Điện
Biên Phủ 1954: Gần 100 pháo đài bay B-29 của
Mỹ đă sẵn sàng giải vây |
Tiến
sỹ Nguyễn Tiến Hưng
Bản quyền
hình ảnhGETTY IMAGES Ngày 5/04/1954, Đại
sứ Mỹ Douglas Dillon đánh điện từ Paris
về Washington: "Tướng Navarre
báo cáo rằng t́nh h́nh tại chiến trường này
đang ở trong t́nh trạng bất quân b́nh trầm
trọng… Với lực lượng đang được
tăng cường, Việt Minh sẽ có thể mở
cuộc tấn công mới vào giữa hay cuối
tuần này. Nếu không được tiếp viện
- từ đây tới lúc đó - th́ số phận
của Điện Biên Phủ coi như đă xong
rồi." Gần một trăm
máy bay B-29 của Mỹ đă chuẩn bị sẵn sàng,
nhưng không bay vào giải vây. Pháp bại trận sau
56 ngày cầm cự. 02/09/1945:
Liên Xô đă không ủng hộ Hồ Chí Minh Đánh
giá Điện Biên Phủ 'khách quan hơn' Hóa
ra có tới hai 'Tháng Tư Đen' Sau Triều Tiên, Tổng
thống Mỹ Dwight Eisenhower lo ngại Tổng thống
Eisenhower vừa lên cầm quyền, rất lo ngại
Cộng sản đang đồng thời nhắm vào
Đông Dương và Mă Lai Á. Ông muốn đối
phó với những đe dọa tại Đông Dương
nhưng ông bị kẹt bởi hai chữ 'thuộc
địa.' Muốn cho có danh chính, ngôn thuận, điều
cần thiết là Pháp phải giải quyết vấn
đề độc lập cho Việt Nam. Trong thư gửi cho
Thủ tướng Pháp René Mayer, TT Eisenhower yêu cầu
hai điều: thứ nhất, "Tuyên bố cho
thật rơ ràng và dứt khoát rằng Pháp đang
trả quyền tự trị cho Đông Dương, và
'tự do chính trị thực sự' sẽ là một
điều hiển nhiên sau khi chiến thắng với
Cộng sản," và thứ hai, gửi sang Việt Nam
một tướng tài giỏi và nhiều kinh nghiệm
giống như Tướng de Lattre (qua đời 1/1952)
để làm tư lệnh thay cho Tướng Raoul Salan
không hữu hiệu.
Image captionTổng
thống Mỹ Eisenhower muốn Pháp gửi Tướng
Jean E. Valluy hoặc Tướng Augustin Guillaume sang làm tư
lệnh tại Việt Nam thay cho Tướng Raoul Salan Eisenhower đề
nghị hai người, Tướng Jean E. Valluy hoặc
Tướng Augustin Guillaume. Valluy là tướng
đă đánh chiếm Hải Pḥng hồi cuối năm
1946, Guillaume là Tổng Thanh tra quân đội Pháp ở
Bắc Phi. Nội
các Trần Trọng Kim: 5 thành tựu trong 4 tháng Băn
khoăn về màu cờ cho Việt Nam năm 1945 Cuộc
chiến ít biết của quân Anh ở Việt Nam Nhưng đề
nghị đến tay Mayer quá chậm v́ ông đă
chọn Tướng Henri Navarre rồi (1898-1983). Navarre chưa
bao giờ chiến đấu ở Đông Dương. Kế Hoạch Navarre Navarre sang Việt Nam
nhận chức ngày 20/05/1953. Ông tung ra Kế
Hoạch Navarre bắt đầu vào tháng 7/1953 với
nhiều cuộc hành quân tương đối là thành
công như Hirondelle (Con Nhạn) nhảy dù xuống
Lạng sơn, Carmargue đánh vào vùng duyên hải
giữa Quảng Trị và Huế, rồi mở đầu
cuộc hành quân Mouette (Hải Âu) đánh vào phía Tây
Bắc Ninh B́nh. Cuộc hành quân này tương đối
cũng thành công. Con đường
tới Điện Biên Phủ Ngay từ khi tới
Việt Nam, Tướng Navarre đă nghĩ đến
việc tái chiếm Điện Biên Phủ, nơi mà Pháp
đă rút đi từ ngày 30/11/1952.
