ĐẠI
NẠN TRUNG HOA: GIẢI GIỚI HAY TRỤC LỢI Trần Gia Phụng |
Sau khi
thế chiến thứ hai (1939-1945) kết thúc ở Âu
Châu, và trước khi kết thúc ở Á Châu, tam cường
Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô họp thượng đỉnh
tại Potsdam, ngoại ô Berlin (Đức) từ ngày
17-7 đến 2-8-1945. Pháp không được
kể là nước thắng trận nên không dự
họp. Tại
đây, Anh và Hoa Kỳ cùng Trung Hoa (Quốc Dân Đảng)
kư bản tuyên bố ngày 26-7-1945 (xem như tối
hậu thư) gởi cho Nhật Bản, buộc quân
đội Nhật Bản phải đầu hàng vô
điều kiện và buộc Nhật Bản phải
chấp nhận những điều kiện do Đồng
minh đưa ra. Lúc đó Trung Hoa không dự
họp hội nghị Potsdam, nhưng đồng ư kư vào
tối hậu thư qua đài phát thanh. Riêng
về Đông Dương, tối hậu thư Potsdam
giao việc giải giới quân đội Nhật
Bản ở bắc vĩ tuyến 16 cho quân đội
Trung Hoa (Quốc Dân Đảng), và nam vĩ tuyến 16
cho quân đội Anh. Liên Xô chưa tuyên chiến
với Nhật Bản, không có tên trong tối hậu thư
v́ Liên Xô đă kư ḥa ước bất tương xâm
với Nhật Bản từ ngày 13-4-1941. Nhật
Bản không chấp nhận đầu hàng theo tối
hậu thư Potsdam. Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả
quả bom nguyên tử đầu tiên, có tên lóng là
“Little Boy”, xuống thành phố Hiroshima (Nhật
Bản), giết chết khoảng 130,000 người.
Biết chắc chắn Nhật Bản sẽ đầu
hàng, Liên Xô liền xé bỏ ḥa ước bất tương
xâm với Nhật Bản, quyết định tuyên
chiến với Nhật Bản vào lúc 5 giờ chiều
ngày 8-8-1945. Sáng sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn
quân qua chiếm Măn Châu và vùng đông bắc Trung Hoa do
Nhật Bản chiếm đóng, chỉ vài giờ trước
khi Hoa Kỳ dội thêm quả bom nguyên tử thứ
hai, có tên lóng là “Fat Man”, xuống thành phố
Nagasaki, giết chết khoảng 75,000 người. Ngày
14-8-1945, Nhật hoàng Hiri-Hito (trị v́ 1926-1989) tuyên
bố đầu hàng Đồng minh. Thế là
thế chiến thứ hai chấm dứt ở Á Châu và
cũng chấm dứt luôn ở trên thế giới.
Các nước Trung Hoa và Anh bắt đầu thực
hiện việc giải giới quân đội Nhật
tại Đông Dương theo tối hậu thư
Potsdam. 1.-
QUÂN TRUNG HOA VÀO VIỆT NAM Tại
Trung Hoa, tướng Hà Ứng Khâm (Ho Ying-chin), tổng tư
lệnh quân đội Trung Hoa hứa hẹn với
trung tướng Marcel Alessandri, chi huy trưởng quân Pháp
ở Vân Nam, sẽ đưa quân Pháp đi theo, khi quân
Trung Hoa tiến vào Bắc Kỳ để giải
giới quân Nhật. Được
tin Nhật đầu hàng (14-8-1945), tướng Marcel
Alessandri đang ở Côn Minh (Kunming), thủ phủ
tỉnh Vân Nam, t́m cách gặp tướng Lư Hán (Lu
Han), tổng đốc kiêm chỉ huy trưởng quân
đội tỉnh Vân Nam, người sẽ phụ trách
dẫn quân Trung Hoa qua Việt Nam để giải
giới quân đội Nhật. Lư Hán là một
kẻ nghiện thuốc phiện. (Marcel Medrano (cựu sĩ
quan Pháp ở Đông Dương), Histoire de l'Indochine
française durant la seconde guerre mondiale (1939-1945), chương
“Le retour des français en Indochine”, mục 2 “Le problème du
Nord”. Internet). Vốn ghét Marcel Alessandri, nên Lư Hán
tránh mặt. Khi
dẫn quân ra đi ngày 28-8-1945, Lư Hán không báo tin cho
tướng Alessandri biết. (Philippe Devillers, Histoire
du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 151, chú
thích số 4.) Số quân Trung Hoa (Quốc Dân Đảng)
do Lư Hán đưa vào Việt Nam lên đến
khoảng 200,000 người, không có người Pháp
đi theo. (Stanley
Karnow, Vietnam a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 15.)
