Đại
nạn Trung Hoa: Trung Cộng bẫy nợ
Trần Gia Phụng |
- Lịch sử cho
thấy tất cả những cuộc xâm lăng quân
sự mạnh mẽ của Trung Hoa vào Việt Nam đều
thất bại. Đến đời cộng sản cai
trị Trung Hoa, cộng sản đổi chiến lược,
thực hiện kế hoạch tằm ăn dâu, rất
thâm độc bằng cách giăng “bẫy nợ”, dùng
viện trợ nhử bắt con mồi cộng sản
Việt Nam (CSVN). 1. Hồ Chí Minh vào bẫy Chiến tranh Việt Minh-Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946. Việt Minh cộng sản thua chạy lên
miền rừng núi hay vào bưng biền. Đến năm
1949, đảng Cộng Sản thành công ở Trung Hoa.
Mao Trạch Đông (Mao Zedong) tuyên bố thành lập
chế độ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) ngày 1-10-1949, thường được gọi là Trung
Cộng, thủ đô là Bắc Kinh. Cuối năm 1949,
Hồ Chí Minh cử hai đại diện là Lư Bích Sơn
và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin
viện trợ. (Qiang
Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North
Carolina, 2000, tt. 13, 15.) Lúc
đó, Mao Trạch Đông cùng Châu Ân Lai (Zhou Enlai) qua
Moscow vừa chúc mừng sinh nhật thứ 70 của
Stalin, vừa thương thuyết. Lưu Thiếu
Kỳ (Liu Shaoqi), xử lư công việc bộ Chính
trị đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH), cử La
Quư Ba (Luo Guibo), uỷ viên trung ương đảng
Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) làm đại diện Trung
Cộng bên cạnh đảng Cộng Sản Đông Dương
(CSĐD). Theo
các tài liệu tuyên truyền của Trung Cộng, Trung
Cộng mới thành lập (1-10-1949), đang c̣n
nhiều khó khăn, chưa được các nước
Tây phương thừa nhận, nhưng v́ tinh thần
và nghĩa vụ quốc tế vô sản, Trung Cộng
hào phóng viện trợ không điều kiện cho
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH). (La Quư Ba,
“Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa
quốc tế vô sản”, đăng trong Hồi kư
của những người trong cuộc, ghi chép
thực về việc đoàn cố vấn quân sự
Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp,
một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử
đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, do Trần
Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Montreal:
Tạp chí Truyền Thông, số 32 & 33, 2009, tr. 22.) Đúng
là lúc đó các nước Tây phương chưa
thừa nhận Trung Cộng, nhưng Trung Cộng
lại sẵn sàng thừa nhận và giúp đỡ
VNDCCH không phải v́ tinh thần và nghĩa vụ
quốc tế CS, mà v́ hai chủ đích riêng: Thứ nhứt, lúc đó Trung Cộng chưa ổn định t́nh h́nh lục địa Trung Hoa, rất lo ngại Tưởng Giới Thạch nhờ các nước tư bản, nhứt là Hoa Kỳ và Pháp, giúp đỡ để lực lượng Quốc Dân Đảng quay trở lại tấn công Trung Cộng. V́ vậy, Trung Cộng nhận giúp đỡ Việt Minh để Vệt Minh giữ ǵn an ninh vùng biên giới Hoa Việt ở phía nam Trung Cộng, làm vùng trái độn an toàn cho Trung Cộng. Mao Trạch Đông công khai xác nhận việc nầy trong một cuộc họp của trung ương đảng CSTH tháng 11-1950. (La Quư Ba, bđd, tr. 27.)