Image captionTướng
Navarre đă triển khai một số kế hoạch
quân sự khá thành công tại Việt Nam từ 7/1953 Điện Biên Phủ
là một làng hẻo lánh gần biên giới Lào c̣n
gọi là Mường Thanh, một nơi Pháp cho là
chiến lược. Navarre muốn tái chiếm nơi này
để ngăn chận lực lượng Việt
Minh từ miền Tây Bắc sắp sửa tiến sang
Lào. Để bảo
vệ vùng thượng Lào, ông lập một căn
cứ không-lục quân ở miền Thượng du
Bắc Việt. Đầu tháng 11/1953,
khi ông ra lệnh cho Tướng René Cogny (1904-1968)
soạn thảo một kế hoạch không vận
lấy mật hiệu là Opération Castor, Cogny đồng
ư một cách rất miễn cưỡng, v́ chính
bộ chỉ huy của ông cũng phản đối. Người ta đồn
thổi nhiều về sự bất b́nh giữa
cặp Navarre - Cogny đă từ lâu. Cogny coi thường,
lại c̣n chế nhạo là Navarre chỉ ngồi trong
pḥng gắn máy lạnh ở Sài G̣n để điều
khiển. Cogny (to lớn, hoạt
bát) có nhiều kinh nghiệm, được Navarre
chỉ định làm Tư lệnh Quân đội
Viễn Chinh tại Bắc Việt. Cogny cũng đă làm
việc dưới quyền Tướng de Lattre nên
rất quen thuộc với vùng này. Navarre (mảnh
dẻ, trầm lặng) th́ chưa có kinh nghiệm
ở Việt Nam nhưng lại là sếp của Cogny. Theo tác giả nổi
tiếng (gốc Pháp) Bernard Fall (đồng nghiệp
với chúng tôi ở Howard Unversity): có lần Cogny c̣n dám
nói "Nếu ông không phải là đại tướng
th́ tôi đă cho ông một cái bợp tai rồi." Nói
xong ông đứng vào thế nghiêm chào sếp rồi
ra về. Ngày 17/11/1953, Navarre
họp toàn bộ tư lệnh chiến trường
để hỏi ư kiến.
Image captionTướng
Navarre cùng Tướng Cogny và các sĩ quan khác đánh
giá t́nh h́nh Điện Biên Phủ hôm 29/11/1953 Mọi người,
trong đó có Cogny đều phát biểu dè dặt
về Opération Castor. "Tôi chỉ muốn hỏi
mấy ông là liệu ta có thể thực hiện
được cuộc hành quân này hay không, thế thôi,"
Navarre nói lại. Tất cả đều lưỡng
lự nhưng lẩm bẩm trả lời là có
thể. "Được rồi, cuộc hành quân
sẽ bắt đầu sau ba ngày nếu như thời
tiết cho phép." Navarre tính lầm Về phía Hoa kỳ, Tướng
Mỹ O'Daniel cũng không tin tưởng vào việc tái
chiếm Điện Biên Phủ. Ông cho rằng Tướng
Navarre đă rập theo kinh nghiệm "nhử địch"
của Mỹ tại Triều Tiên để thí
nghiệm một chiến lược gọi là
'những trận tiêu diệt địch' (Killer
Operations). Theo mưu kế này,
một đơn vị quân đội Mỹ được
dàn trải ra ở một địa điểm để
làm mồi nhử địch. Khi địch tới
đúng tầm của đại pháo th́ sẽ bị
oanh kích ào ạt. Bây giờ vừa
nhận được khí giới mới của
Mỹ, Navarre cho là cơ hội đă tới để
có thể bắt chước như vậy. Ông tin vào mưu lược
của ḿnh v́ nó đă giúp ông thành công khi rút lui
khỏi căn cứ Nà Sản (8/08/1953): Navarre dùng
kế nghi binh, triệt thoái an toàn 5.000 quân đang
bị bao vây tại Nà Sản. Nhưng về Điện
Biên Phủ th́ ông đă tính lầm. "Lạy Trời mưa
xuống" chẳng phải để lấy nước
tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy
bát cơm, nhưng là "để tôi khỏi phải
nhảy vào cái thung lũng bùn lầy này," viên
chỉ huy trưởng nhảy dù đă cầu mong. V́
lệnh trên là cuộc hành quân này sẽ bắt đầu
'nếu thời tiết cho phép,' cho nên ông cầu cho