Trong bộ chỉ huy của tướng Lư Hán, c̣n có
tướng Tiêu Văn (Siao Wen), làm uỷ viên chính
trị. Lúc đó, mặt
trận Việt Minh, thuộc đăng Cộng Sản Dông
Dương do Hồ Chí Minh lănh đạo, đă cướp
được chính quyền và gấp rút thành lập
nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH)
ngày 2-9-1945, nhằm tạo một cơ cấu chính
trị có sẵn, trước khi quân nước ngoài vào
Việt Nam. Ngày 14-9-1945, Lư Hán cùng
bộ tham mưu đến Hà Nội, đóng bản
doanh ở phủ toàn quyền Pháp cũ, không đếm
xỉa ǵ đến sự có mặt của nhà nước
VNDCCH. Trong cuộc họp báo ngày 15-9, Lư Hán tuyên
bố rằng khoảng 200,000 quân Trung Hoa vào Việt
Nam, và chỉ lo việc giải giới quân đội
Nhật, không dính líu vào chuyện nội bộ
Việt Nam.(Chính Đạo, Việt Nam niên biểu,
tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 264.) Sau đó, ngày 19-9-1945, tướng
Marcel Alessandri cùng cố vấn chính trị là Léon
Pignon, được thiếu tướng Mỹ là
Philip Gallagher, cố vấn của Lư Hán, giúp máy bay
đến Hà Nội. Archimedes Patti, thiếu tá t́nh
báo Hoa Kỳ, trưởng toán O.S.S. 202, cũng đến
Hà Nội ngày 22-8-1945. Ngày hôm sau, một người
Liên Xô là Stephane Solosieff liên lạc ngay với Patti.
Theo Patti, Solosieff có thể vừa là nhân viên ngoại
giao, vừa là nhân viên t́nh báo của Liên Xô, được
cử đến Hà Nội để theo dơi t́nh h́nh.
(Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of
California Press, Berkely, 1980, tt. 360-361.) Lễ đầu hàng và giải giới
quân đội Nhật Bản tại Việt Nam ở
phía bắc vĩ tuyến 16
chính
thức được tổ chức ngày 28-9-1945 ở
Hà Nội tại phủ toàn quyền Pháp cũ, dưới
sự chủ tŕ của Lư Hán và đại diện
Đồng minh. Trong pḥng hành lễ treo bốn lá
cờ Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Hoa và Anh Quốc. Không
có cờ Pháp, v́ Pháp không được kể là nước
thắng trận, dầu trung tướng Marcel Alessandri,
đại diện Pháp ở miền Bắc, được
mời tham dự. Tại Hà Nội không có
phái bộ ngoại giao của Liên Xô. Phái đoàn
Ba Lan (Poland) thay mặt cho Liên Xô trong những liên
lạc ngoại giao với VNDCCH. (Bảo Đại, Con
rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 233.)
Trong buổi lễ quân Nhật Bản đầu hàng,
ngoài đại diện các nước Đồng minh,
c̣n có sự hiện diện của Stephane Solosieff, đại
diện Liên Xô. Lúc đó, không ai được
biết Solosieff liên lạc như thế nào với
Hồ Chí Minh. Thiếu tá t́nh báo Hoa Kỳ Archimedes
Patti cho biết Solosieff đang kiếm cách rời Hà
Nội, và đưa những nhân viên Liên Xô trong
mặt trận Việt Minh rời Hà Nội hoặc
rời Đông Dương trước khi lực lượng
Anh và Trung Hoa đến. Cũng theo A. Patti, có
một toán cộng sản, gồm người Nga, Đức,
Bỉ, Hung, trong đạo quân Lê-dương của Pháp,
đă từng cộng tác với Việt Minh trước
khi Việt Minh chiếm được chính quyền.
