếu có th́ cũng khó có thể kéo lên địa điểm trên cao.

Ngoài ra, c̣n khuyết điểm khác là đă không để ư nhiều tới vấn đề thời tiết. Tới mùa mưa (kéo dài 5 tháng), những đám mây dày đặc bao trùm thung lũng, gây trở ngại cho các phi vụ thả dù và tiếp tế. Với lượng nước mưa đổ xuống lên tới 62 inches, Điện Biên Phủ trở thành một vũng lầy.

Ngày 20/11/1953 - đúng ba ngày sau buổi họp với bộ tư lệnh - 60 chiếc máy bay Dakota, phía trước có sơn màu xanh, vàng, và đỏ, theo nhau cất cánh từ Hà Nội, yểm trợ bằng những máy bay khu trục, vẽ lên bầu trời một giải dài tới 7 dặm.

Gần 3.000 lính dù, đơn vị tinh nhuệ nhất của đoàn quân Viễn chinh Pháp nhảy xuống Điện Biên Phủ.

Tướng Cogny chỉ định Đại tá Christian de Castries (1902-1991) chỉ huy mặt trận. Cogny nổi tiếng về kỵ binh, mà chiến trường Điện Biên Phủ lại đặt nặng vai tṛ của kỵ binh.

Tới chiến trường, de Castries cho xây ngay những căn cứ pháo binh làm tuyến bảo vệ doanh trại.

Image captionĐại tá Christian de Castries (thứ hai, từ phải sang) được chỉ định chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ

De Castries là sĩ quan có tài, lại đẹp trai. Ông đặt tên cho ba pháo đài là Gabrielle (phía Bắc), Beatrice (phía Đông) và Isabelle (phía Nam). Lúc đó ít ai biết rằng đó là tên ba cô bồ của Đại tá de Castries.

Navarre tiên đoán sẽ thắng trận vào ngày Quốc khánh của Pháp 4/07/1954.

Tướng Mỹ O'Daniel không tin. Ngày 3/02, ông đích thân bay tới quan sát chiến trường và thấy ngay là Navarre đă tính lầm: "Quân đội Pháp đă không chiếm đóng miền đồi núi cao, và như vậy địch chỉ cần vài ba tiểu đoàn pháo là có thể uy hiếp, đặt căn cứ này vào t́nh trạng không thể giữ nổi."

Hai giờ trước khi O'Daniel đáp, Việt Minh dùng đại bác 75 ly nă ngay 103 quả vào doanh trại Pháp.

Đêm ngày 13/03, ngày đầu trong 56 ngày tấn công, quân đội Việt Minh từ đồi núi tràn xuống, trong khi gần một trăm khẩu 105 ly và 75 ly từ trên cao, không cần phải câu ṿng, cứ thế mà pháo thẳng xuống doanh trại Pháp. Chỉ một ngày đă chiếm được pháo đài Beatrice, và bốn ngày sau, Gabrielle.

Sau khi Pháp yêu cầu Mỹ gấp rút gửi thêm quân viện, Tổng thống Eisenhower họp khẩn để vận động một nghị quyết của Quốc hội cho phép ông ra lệnh oanh tạc.

Quốc hội đồng ư, nhưng việc Mỹ can thiệp phải kèm theo ba điều kiện:

Phải có sự tham gia của Anh;

Pháp trả ngay độc lập cho các quốc gia Đông Dương; và

Phải đồng ư tiếp tục chiến đấu sau Điện Biên Phủ.

Image captionPháp đă đánh giá sai năng lực và tinh thần chiến đấu của lực lượng Việt Minh

 

Tháng Tư Đen của Pháp

Trong khi Washington c̣n đang bàn định xem làm sao để có được sự đồng ư của Anh th́ Đại sứ Mỹ Douglas Dillon đă đánh điện về cho Ngoại Trưởng Dulles (độc giả lưu ư tới nhiều sự kiện dồn dập trong ngày 5/04/1954):

Ngày 5/04/1954 - Mật Điện 3710:

KHẨN. Lúc 11:00 đêm Chủ Nhật, tôi được mời tới Điện Matignon gấp để tham dự một cuộc họp nội các thu hẹp.