trời mưa để hủy bỏ cuôc hành quân. Theo Mỹ thẩm định
th́ Navarre đă dựa vào hai giả thiết sai
lầm: Việt Minh khó có
thể vận dụng được quá hai sư đoàn
tới điện Biên Phủ; và Việt Minh không có
nhiều đại bác, và nếu có th́ cũng khó có
thể kéo lên địa điểm trên cao. Ngoài ra, c̣n khuyết
điểm khác là đă không để ư nhiều
tới vấn đề thời tiết. Tới mùa mưa
(kéo dài 5 tháng), những đám mây dày đặc bao trùm
thung lũng, gây trở ngại cho các phi vụ thả dù
và tiếp tế. Với lượng nước mưa
đổ xuống lên tới 62 inches, Điện Biên
Phủ trở thành một vũng lầy. Ngày 20/11/1953 - đúng
ba ngày sau buổi họp với bộ tư lệnh - 60
chiếc máy bay Dakota, phía trước có sơn màu xanh,
vàng, và đỏ, theo nhau cất cánh từ Hà Nội,
yểm trợ bằng những máy bay khu trục, vẽ
lên bầu trời một giải dài tới 7 dặm. Gần 3.000 lính dù,
đơn vị tinh nhuệ nhất của đoàn quân
Viễn chinh Pháp nhảy xuống Điện Biên
Phủ. Tướng Cogny
chỉ định Đại tá Christian de Castries
(1902-1991) chỉ huy mặt trận. Cogny nổi tiếng
về kỵ binh, mà chiến trường Điện Biên
Phủ lại đặt nặng vai tṛ của kỵ
binh. Tới chiến trường,
de Castries cho xây ngay những căn cứ pháo binh làm
tuyến bảo vệ doanh trại.
Image captionĐại tá
Christian de Castries (thứ hai, từ phải sang) được
chỉ định chỉ huy mặt trận Điện
Biên Phủ De Castries là sĩ quan có
tài, lại đẹp trai. Ông đặt tên cho ba pháo
đài là Gabrielle (phía Bắc), Beatrice (phía Đông) và
Isabelle (phía Nam). Lúc đó ít ai biết rằng đó là
tên ba cô bồ của Đại tá de Castries. Navarre tiên đoán
sẽ thắng trận vào ngày Quốc khánh của Pháp
4/07/1954. Tướng Mỹ
O'Daniel không tin. Ngày 3/02, ông đích thân bay tới quan sát
chiến trường và thấy ngay là Navarre đă tính
lầm: "Quân đội Pháp đă không chiếm
đóng miền đồi núi cao, và như vậy địch
chỉ cần vài ba tiểu đoàn pháo là có thể uy
hiếp, đặt căn cứ này vào t́nh trạng không
thể giữ nổi." Hai giờ trước
khi O'Daniel đáp, Việt Minh dùng đại bác 75 ly nă
ngay 103 quả vào doanh trại Pháp. Đêm ngày 13/03, ngày
đầu trong 56 ngày tấn công, quân đội
Việt Minh từ đồi núi tràn xuống, trong khi
gần một trăm khẩu 105 ly và 75 ly từ trên
cao, không cần phải câu ṿng, cứ thế mà pháo
thẳng xuống doanh trại Pháp. Chỉ một ngày
đă chiếm được pháo đài Beatrice, và
bốn ngày sau, Gabrielle. Sau khi Pháp yêu cầu
Mỹ gấp rút gửi thêm quân viện, Tổng
thống Eisenhower họp khẩn để vận động
một nghị quyết của Quốc hội cho phép ông
ra lệnh oanh tạc. Quốc hội đồng
ư, nhưng việc Mỹ can thiệp phải kèm theo ba
điều kiện: Phải có sự tham
gia của Anh; Pháp trả ngay độc
lập cho các quốc gia Đông Dương; và Phải đồng ư
tiếp tục chiến đấu sau Điện Biên
Phủ. Image captionPháp đă
đánh giá sai năng lực và tinh thần chiến
đấu của lực lượng Việt Minh
Tháng Tư Đen
của Pháp Trong khi Washington c̣n
đang bàn định xem làm sao để có được
sự đồng ư của Anh th́ Đại sứ
Mỹ Douglas Dillon đă đánh điện về cho
Ngoại Trưởng Dulles (độc giả lưu ư
tới nhiều sự kiện dồn dập trong ngày