(Archimedes L. A. Patti, sđd. tt. 178-181.) Quân Trung Hoa vào Việt
Nam gồm có bốn sư đoàn, trong đó hai sư
đoàn Vân Nam và hai sư đoàn Quảng Tây. Hai sư
đoàn Vân Nam do Lư Hán trực tiếp chỉ huy,
gồm sư đoàn 93 do tướng Lư Cổ
Truyền dẫn đầu, vào ngă Lào Cai, theo thung lũng
sông Hồng đến Hà Nội và sư đoàn 60 do tướng
Vạn Bảo Bang chỉ huy, tiến vào miền trung
Việt Nam qua hai hải cảng Vinh và Đà Nẵng.
Hai sư đoàn Quảng Tây là sư đoàn 62 do tướng
Hoàng Đào lănh đạo, vào đường Cao
Bằng - Lạng Sơn, xuống thẳng Hà Nội và
sư đoàn 52 do tướng Triệu Công Vũ
phụ trách tiến đến Hải Pḥng. Đoàn
quân Trung Hoa là những toán quân ô hợp, ăn
bận lôi thôi, kèm theo đoàn tùy tùng là phu khuân vác,
đàn bà, trẻ em, vừa đói rách, bệnh
tật, vừa vô kỷ luật, gây ra nhiều vụ cướp
phá khắp nơi. Ngày 2-10-1945, tướng
Hà Ứng Khâm, tổng tư lệnh quân đội
Trung Hoa, tới Hà Nội thanh tra. Cùng đi với
Hà Ứng Khâm có trung tướng Hoa Kỳ là Robert
McLure. Tướng Hà Ứng Khâm tuyên bố
rằng Trung Hoa không có tham vọng đất đai
ở Việt Nam, mà chỉ đến giúp Việt Nam
thực hiện dần dần nền độc lập
theo kế hoạch của các cường quốc Đồng
minh. Hà Ứng Khâm c̣n tiếp rằng không một
chiến thuyền nào của Pháp được đến
Đông Dương, mà không có sự ưng thuận
của Đồng minh, đặc biệt vùng đất
do quân đội Trung Hoa kiểm soát. (Philippe
Devillers, sđd. tr. 193.) Khi vào Việt Nam, quân
Trung Hoa dùng tiền Trung Hoa gọi là quan kim và quốc
tệ, đổi lấy tiền Đông Dương
để sử dụng. Càng về sau, hai loại
tiền nầy càng mất giá. Lư Hán đ̣i Ngân
Hàng Đông Dương (NHĐD) phải giao cho quân
đội Trung Hoa 300 triệu đồng để chi
tiêu, nhưng cho đến ngày 26-9-1945, NHĐD chỉ
trao từ từ đến 45 triệu mà thôi. (Chính
Đạo, sđd. tr. 270.) Nhà cầm quyền
Việt Minh phải nhiều lần lên tiếng trên báo
chí để khuyên dân chúng đừng gây gổ,
chống đối quân đội Trung Hoa. Việt
Minh c̣n ca tụng quân Trung Hoa vào Việt Nam với
thiện chí giúp đỡ Việt Nam, giải giới
quân đội Nhật. Điều làm cho Hồ Chí
Minh và Việt Minh lo ngại nhứt, là khi vào Việt
Nam, quân Trung Hoa đưa luôn cả những lănh tụ
chính trị các đảng phái Việt Nam theo chủ
nghĩa dân tộc ở Trung Hoa trở về Việt
Nam, bởi v́ các tướng lănh Trung Hoa ở Vân Nam cũng
như Quảng Tây đều quen biết các lănh tụ
Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách
Mạng Đồng Minh Hội, như Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần
... Hồ Chí Minh và Việt
Minh rất lúng túng. Lúc đó, Việt Minh phải
đối phó với ba thế lực cùng một lúc:
quân đội Trung Hoa, các đảng phái Việt Nam
đối lập với Việt Minh cộng sản, và
người Pháp đang trở lui Việt Nam.