"Khi tôi tới nơi, Ngoại trưởng Bidault tiếp tôi tại văn pḥng Tổng thống và sau mấy phút th́ Tổng thống Auriol tới. Họ cho tôi hay rằng sự can thiệp bằng không lực Hoa Kỳ từ các mẫu hạm ngoài khơi vào Điện Biên Phủ là điều hết sức cần thiết trong lúc này để cứu văn t́nh h́nh.

"Tướng Navarre báo cáo rằng t́nh h́nh tại chiến trường này đang ở trong t́nh trạng bất quân b́nh trầm trọng… Với lực lượng đang được tăng cường, Việt Minh sẽ có thể mở cuộc tấn công mới vào giữa hay cuối tuần này. Nếu không được tiếp viện - từ đây tới lúc đó - th́ số phận của Điện Biên Phủ coi như đă xong rồi."

"Ông Bidault đă kết luận rằng dù tốt hay xấu, giờ đây số phận của Đông Nam Á tùy thuộc vào Điện Biên Phủ. Thêm nữa, thành công hay thất bại tại Hội Nghị Geneva cũng đều tùy theo trận Điện Biên Phủ kết thúc ra sao. V́ vậy, đây là một yêu cầu khẩn thiết của Pháp để Hoa kỳ có một hành động hết sức quan trọng…"

Ngày 5/04/1954 - Ngoại trưởng Dulles trả lời:

"Hoa Kỳ đang làm mọi việc có thể như đă được thông báo trong công điện tôi gửi số 5175 - để chuẩn bị dư luận cũng như Quốc hội và căn bản hiến pháp nhằm đi tới một hành động thống nhất với Đồng minh. Hành động của Hoa Kỳ không thể có được trừ khi có sự tham gia chặt chẽ của Anh Quốc.

Ngày 5/04/1954 - TT Eisenhower thuyết phục Thủ tướng Churchill:

"Nếu tôi có thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đă không ngăn chận Hirohito, Mussolini, Hitler v́ đă không cùng hành động chung với nhau, và cho kịp thời," ông than phiền rồi đi tới kết luận, "chính v́ thế nên đă dẫn tới một thảm kịch bi đát và một sự nguy hiểm tuyệt vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta đă học được điều ǵ chưa trong kinh nghiệm ấy?"

Ngày 5/04/1954 - Ngoại trưởng Bidault tuyệt vọng:

"Thật là bất hạnh v́ thời gian để sắp xếp một hành động thống nhất như vậy đă qua đi rồi, và số phận Điện Biên Phủ sẽ đi đến chỗ quyết định nội trong mười ngày tới."

Gần 100 pháo đài bay B-29 của Mỹ chuẩn bị giải vây Điện Biên Phủ

Ngày 6/04/1954:

Ủy ban Đặc nhiệm của TT Eisenhower đề nghị một kế hoạch để can thiệp quân sự với mật hiệu là "Kế hoạch Kên Kên" (Vautour). Theo đó, Mỹ dùng B-29 từ Okinawa vào oanh tạc. Có ba bước:

Một: bốn sư đoàn lục quân Mỹ cùng với một sư đoàn dù được yểm trợ bằng không lực chiếm vùng Yên Bái, Thái Nguyên và Tuyên Quang để chận tuyến liên lạc và có thể tiêu diệt ba sư đoàn Việt Minh;

Hai: một sư đoàn đánh chiếm căn cứ Ḥa B́nh, đang khi một sư đoàn khác đổ bộ tại Thanh Hóa và tiến chiếm Hội Xuân;

Ba: thiết lập biên pḥng ở ranh giới với Trung Quốc.

Hai hàng không mẫu hạm Boxer và Essex lừ lừ tiến về phía Vịnh Bắc Việt, và gần một trăm chiếc pháo đài bay B-29 ở Okinawa và Phi Luật Tân đuợc lệnh báo động, chuẩn bị bay tới Điện Biên Phủ để giải vây.

 

Image captionPhi cơ B-29 từng được sử dụng để ném bom Yokohama của Nhật Bản trong Thế chiến II

Chuẩn tướng Joseph Caldara đă bay vào Sài G̣n trước để thẩm định t́nh h́nh. Ông c̣n tự lái chiếc máy bay thám thính B-17 tới Điện Biên Phủ để quan sát chiến trường.