Thứ hai là Trung Cộng giúp đỡ tối đa
VNDCCH, để cho CSVN vay mượn càng nhiều càng
tốt. Đến lúc cần, nếu VNDCCH không trả
được nợ, th́ Trung Cộng sẽ đ̣i cái
khác để trừ nợ, như đất đai,
hải đảo, nhứt là Trung Cộng dự tính
sử dụng VNDCCH để mở đường
xuống Đông Nam Á. Đây là một cách giăng
bẫy nợ khá tinh vi mà trước đây những
phú hộ giàu có ở nông thôn thường cho người
nghèo vay nợ để o ép người nghèo phải
đến ở đợ hoặc nạp con cái đến
ở đợ mà trả nợ. Hồ Chí Minh đang
trong cơn bối rối, bị Pháp đuổi
chạy, gặp được sự giúp đỡ vô
điều kiện, vội tự động lọt vào
bẫy nợ của Trung Cộng. Sau
phái đoàn Lư Bích Sơn và Lưu Đức Thủy,
đích thân Hồ Chí Minh bí mật qua Bắc Kinh
cầu viện ngày 30-1-1950. Mao Trạch Đông và Châu
Ân Lai vẫn c̣n ở Liên Xô. Hồ Chí Minh làm kiểm
điểm trước Lưu Thiếu Kỳ (Trần
Đĩnh, Đèn cù, California: Người Việt
Books, 2014, tr. 49.) Tại sao Hồ Chí Minh phải làm
kiểm điểm với ngoại bang? Kiểm điểm
với tư cách đại diện đảng CSĐD
hay với tư cách chủ tịch nhà nước
VNDCCH? Kểm điểm những ǵ? Hiện bản
kiểm điểm nầy ở đâu? Cả hai đảng
CS Việt và Tàu đề giữ kín việc nầy. Tiếp
đó, Lưu Thiếu Kỳ giúp Hồ Chí Minh đi
tiếp qua Liên Xô. Hồ Chí Minh đến Moscow tối
6-2-1950. Bí thư thứ nhứt đảng CS Liên Xô là
Joseph Stalin tiếp Hồ Chí Minh tại văn pḥng làm
việc, với sự có mặt của Malenkow, Molotow,
Bulganin và Vương Gia Tường, đại sứ
Trung Cộng tại Liên Xô. Stalin nói thẳng với HCM:
“Chúng tôi đă trao đổi với các đồng
chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến
tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do
Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn... Trung
Quốc ở sát Việt Nam, hiểu rơ t́nh h́nh
Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh
của Trung Quốc càng có tác dụng làm gương
đối với Việt Nam, giúp các đồng chí
sẽ thuận tiện hơn.” (Trương
Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung
Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”,
trong Hồi kư những người trong cuộc...,
bđd. tr. 45.). Ngày
17-2-1950, Mao Trạch Đông, Châu Ân Lai rời Moscow
trở về Bắc Kinh bằng xe hỏa. Hồ Chí
Minh cùng đi theo chuyến tàu nầy. Trên đường
đi, khi xe hỏa đến vùng biên giới Nga-Hoa, th́
một hôm “đi đến toa xe của Mao Trạch
Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung
Quốc: “Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn
bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng
không kư hiệp ước với chúng tôi, cuộc
chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay
về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ
của Trung Quốc.” (Trương Quảng Hoa, bđd.
tr. 47.) Sau
chuyến đi cầu viện, tháng 4-1950 Hồ Chí Minh
gởi đến Bắc Kinh danh mục xin viện
trợ, đồng thời đề nghị CHNDTH
lập một trường vơ bị ở Trung Hoa để
huấn luyện quân đội Việt Minh, gởi
cố vấn quân sự sang giúp Việt Minh và xin giúp
thêm quân nhu, quân cụ, súng ống. Từ đó, CHNDTH
viện trợ tối đa cho VNDCCH đến nỗi
theo Đặng Văn Việt, trung đoàn trưởng
đầu tiên trung đoàn 174 bộ đội Việt
Minh, th́ "viện trợ quân sự, vũ khí đạn
dược, vào như nước..." (Đặng
Văn Việt, Người lính già Đặng Văn
Việt, chiến sĩ đường số 4 anh hùng
(hồi ức), TpHCM: Nxb. Trẻ, 2003, tr. 179.) Từ
đó, chẳng những viện trợ vơ khí, quân nhu,
viện trợ kinh tế, mà Trung Cộng c̣n gởi
đoàn cố vấn chính trị và quân sự đông
đảo, nói rằng qua giúp đỡ, nhưng
thực tế là điều khiển những hoạt
động của đảng CSĐD. Những chiến
dịch chính trị như phong trào chỉnh huấn, rèn
cán chỉnh cơ, rèn cán chỉnh quân, cải cách
ruộng đất đều do cán bộ Trung Cộng
chỉ huy. Những cuộc hành quân lớn nhỏ
của Việt Minh cộng sản cũng đều do
sự điều động của quân ủy trung
ương Trung Cộng ở Bắc Kinh. Nhờ
sự viện trợ dồi dào toàn diện của
Trung Cộng mà lực lượng Việt Minh gượng
lại được, bắt đầu chiến
thắng trận Đông Khê năm 1950 do tướng
Trung Cộng là Trần Canh (Chen Geng) chỉ huy, cho đến
trận Điện Biên Phủ năm 1954. 2.