Việt Minh t́m cách đối phó riêng lẽ ba thế
lực trên bằng những biện pháp khác nhau. Đối với quân
đội Trung Hoa, Việt Minh theo phương pháp
cổ điển là hối lộ cho các tướng lănh
Trung Hoa. Vào cuối tháng 9-1945, có nguồn tin cho
rằng Việt Minh đă hối lộ cho tướng
Tiêu Văn và tướng Lư Hán, mỗi người
một bộ đồ nghề hút thuốc phiện (bàn
đèn) bằng vàng ṛng. (Đoàn Thêm, Hai mươi
năm qua, 1945-1964, Sài G̣n: 1965, California: Nxb Xuân Thu tái
bản, không đề năm, tr. 14.) 2.-
QUÂN TRUNG HOA TRỤC LỢI VÀ RÚT LUI Tối hậu thư
Potsdam ngày 26-7-1945 giao cho quân đội Trung Hoa giải
giới quân đội Nhật Bản ở phía bắc
vĩ tuyến 16. V́ vậy, muốn tái chiếm
Bắc Kỳ, Pháp phải thương lượng
thẳng với Trung Hoa. Về phía Trung Hoa, thi hành
tối hậu thư Potsdam, Trung Hoa đưa khoảng
200,000 quân vào Bắc kỳ để giải giới quân
Nhật, chỉ nhắm mục đích trục lợi,
chứ Trung Hoa cũng chẳng muốn đóng quân
lâu ngày ở Việt Nam. Trung Hoa sẵn sàng thương
lượng với Pháp để giao Việt Nam lại
cho Pháp, v́ các lư do riêng của Trung Hoa: 1) Thứ
nhứt, về kinh tế, Trung Hoa muốn Pháp trả
lại cho Trung Hoa đất đai mà Pháp đă
chiếm của Trung Hoa trước đây, quyền
kiểm soát các thiết lộ trên đất Trung Hoa.
2) Thứ hai, về chính trị và ngoại giao, Trung Hoa
muốn chứng tỏ Trung Hoa tôn trọng chủ
quyền Pháp đối với thuộc địa cũ
của Pháp là Đông Dương, để yêu cầu
Liên Xô tôn trọng chủ quyền của Trung Hoa đối
với Măn Châu và trả Măn Châu lại cho Trung Hoa. 3)
Thứ ba, về quân sự, Tưởng Giới
Thạch muốn dùng hai hải cảng Hải Pḥng và Ḥn
Gai để đưa sư đoàn 60 do tướng
Vạn Bảo Bang chỉ huy, từ tỉnh Vân Nam đi
Măn Châu, để đối phó t́nh h́nh ở vùng
nầy. (Stein Tonnesson, “La paix imposée par la Chine: l'accord
Franco-vietnamien du 6 mars 1946”, Les Cahiers de l'Institut D'Histoire
Du Temps Présent, Paris: Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers
chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tt. 47-48.) Tuy dự tính rút quân, nhưng
Trung Hoa biết Pháp nôn nóng tái chiếm Bắc Kỳ, nên
Trung Hoa gây khó khăn cho Pháp để làm giá thương
lượng. Vấn đề chính là Lư Hán yêu
cầu cung cấp tài chánh và thực phẩm cho quân
đội Trung Hoa. Tướng Trung Hoa là Ma Chang Yang
vào Sài G̣n ngày 12-11-1945, đ̣i Pháp phải cung cấp
cho quân Trung Hoa mỗi tháng 5,000 tấn gạo. Cao
uỷ Pháp tại Đông Dương, đô đốc
Georges Thierry d'Argenlieu, đồng ư với điều
kiện Trung Hoa rút lui khỏi Lào trước ngày
1-1-1946. Dầu Việt Minh
chiếm được chính quyền, nhưng Đông Dương
Ngân Hàng của người Pháp ở Hà Nội cũng
như ở Sài G̣n do quân Nhật bảo vệ, nên
Việt Minh không chiếm được hai ngân hàng
nầy. (Đặng Phong, Lịch sử kinh tế
Việt Nam 1945-2000, tập I: 1945-1954, Nxb. Khoa Học Xă
hội, 2002, tr. 121 và tr. 153.) Khi giải giới quân
đội Nhật, quân Trung Hoa thay quân Nhật bảo
vệ Đông Dương Ngân Hàng. (Chính Đạo, sđd.
tr. 28.) Tướng Lư Hán tăng
dần các đ̣i hỏi về tài chánh. Ngày
14-11-1945, Lư Hán buộc Đông Dương Ngân hàng
phải xuất 600,000 đồng Đông Dương
để đổi tiền quan kim cho quân Trung Hoa,
mỗi người được đổi 50 quan kim.