Ngày 21/04/1954 - Pháp khẩn thiết

Thủ tướng Daniel yêu cầu, "Nếu có được một cuộc oanh tạc của Mỹ tại Điện Biên Phủ th́ làm cho tinh thần quân đội ở đó lên ngay và sẽ thay đổi hẳn t́nh h́nh."

Đồng thời, Ngoại Trưởng Bidault thúc giục Mỹ "khẩn trương xem xét việc can thiệp bằng quân sự để cứu văn t́nh h́nh," v́ "nếu chúng tôi thất bại nơi đây, nhân dân Pháp sẽ đi tới kết luận rằng dù có cố gắng thêm nữa cũng sẽ không thành công, cho nên phải triệt thoái khỏi chiến trường."

Thủ tướng Anh Churchill cực lực phản đối Mỹ can thiệp

Mặc dù Bidault khẩn khoản yêu cầu, Churchill vẫn tiếp tục phản đối.

Khi phải miễn cưỡng đi họp Hội Nghị Geneva, Dulles đă nhân cơ hội để vận động thêm.

Image captionThủ tướng Anh Winston Churchill không đồng ư với ư tưởng để Anh can thiệp vào Đông Dương

Ngày 25/04/1954 - Dulles báo cáo:

"Tôi gặp ông ta (Ngoại trưởng Anh Anthony) Eden chiều nay lúc 10:15 khi ông ta từ London. Ông ta đă lĩnh ư của Thủ tướng Churchill, nội các và các tướng lănh. Eden nói rằng: Anh Quốc cực lực phản đối bất cứ sự can thiệp nào tại Điện Biên Phủ v́ họ không nghĩ rằng nó sẽ có được một ảnh hưởng quyết định, và hành động này sẽ không được nhân dân Anh Quốc hay công luận thế giới thông cảm…

"Eden đă gặp Bidault tại phi trường Orly đêm nay trên đường ghé qua Paris và đă cho ông ta hay về lập trường của nước Anh...

"Với t́nh h́nh hiện tại của quân đội Pháp mà Eden đă quá rơ, tôi (Dulles) nói với ông ta rằng tôi không c̣n tin Pháp sẽ có đủ ư chí mà đương đầu với đối phương của họ tại Hội nghị Geneva đâu. Nhưng Eden lại nói rất rơ về việc Anh Quốc phản đối việc Hoa Kỳ can thiệp bằng không lực tại Điện Biên Phủ cũng như về việc họ không đồng ư trực tiếp tham gia vào chiến trường Đông Dương…

"Tôi nói với ông Eden rằng… 'thật là một thảm trạng nếu ta không có những biện pháp để ngăn chận việc mất Đông Dương."

Ngày 26/04 - Dulles cảnh báo: Anh đang xúi Pháp bỏ cuộc

Ngay ngày hôm sau (26/04), Dulles lại gửi công điện từ Geneva tŕnh bày là 'nước Anh đang xúi giục Pháp đi về chiều hướng đầu hàng':

"Sau trưa, tôi có gặp Eden và Bidault khoảng một giờ tại biệt thự của Bidault… Tôi lưu ư họ rằng ngưng chiến lúc này tại Điện Biên Phủ tức là đầu hàng và c̣n có thể đưa tới nguy hiểm là người bản xứ nổi dậy sát hại người Pháp…

"Theo sự suy nghĩ của tôi, Eden đă nhận được chỉ thị là phải khuyến khích Pháp chấp nhận hầu như bất cứ giải pháp nào để đi tới chỗ chấm dứt chiến tranh. Sở dĩ như vậy là v́ Chính phủ Anh sợ rằng nếu giao tranh cứ tiếp tục th́ Mỹ sẽ bằng cách này hay cách khác nhảy vào can thiệp, đưa tới hậu quả là Trung Quốc sẽ tham chiến và dẫn tới một cuộc chiến rộng lớn hơn nữa…

"Sáng mai tôi sẽ gặp ông Eden một ḿnh và sẽ cho ông ta biết thẳng thừng rằng tôi hết sức mất tinh thần về việc nước Anh đang xúi giục Pháp đi về hướng đầu hàng, một việc đi ngược lại quyền lợi không những (tôi xin lặp lại không những) của chúng ta mà của cả nước Anh nữa."