5/04/1954): Ngày 5/04/1954 - Mật
Điện 3710: KHẨN. Lúc 11:00 đêm
Chủ Nhật, tôi được mời tới Điện
Matignon gấp để tham dự một cuộc
họp nội các thu hẹp. "Khi tôi tới nơi,
Ngoại trưởng Bidault tiếp tôi tại văn pḥng
Tổng thống và sau mấy phút th́ Tổng thống
Auriol tới. Họ cho tôi hay rằng sự can thiệp
bằng không lực Hoa Kỳ từ các mẫu hạm
ngoài khơi vào Điện Biên Phủ là điều
hết sức cần thiết trong lúc này để
cứu văn t́nh h́nh. "Tướng Navarre
báo cáo rằng t́nh h́nh tại chiến trường này
đang ở trong t́nh trạng bất quân b́nh trầm
trọng… Với lực lượng đang được
tăng cường, Việt Minh sẽ có thể mở
cuộc tấn công mới vào giữa hay cuối
tuần này. Nếu không được tiếp viện
- từ đây tới lúc đó - th́ số phận
của Điện Biên Phủ coi như đă xong
rồi." "Ông Bidault đă
kết luận rằng dù tốt hay xấu, giờ
đây số phận của Đông Nam Á tùy thuộc vào
Điện Biên Phủ. Thêm nữa, thành công hay
thất bại tại Hội Nghị Geneva cũng đều
tùy theo trận Điện Biên Phủ kết thúc ra sao.
V́ vậy, đây là một yêu cầu khẩn thiết
của Pháp để Hoa kỳ có một hành động
hết sức quan trọng…" Ngày 5/04/1954 - Ngoại
trưởng Dulles trả lời: "Hoa Kỳ đang làm
mọi việc có thể như đă được thông
báo trong công điện tôi gửi số 5175 - để
chuẩn bị dư luận cũng như Quốc
hội và căn bản hiến pháp nhằm đi
tới một hành động thống nhất với
Đồng minh. Hành động của Hoa Kỳ không
thể có được trừ khi có sự tham gia
chặt chẽ của Anh Quốc. Ngày 5/04/1954 - TT Eisenhower
thuyết phục Thủ tướng Churchill: "Nếu tôi có
thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đă không
ngăn chận Hirohito, Mussolini, Hitler v́ đă không cùng hành
động chung với nhau, và cho kịp thời," ông
than phiền rồi đi tới kết luận, "chính
v́ thế nên đă dẫn tới một thảm
kịch bi đát và một sự nguy hiểm tuyệt
vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta
đă học được điều ǵ chưa trong
kinh nghiệm ấy?" Ngày 5/04/1954 - Ngoại
trưởng Bidault tuyệt vọng: "Thật là bất
hạnh v́ thời gian để sắp xếp một hành
động thống nhất như vậy đă qua
đi rồi, và số phận Điện Biên Phủ
sẽ đi đến chỗ quyết định
nội trong mười ngày tới." Gần 100 pháo đài
bay B-29 của Mỹ chuẩn bị giải vây Điện
Biên Phủ Ngày 6/04/1954: Ủy ban Đặc
nhiệm của TT Eisenhower đề nghị một
kế hoạch để can thiệp quân sự với
mật hiệu là "Kế hoạch Kên Kên"
(Vautour). Theo đó, Mỹ dùng B-29 từ Okinawa vào oanh
tạc. Có ba bước: Một:
bốn sư đoàn lục quân Mỹ cùng với
một sư đoàn dù được yểm trợ
bằng không lực chiếm vùng Yên Bái, Thái Nguyên và
Tuyên Quang để chận tuyến liên lạc và có
thể tiêu diệt ba sư đoàn Việt Minh; Hai:
một sư đoàn đánh chiếm căn cứ Ḥa B́nh,
đang khi một sư đoàn khác đổ bộ
tại Thanh Hóa và tiến chiếm Hội Xuân; Ba:
thiết lập biên pḥng ở ranh giới với Trung
Quốc. Hai
hàng không mẫu hạm Boxer và Essex lừ lừ
tiến về phía Vịnh Bắc Việt, và gần
một trăm chiếc pháo đài bay B-29 ở Okinawa và
Phi Luật Tân đuợc lệnh báo động,
chuẩn bị bay tới Điện Biên Phủ để
giải vây.