Ngoài ra, mỗi tháng Đông Dương Ngân Hàng
phải ứng cho quân đội Trung Hoa 110 triệu
đồng tiền quân phí, trừ vào tiền bồi
thường chiến tranh của Nhật. Ngày 20-11,
Lư Hán lập lại tối hậu thư trên đây. Sau khi tham khảo ư
kiến của Jean Sainteny, đại diện Pháp ở
Bắc Kỳ, ngày 25-11 đô đốc D'Argenlieu từ
chối đ̣i hỏi của Trung Hoa, th́ ngày 29-11-1945,
quân đội Trung Hoa bắt giam viên giám đốc chi
nhánh Đông Dương Ngân Hàng ở Hà Nội.
Cuối cùng, bộ tư lệnh Trung Hoa và Pháp đạt
thỏa thuận về vấn đề cung cấp tài
chánh cho quân đội Trung Hoa ở Đông Dương
ngày 4-12-1945. (Chính Đạo, sđd. tt. 289-291.) Tại Trung Hoa, Pháp đẩy
mạnh cuộc thương lượng với chính
phủ Trung Hoa từ gần cuối năm 1945.
Đầu năm 1946, thiếu tướng Raoul Salan (Pháp),
tư lệnh lực lượng Pháp tại Trung Hoa và
Bắc Kỳ, đồng thời đại diện Pháp
bên cạnh bộ Tư lệnh Trung Hoa từ 1-11-1945,
đến Trùng Khánh để thảo luận về
việc quân Pháp thay thế quân Trung Hoa ở bắc vĩ
tuyến 16. Cuộc thảo luận bắt đầu
từ 8-1-1946. Để tỏ thiện chí, ngày
16-1-1946, Trung Hoa đồng ư cho Pháp tiến quân vào
đất Lào (Laos). Cuộc thương
thuyết Pháp-Hoa bế tắc một thời gian.
Đến ngày 15-2-1946, hội nghị được
khai thông. Ảnh hưởng đầu tiên là tướng
Tiêu Văn, uỷ viên chính trị của đoàn quân
viễn chinh do Lư Hán cầm đầu, bị
triệu hồi về nước ngày 23-2-1946. Tiêu
Văn là người quen biết các lănh tụ Việt
Cách cũng như VNQDĐ từ khi c̣n ở Trung Hoa và
thường bênh vực hai nhóm chính trị nầy. (Đoàn
Thêm, sđd. tr. 19.) Ngày 28-2-1946 tại Trùng
Khánh, ngoại trưởng Trung Hoa là Vương
Thế Kiệt (Wang Shih-chiek) và đại sứ Pháp
tại Trung Hoa là Jacques Meyrier kư kết hiệp ước
Trùng Khánh (Pháp-Hoa) về việc quân Pháp thay
thế quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16
tại Đông Dương, theo đó Trung Hoa chịu rút
quân ra khỏi Việt Nam từ ngày 1 đến 15-3, và
chậm nhứt là ngày 31-3-1946. Ngược
lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp
ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông,
Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam,
sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông
Dương, miễn thuế người Hoa ở
Hải Pḥng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa
ngang qua Bắc kỳ sẽ khỏi phải chịu
thuế. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân
Đảng, tái bản kỳ 2, Sài G̣n 1970, tr. 300.
Xem thêm: David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power,
University of California Press, 1995, tr. 544.) Trong khi đang c̣n thương
lượng với Trung Hoa, ngày 20-2-1946, Ủy ban Liên
bộ về Đông Dương của chính phủ Pháp
đă thông qua tại Paris, với sự hiện
diện của đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu
(cao ủy Pháp tại Đông Dương), kế
hoạch hành quân Bentré để tái chiếm
Bắc Kỳ, do trung tá Jean Lecomte, trưởng Pḥng 3
bộ Tham mưu của tướng Leclerc soạn.
Kế hoạch nầy nhắm mục đích đưa
quân Pháp thay thế quân Trung Hoa ở Bắc kỳ trong
tháng 3-1946, trước khi mùa mưa bắt đầu
từ tháng 5 ở đất Bắc và nhứt là trước
khi nhà cầm quyền Việt Minh được
củng cố. Thi hành kế hoạch
nầy, ngày 27-2-1946, Pháp dùng 35 chiến hạm, chuyên
chở từ trong Nam ra Hải Pḥng 21,000 quân của sư
đoàn 9 bộ binh thuộc địa Pháp (9è Division
d'infanterie colonial) [DIC] do trung tướng Jean Valluy
chỉ huy, và binh đoàn số 2 (groupement de la 2è
Demi-brigade) do đại tá Jacques Émile Massu chỉ huy.