Sau cùng, Tham Mưu Trưởng Ridgeway cố vấn TT Eisenhower không nên can thiệp

TT Eisenhower họp khẩn với Ngoại trưởng Dulles để bàn việc cứu văn t́nh h́nh, và đi tới quyết định là sẽ yêu cầu Quốc hội đồng ư cho mang quân đội vào Việt Nam để can thiệp nếu Pháp đồng ư thỏa măn đ̣i hỏi của Mỹ là để cho Việt Nam được độc lập thực sự và để cho Mỹ đào tạo quân đội bản xứ.

Nhưng tới đây th́ TT Eisenhower lại gặp thêm một khó khăn nữa: Tướng Matthew Ridgeway, Tham mưu trưởng Lục quân lại không ủng hộ và khuyên ông không nên can thiệp.

Ridgeway là người đă thay thế Tướng MacArthur ở Triều Tiên. Ông có uy tín lớn đối với TT Eisenhower.

Ông ước tính rằng muốn chiến thắng, sẽ cần từ một nửa triệu tới một triệu quân, và phải động viên khoảng 100.000 người một tháng. Ngoài ra, c̣n phải xây cất cầu cống, phi trường, đường xá, hải cảng. Bết bát nhất là điều kiện về địa h́nh: rừng núi, lũ lụt ở Đông Dương lại c̣n khó khăn hơn cả ở Triều Tiên.

V́ Chính phủ Anh không chịu cộng tác và Tướng Ridgeway không ủng hộ, sau cùng TT Eisenhower đă bỏ ư định can thiệp bằng quân sự.

Ngày 7/05/1954, Điện Biên Phủ thất thủ - đúng một tuần sau ngày 30 tháng Tư.

Sau Điện Biên Phủ, Mỹ thôi thúc Pháp "cứ tiếp tục chiến đấu, hăy coi đây chỉ là một thất bại trong một trận chiến, chứ không phải là đă bại trận. Và Pháp cũng chỉ mất đi khoảng nửa sư đoàn. Khu vực chiến lược quan trọng là toàn bộ lănh thổ nằm sau 'Tuyến De Lattre' (nối từ Vịnh Hạ Long tới Vĩnh Yên về phía Tây, và theo Sông Đáy bọc xuống Phát Diệm rồi ra biển về phía Nam) th́ vẫn c̣n nguyên vẹn.

Nhưng dù Mỹ can ngăn, Pháp đă đi tới quyết định bỏ cuộc.

Bài học từ Điện Biên Phủ

Như vậy, xét cho cùng th́ lư do thất bại không phải là quân sự mà là chính trị. Đó là v́ nhân dân và lănh đạo Pháp đă nản ḷng, thối chí.

Biến cố này xác định một lần nữa bài học cho những nhà lănh đạo, những người chỉ huy các cuộc chiến, rằng: "quân sự là chính trị theo một phương tiện khác - "war is politics by other means."

Trong nhiều t́nh huống chỉ cần một chiến thắng - hay được dư luận coi như là một chiến thắng: đánh một trận vào đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục tiêu là có thể kết thúc được cuộc chiến.

Lúc ấy, dư luận cho rằng Pháp đă thất trận ở Paris chứ không phải ở Điện Biên Phủ, cũng như sau này, biến cố Mậu Thân được coi là Điện Biên Phủ của Tổng thống Lyndon Johnson, và Mỹ đă thất bại ở Washington chứ không phải ở Sài G̣n.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng nguyên giáo sư kinh tế tại N.C. Wesleyan College, Trinity College, và Howard University, và là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (1966-1070). Ông là cựu Tổng Trưởng Kế Hoạch Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1973 đến 1975, và là phụ tá về Tái Thiết của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản - ngoài những sách về kinh tế - các cuốn "The Palace File" (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập) (1986), "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" (2005), "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" (2010) và "Khi Đồng Minh Nhảy Vào" (2016).  

 

Trở lại