Trung Cộng trừ nợ Hiệp
định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt
Nam hay Hiệp định đ́nh
chiến Genève ngày 20-7-1954, chia hai Việt Nam ở vĩ
tuyến 17. Bắc Việt Nam thuộc VNDCCH do đảng
Lao Động theo chủ nghĩa cộng sản cai
trị. Nam Việt Nam thuộc chính quyền Quốc Gia
Việt Nam, đổi thành Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH)
ngày 26-10-1955. Theo
Hiệp định Genève, th́ ngày 9-10-1954 là hạn chót
cho những người muốn di tản khỏi Hà
Nội, di cư vào Nam. Hôm sau, ngày 10-10-1954, quân đội
CS vào tiếp thu Hà Nội. Hải Pḥng, điểm
tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư
bằng tàu thủy vào miền Nam, do CS tiếp thu ngày
13-5-1955. Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối cùng rút lui
khỏi đảo Cát Bà (Vịnh Hạ Long, vùng
Hải Pḥng) ngày 16-5-1955. Sau ngày nầy, quân đội
Pháp và quân đội Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn không
c̣n ở đất Bắc. Từ nay, phần lănh
thổ và lănh hải phía bắc vĩ tuyến 17
huộc quyền VNDCCH. Về
vấn đề lănh hải vịnh Bắc Việt, sau
khi Pháp bảo hộ Việt Nam năm
1884, Pháp thương
thuyết với nhà Thanh bên Trung Hoa, và cùng nhà Thanh
thỏa thuận ngày 2-6-1887 rằng quần đảo
Bạch Long Vỹ (BLV) trong vịnh Hạ Long thuộc lănh
hải Việt Nam, tức thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Quần
đảo BLV tuy nhỏ, diện tích tổng cộng
khoảng 3 km2, nhưng rất quan trọng về kinh
tế và quốc pḥng. Về kinh tế, khu vực BLV có
nhiều hải sản, nhứt là bào ngư, có giá
trị dinh dưỡng cao mà người Việt Nam
rất ưa thích. Hiện nay, người ta được
biết đáy biển vùng nầy có nhiều tiềm năng
về chất đốt chưa được khai thác.
Về quốc pḥng, BLV giữ vị trí chiến lược
tiền tiêu để bảo vệ Bắc Việt. Pháp
đặt một đơn vị hải quân ở
đây, kiểm soát tàu bè đi lại trên vịnh
Bắc Việt. Năm
1949, khi cộng sản chiếm được lục
địa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch di
tản ra Đài Loan. Một số quân đội
Quốc Dân Đảng Trung Hoa chạy sang Bắc
Việt Nam lánh nạn, được tập trung
đưa đến làm việc ở các vùng quặng
mỏ. Trong khi đó, ở ngoài vịnh Bắc
Việt, quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa từ các
hải đảo ở vùng Hải Nam chạy xuống,
tràn vào quần đảo BLV, tiếp tục sinh
sống nghể đánh bắt cá. Sau
năm 1954, quần đảo BLV thuộc chủ
quyền của VNDCCH. Theo lời kể của học
giả Dương Danh Dy trong cuộc phỏng vấn
của đài BBC Tiếng Việt ngày 13-4-2010, th́: “Câu
chuyện lịch sử là như thế này: tháng
10/1954, sau khi kư Hiệp định Genève, quân đội
Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Đảo
Bạch Long Vĩ lúc đó vẫn là của Việt
Nam, nhưng do có một số khó khăn, và tôi cũng
không rơ là thỏa thuận ở cấp nào nhưng có
việc Việt Nam nhờ Trung Quốc ra tiếp
quản hộ. Trung Quốc giữ hộ Việt Nam
tới năm 1956 th́ trả lại cho Việt Nam.