(Stein Tonnesson, bài đă dẫn, sđd. tt. 36-38.) Vào chiều ngày 5-3-1946,
chiến hạm Pháp xuất hiện ở ngoài khơi
Hải Pḥng. Sáng sớm hôm sau, ngày 6-3-1946, đoàn
quân Pháp đổ bộ xuống Hải Pḥng. V́
chưa được lệnh cấp trên, quân Trung Hoa
kháng cự mạnh mẽ, gây thiệt hại nặng
cho Pháp: chết 34 người, bị thương 93 người,
Valluy cũng bị thương nhẹ. (Chính Đạo,
sđd. tr. 316.) Đến trưa, hai bên
mới thỏa thuận được với nhau.
Cuối cùng, quân Pháp chính thức đổ bộ
Hải Pḥng với sự đồng ư của người
Trung Hoa ngày 8-3-1946. Từ đây, Trung Hoa
dần dần rút quân về nước. Ngày
13-3-1946, đại diện Pháp và Trung Hoa kư kết quy
ước quân sự tại Trùng Khánh, theo đó, Trung
Hoa chính thức thỏa thuận cho quân đội Pháp
thay thế quân đội Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Lịch tŕnh quân Trung Hoa
rút lui và giao lại cho Pháp ở các tỉnh như sau:
Đà Nẵng (Tourane), Đông Hà (Quảng Trị)
(26-3), Huế (27-3), Đồng Hới (28-3), Thanh Hóa
(29-3), Ninh Ḥa (30-3), Thái B́nh, Nam Định (31-3). (Chính
Đạo, sđd. tr. 324.) Sau khi rút, quân Trung Hoa
tập trung ở các thành phố Huế, Vinh, Thanh Hóa, và
Nam Định để được đưa
về nước. Quân Pháp lần lượt đến
trú đóng ở những nơi quân Trung Hoa rút đi. KẾT
LUẬN Trong
thế chiến thứ hai, Trung Hoa chẳng có công ǵ
đối với Việt Nam và cũng chẳng có công
ǵ trong việc giúp Đồng minh chiến thắng
Nhật Bản. Bản thân quân đội Trung Hoa
không đủ sức bảo vệ đất nước
Trung Hoa, để cho Nhật Bản xâm lăng và
chiếm đóng nhiều nơi. Do hai quả bom nguyên
tử của Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima ngày
6-8-1945 và Nagasaki ngày 9-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng ngày 14-8-1945, nên Nhật Bản đành
phải rút quân về nước. Trung Hoa mới
thoát khỏi bị Nhật Bản chiếm đóng. Theo
tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, Anh và Hoa Kỳ
giao cho Trung Hoa giải giái quân đội Nhật
Bản ở phía bắc vĩ tuyến 16 chẳng qua là
một giải pháp trung chuyển để Pháp thương
lượng với Trung Hoa mà trở lui Việt Nam, v́
không thể trực tiếp giao Bắc Việt Nam cho Pháp.
Thế là Trung Hoa lợi dụng thời cơ, nuôi béo
các đạo quân đói rách bệnh tật ở Vân
Nam và Lưỡng Quảng. Pháp muốn tái
chiếm Bắc Kỳ đành nhượng bộ và
trả lại cho Trung Hoa những quyền lợi kinh
tế mà Pháp đă sở hữu trên đất Trung
Hoa từ thời Nha phiến chiến tranh (1840). Cho
đến đây, đại nạn Trung Hoa đối
với Việt Nam vẫn chưa chấm dứt,
nhất là một khi lănh tụ cộng sản là
Hồ Chí Minh sang cầu viện Trung Cộng sau khi Mao
Trạch Đông chiếm được lục địa
Trung Hoa và thành lập Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa
tức Trung Cộng ngày 1-10-1949. Về
phía nhà nước VNDCCH, v́ quá yếu kém, đành lép
về chịu đựng những hoành hành của
ngoại bang. Lúc đó, đảng Cộng Sản
Đông Dương và Việt Minh bị lănh tụ Liên
Xô là Stalin nghi ngờ v́ đă từng hợp tác
với cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ là O.S.S. (Office of
Strategic Services) và Liên Xô chưa có quyền lợi ǵ
ở viễn đông xa xôi, nên Liên Xô cũng chưa giúp
đỡ ǵ cho viên gián điệp Hồ Chí Minh, đă
từng được Moscow đào tạo. TRẦN
GIA PHỤNG (Toronto, Canada) |