Image
captionPhi cơ B-29 từng được sử dụng
để ném bom Yokohama của Nhật Bản trong
Thế chiến II Chuẩn
tướng Joseph Caldara đă bay vào Sài G̣n trước
để thẩm định t́nh h́nh. Ông c̣n tự lái
chiếc máy bay thám thính B-17 tới Điện Biên
Phủ để quan sát chiến trường. Ngày
21/04/1954 - Pháp khẩn thiết Thủ
tướng Daniel yêu cầu, "Nếu có được
một cuộc oanh tạc của Mỹ tại Điện
Biên Phủ th́ làm cho tinh thần quân đội ở
đó lên ngay và sẽ thay đổi hẳn t́nh h́nh." Đồng
thời, Ngoại Trưởng Bidault thúc giục Mỹ
"khẩn trương xem xét việc can thiệp
bằng quân sự để cứu văn t́nh h́nh," v́
"nếu chúng tôi thất bại nơi đây, nhân dân
Pháp sẽ đi tới kết luận rằng dù có
cố gắng thêm nữa cũng sẽ không thành công,
cho nên phải triệt thoái khỏi chiến trường." Thủ tướng Anh
Churchill cực lực phản đối Mỹ can
thiệp Mặc dù Bidault
khẩn khoản yêu cầu, Churchill vẫn tiếp
tục phản đối. Khi phải miễn cưỡng
đi họp Hội Nghị Geneva, Dulles đă nhân cơ
hội để vận động thêm. Image captionThủ tướng
Anh Winston Churchill không đồng ư với ư tưởng
để Anh can thiệp vào Đông Dương
Ngày 25/04/1954 - Dulles báo
cáo: "Tôi gặp ông ta
(Ngoại trưởng Anh Anthony) Eden chiều nay lúc 10:15
khi ông ta từ London. Ông ta đă lĩnh ư của
Thủ tướng Churchill, nội các và các tướng
lănh. Eden nói rằng: Anh Quốc cực lực phản
đối bất cứ sự can thiệp nào tại
Điện Biên Phủ v́ họ không nghĩ rằng nó
sẽ có được một ảnh hưởng
quyết định, và hành động này sẽ không
được nhân dân Anh Quốc hay công luận
thế giới thông cảm… "Eden đă gặp
Bidault tại phi trường Orly đêm nay trên
đường ghé qua Paris và đă cho ông ta hay về
lập trường của nước Anh... "Với t́nh h́nh
hiện tại của quân đội Pháp mà Eden đă
quá rơ, tôi (Dulles) nói với ông ta rằng tôi không c̣n
tin Pháp sẽ có đủ ư chí mà đương đầu
với đối phương của họ tại
Hội nghị Geneva đâu. Nhưng Eden lại nói
rất rơ về việc Anh Quốc phản đối
việc Hoa Kỳ can thiệp bằng không lực
tại Điện Biên Phủ cũng như về
việc họ không đồng ư trực tiếp tham gia
vào chiến trường Đông Dương… "Tôi nói với ông
Eden rằng… 'thật là một thảm trạng
nếu ta không có những biện pháp để ngăn
chận việc mất Đông Dương." Ngày 26/04 - Dulles cảnh
báo: Anh đang xúi Pháp bỏ cuộc Ngay ngày hôm sau (26/04),
Dulles lại gửi công điện từ Geneva tŕnh bày
là 'nước Anh đang xúi giục Pháp đi về
chiều hướng đầu hàng': "Sau trưa, tôi có
gặp Eden và Bidault khoảng một giờ tại
biệt thự của Bidault… Tôi lưu ư họ
rằng ngưng chiến lúc này tại Điện Biên
Phủ tức là đầu hàng và c̣n có thể
đưa tới nguy hiểm là người bản
xứ nổi dậy sát hại người Pháp… "Theo sự suy nghĩ
của tôi, Eden đă nhận được chỉ
thị là phải khuyến khích Pháp chấp nhận
hầu như bất cứ giải pháp nào để
đi tới chỗ chấm dứt chiến tranh. Sở
dĩ như vậy là v́ Chính phủ Anh sợ rằng
nếu giao tranh cứ tiếp tục th́ Mỹ sẽ
bằng cách này hay cách khác nhảy vào can thiệp,
đưa tới hậu quả là Trung Quốc sẽ
tham chiến và dẫn tới một cuộc chiến
rộng lớn hơn nữa… "Sáng mai tôi sẽ
gặp ông Eden một ḿnh và sẽ cho ông ta biết
thẳng thừng rằng tôi hết sức mất tinh
thần về việc nước Anh đang xúi giục
Pháp đi về hướng đầu hàng, một
việc đi ngược lại quyền lợi không
những (tôi xin lặp lại không những) của
chúng ta mà của cả nước Anh nữa." Sau cùng, Tham Mưu Trưởng
Ridgeway cố vấn TT Eisenhower không nên can thiệp TT Eisenhower họp
khẩn với Ngoại trưởng Dulles để bàn
việc cứu văn t́nh h́nh, và đi tới quyết
định là sẽ yêu cầu Quốc hội đồng
ư cho mang quân đội vào Việt Nam để can
thiệp nếu Pháp đồng ư thỏa măn đ̣i
hỏi của Mỹ là để cho Việt Nam
được độc lập thực sự và để
cho Mỹ đào tạo quân đội bản xứ. Nhưng tới đây
th́ TT Eisenhower lại gặp thêm một khó khăn
nữa: Tướng Matthew Ridgeway, Tham mưu trưởng
Lục quân lại không ủng hộ và khuyên ông không
nên can thiệp. Ridgeway là người
đă thay thế Tướng MacArthur ở Triều Tiên.