Hồi đó tôi c̣n trẻ, sau khi vào Bộ Ngoại
giao th́ tôi có được tận mắt đọc
biên bản kư kết về việc Trung Quốc trao
trả lại đảo Bạch Long Vĩ cho Việt
Nam. Có một chi tiết thú vị là lúc đó Việt
Nam c̣n ngần ngừ chưa nhận v́ chưa có phương
tiện để ra đảo. Thế là phía Trung
Quốc, sau khi thỉnh thị, lại tặng thêm
cho Việt Nam hai chiếc ca-nô.” (Trích nguyên văn
BBC Tiếng Việt ngày 13-4-2010.) Nguồn tin nầy
được Talawas blog ngày 14-04-2010 thuật lại
dựa theo tin của Đài BBC Tiếng Việt. Tuy
nhiên, khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi
Trẻ Online ngày 24-05-2014, thạc sĩ Hoàng Việt,
một nhà nghiên cứu về Biển Đông, nói hơi
khác. Sau đây là nguyên văn lời thạc sĩ Hoàng
Việt: "Rồi năm 1957, hồng quân Trung
Quốc đă chiếm đảo Bạch Long Vĩ
rồi sau đó trao trả lại cho phía VNDCCH." Ở
đây có điểm khác nhau giữa hai học giả
Dương Danh Dy và Hoàng Việt. Ông Dương Danh Dy
nói rằng VNDCCH “nhờ Trung Quốc ra tiếp
quản hộ.” Ông Hoàng Hiệp th́ cho rằng
“hồng quân Trung Quốc đă chiếm đảo
Bạch Long Vĩ...” Nếu
theo lời kể ông Dương Danh Dy, câu hỏi đặt
ra là quân đội CSVN tự hào đă đánh
thắng thực dân Pháp năm 1954, th́ tại sao CSVN không
đủ sức tiếp quản quần đảo BLV
lúc đó “đă sạch bóng quân thù”, mà CSVN
phải nhờ Trung Cộng tiếp quản? Phải chăng
ông Dy ăn nói tránh né một cách “ngoại giao”,
vốn là nghể của ông? Theo
lời xác nhận của ông Hoàng Hiệp th́ Trung
Cộng đánh chiếm BLV năm 1957. Tuy nhiên, ông
Hiệp cũng như ông Dy không giải thích v́ sao
VNDCCH nhờ Trung Cộng tiếp quản, hoặc v́ sao
Trung Cộng đánh chiếm BLV? Và cả hai ông cũng
không giải thích v́ sao Trung Cộng trả BLV lại
cho VNDCCH, trả lại không công hay trả lại có
điều kiện, để đổi lấy cái ǵ?
Có lẽ cả hai học giả lại cùng tránh né
một vấn đề mà theo dân chúng vùng Hải Pḥng
kể lại, có thể khá tế nhị và nghiêm
trọng. Theo
lời truyền khẩu của dân chúng địa phương,
sau hiệp định Genève năm 1954, quần đảo
BLV thuộc chủ quyền của VNDCCH. Tuy nhiên, Trung
Cộng lấy cớ BLV có nhiều người gốc
Hoa (chạy qua Việt Nam từ sau năm 1949), nên Trung
Cộng ngang ngược nhận rằng BLV thuộc
chủ quyền Trung Cộng và đánh chiếm BLV.
Đây là hành vi thổ phỉ, cướp của (cướp
đảo) để trừ nợ mà VNDCCH vay mượn
Trung Cộng suốt thời gian từ 1949 đến
1954. Nhà
cầm quyền VNDCCH há miệng mắc quai, đành im
tiếng và phải thương lượng với Trung
Cộng, đưa đến sự thỏa thuận
ngầm là Trung Cộng trả BLV cho VNDCCH, và đổi
lại VNDCCH theo đ̣i hỏi của Trung Cộng,
chịu nhượng bộ một điều ǵ đó
mà hai bên không tiết lộ. Đảng CS tức đảng
Lao Động thương thuyết và hứa hẹn riêng
với đảng CSTH, nhưng bắt dân tộc VN
phải gánh những hứa hẹn trao đổi
của họ và trả nợ cho Trung Cộng. Dân chúng
cho rằng để đổi lấy BLV, VNDCCH đồng
ư nhượng quần đảo Hoàng Sa cho Trung
Cộng, dầu lúc đó Hoàng Sa thuộc chủ
quyền của VNCH. Cộng
sản Việt Nam tưởng ḿnh khôn, “bán da
gấu” cho Tàu phù, dùng quần đảo Hoàng Sa để
thế chấp trao đổi với Trung Cộng, v́ Hoàng
Sa ở phía nam vĩ tuyến 17, thuộc chủ
quyền của VNCH, biết khi nào cộng sản đánh
chiếm được? Thực tế đây là
tội phản quốc lớn lao v́ không ai được
quyền đem tài sản quốc gia để cá cược,
dù đó là canh bạc bịp. Ngược lại Trung
Cộng muốn t́m đường xuống Biển
Đông, tính chuyện lâu dài, sẵn sàng chờ đợi
thời cơ chiếm đoạt Hoàng Sa. (Người
viết nghe được chuyện nầy tại Đà
Nẵng do một bác sĩ gốc Hải Pḥng kể
lại. Bác sĩ nầy từ Bắc vào Nam làm
việc sau năm 1975.) Nguồn
tin từ dân chúng cần được kiểm
chứng lại, nhưng thực tế cho thấy
nguồn tin nầy giúp làm rơ thêm nguồn tin của hai
học giả Dương Danh Dy và Hoàng Việt đă công
khai trên báo chí. Sự kiện BLV để lộ rơ ư
đồ viện trợ của Trung Cộng cho CSVN là
vừa được tiếng tương trợ xă
hội chủ nghĩa, vừa bảo vệ biên
giới phía nam của Trung Cộng, và nhứt là
vừa t́m đường xuống Đông Nam Á. Phải
chăng từ tiền đề BLV đưa đến
việc VNDCCH kư kết công hàm ngày 14-9-1958 về
chuyện lănh hải của Trung Cộng? 3.
Công hàm trả nợ ngày 14-9-1958 Nguyên
từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp
Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật
biển. Hội nghị kư kết bốn quy ước
về luật biển. Riêng quy ước về hải
phận của mỗi nước, có 3 đề
nghị: 3 hải lư, 12 hải lư và 200 hải lư.
Không
đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên
LHQ chưa có quyết định thống nhất. Lúc
đó, Trung Cộng, Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) không phải là
thành viên LHQ, nên không được mời tham dự
hội nghị nầy. Trước
cuộc tranh căi về hải phận, Mao Trạch Đông
tuyên bố ngày 28-6-1958 với nhóm tướng lănh thân
cận: “Ngày nay, Thái B́nh Dương không yên
ổn. Thái B́nh Dương chỉ yên ổn khi nào chúng
ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The
Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005ccccc tr. 426.) Tiếp
đó, ngày 4-9-1958, Trung Cộng đưa ra bản tuyên
cáo, nhắm mục đích lên tiếng xác định
lập trường về hải phận của Trung
Cộng là 12 hải lư, mà không gởi riêng cho nước
nào. Trong bản tuyên cáo, điều 1 và điều 4
cố ư lập lại và khẳng định chắc
chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền
của Trung Cộng và gọi theo tên Trung Cộng là
Xisha (Tây Sa tức Hoàng Sa) và Nansha (Nam Sa tức Trường
Sa). Điểm
cần chú ư là Trung Cộng lúc đó (1958) chưa
phải là thành viên LHQ và không thể dùng diễn đàn
của LHQ để bày tỏ quan điểm và chủ
trương của ḿnh, nên TC đơn phương
đưa ra bản tuyên cáo nầy, thông báo quyết
định về lănh hải của Trung Cộng. V́
vậy các nước khác không nhất thiết là
phải trả lời bản tuyên cáo của Trung
Cộng, nhưng riêng VNDCCH lại sốt sắng đáp
ứng ngay. Sự
quyết đoán ngang ngược của Trung Cộng,
bất chấp chẳng những VNDCCH mà bất chấp
cả VNCH và cả toàn thế giới về chủ
quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà
thủ tướng Trần Văn Hữu đă
khẳng định tại hội nghị San Francsco năm
1951, phải chăng v́ đă có sự thỏa thuận
bí mật giữa Trung Cộng và VNDCCH sau vụ BLV hai năm
trước đó? Ngoài
ra, sau khi đất nước bị chia hai, đảng
Lao Động (tức đảng Cộng Sản) cai
trị ở Bắc Việt Nam tức VNDCCH, luôn luôn nuôi
tham vọng đánh chiến Nam Việt Nam tức VNCH.