Ông có uy tín lớn đối với TT Eisenhower. Ông ước tính
rằng muốn chiến thắng, sẽ cần từ
một nửa triệu tới một triệu quân, và
phải động viên khoảng 100.000 người
một tháng. Ngoài ra, c̣n phải xây cất cầu
cống, phi trường, đường xá, hải
cảng. Bết bát nhất là điều kiện
về địa h́nh: rừng núi, lũ lụt ở
Đông Dương lại c̣n khó khăn hơn cả
ở Triều Tiên. V́ Chính phủ Anh không
chịu cộng tác và Tướng Ridgeway không ủng
hộ, sau cùng TT Eisenhower đă bỏ ư định can
thiệp bằng quân sự. Ngày 7/05/1954, Điện
Biên Phủ thất thủ - đúng một tuần sau
ngày 30 tháng Tư. Sau Điện Biên
Phủ, Mỹ thôi thúc Pháp "cứ tiếp tục
chiến đấu, hăy coi đây chỉ là một
thất bại trong một trận chiến, chứ không
phải là đă bại trận. Và Pháp cũng chỉ
mất đi khoảng nửa sư đoàn. Khu vực
chiến lược quan trọng là toàn bộ lănh
thổ nằm sau 'Tuyến De Lattre' (nối từ
Vịnh Hạ Long tới Vĩnh Yên về phía Tây, và
theo Sông Đáy bọc xuống Phát Diệm rồi ra
biển về phía Nam) th́ vẫn c̣n nguyên vẹn. Nhưng dù Mỹ can ngăn,
Pháp đă đi tới quyết định bỏ
cuộc. Bài học từ Điện
Biên Phủ Như vậy, xét cho cùng
th́ lư do thất bại không phải là quân sự mà là
chính trị. Đó là v́ nhân dân và lănh đạo Pháp
đă nản ḷng, thối chí. Biến cố này xác
định một lần nữa bài học cho những
nhà lănh đạo, những người chỉ huy các
cuộc chiến, rằng: "quân sự là chính
trị theo một phương tiện khác - "war is
politics by other means." Trong nhiều t́nh
huống chỉ cần một chiến thắng - hay
được dư luận coi như là một
chiến thắng: đánh một trận vào đúng lúc,
đúng chỗ, đúng mục tiêu là có thể kết
thúc được cuộc chiến. Lúc ấy, dư
luận cho rằng Pháp đă thất trận ở Paris
chứ không phải ở Điện Biên Phủ, cũng
như sau này, biến cố Mậu Thân được
coi là Điện Biên Phủ của Tổng thống
Lyndon Johnson, và Mỹ đă thất bại ở
Washington chứ không phải ở Sài G̣n. Bài viết thể hiện
quan điểm riêng của Tiến sỹ Nguyễn Tiến
Hưng nguyên giáo sư kinh tế tại N.C. Wesleyan
College, Trinity College, và Howard University, và là kinh tế gia
của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (1966-1070). Ông
là cựu Tổng Trưởng Kế Hoạch Việt
Nam Cộng Ḥa từ năm 1973 đến 1975, và là
phụ tá về Tái Thiết của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư
tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản - ngoài
những sách về kinh tế - các cuốn "The Palace
File" (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập)
(1986), "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" (2005),
"Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" (2010) và
"Khi Đồng Minh Nhảy Vào" (2016).
|