Muốn đánh VNCH, th́ VNDCCH cần được các
nước CS viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung
Cộng. V́ vậy, khi Trung Cộng đơn phương
đưa ra bản tuyên cáo về lănh hải ngày
4-9-1958, th́ VNDCCH “không gọi mà dạ”. Phạm Văn
Đồng, thủ tướng VNDCCH, vâng lệnh
Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đảng Lao Động,
vội vàng kư công hàm ngày 14-9-1958, tán thành tuyên cáo
về hải phận của Trung Cộng. Xin ghi lại
ở đây một lần nữa nội dung chính hai văn
kiện xướng họa nầy, để mọi người
đừng quên hành động phản quốc của
đảng CSVN. Tuyên
cáo ngày 4-9-1958 của Trung Cộng về hải phận
gồm 4 điều, trong đó điều 1 và điều
4 được phiên dịch như sau: Điều
1: Bề rộng lănh hải của nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lư. Điều
lệ nầy áp dụng cho toàn lănh thổ nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất
Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo
ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất
liền và các hải đảo khác bởi biển
cả) và các đảo phụ cận, quần đảo
Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây
Sa (Xisha tức Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa,
quần đảo Nam Sa (Nansha tức Trường Sa),
và các đảo khác thuộc Trung Quốc. .............. Điều
4: Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho
Đài Loan và các đảo phụ cận, quần
đảo Penghu (Bành Hồ), quần đảo
Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa),
quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Trường
Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn:
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.html) Công
hàm ngày 14-9-1958, của VNDCCH do Phạm Văn Đồng,
vâng lệnh Hồ Chí Minh và đảng CSVN, tán thành
tuyên cáo Trung Cộng tức tán thành hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng: “Chính
phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958 của Chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân Dân
Trung Quốc, quyết định về hải phận
của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Ḥa tôn trọng quyết định
ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan
hệ với nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung
Quốc trên mặt bể.” Kết
luận Như
thế, ngay từ đầu, từ khi Hồ Chí Minh qua
Bắc Kinh làm kiểm điểm và cầu viện,
Trung Cộng đă hào phóng viện trợ cho VNDCCH
chẳng phải tốt lành ǵ, mà cốt để gài
bẫy nợ. “Cá cắn câu biết khi nào gỡ /
Chim vào lồng biết thuở nào ra…” Đến khi CSVN làm
chủ Bắc Việt Nam sau năm 1954, Trung Cộng
liền đánh chiếm quần đảo BLV để
trừ nợ mà dân gian c̣n gọi là “xiết nợ
hay siết nợ”. Lần nầy, Hồ Chí Minh và
tập đoàn lănh đạo đảng CSVN lại bí
mật hứa hẹn thế chấp ngầm với
Trung Cộng như thế nào, nên Trung Cộng mới
chịu trả lại BLV cho VNDCCH. V́ vậy, khi Trung
Cộng ra tuyên cáo ngày 4-9-1958 th́ VNDCCH nhanh chóng gởi
công hàm đáp ứng đúng theo yêu cầu trong
bản tuyên cáo của Trung Cộng. Tán thành và tôn trọng
bản tuyên cáo ngày 4-9-1958 của Trung Cộng có nghĩa
là VNDCCH công nhận quần đảo Hoàng Sa, quần
đảo Trường Sa, vốn của Việt Nam,
thuộc chủ quyền Trung Cộng. Phản quốc đến
thế là cùng! 09.07.2018 Trần Gia Phụng
|