HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP DÂN TỘC VIỆT NAM:

                   NÓI DỄ, LÀM KHÓ

                     Đại-Dương

 

         

Hoà giải, Hoà hợp dân tộc Việt Nam đă làm tốn biết bao nhiêu bút mực, nước bọt, kể cả xương máu đồng bào suốt hơn 70 năm trường mà vẫn mù khơi.

Thực tế, chiêu bài này sẽ c̣n tiếp tục làm khổ dân tộc Việt Nam vốn chịu vô số tai trời ách nước mà chưa biết đến bao giờ mới kết thúc!

Đầu tiên, sự sắp thứ tự nhóm chữ "Hoà giải, Hoà hợp dân tộc" theo quan điểm chính trị đă làm biến thiên ư nghĩa hoặc đảo ngược.

Hiệp định về Chấm dứt Chiến tranh, Lập lại Hoà b́nh ở Việt Nam, tức Hiệp định Paris 1973, đă được Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng hoà miền Nam Việt Nam kư ngày 27-01-1973.

Vấn đề Hoà giải, Hoà hợp dân tộc được quy định các biện pháp thi hành, thực hiện rất rơ ràng, không thể hiểu lầm tại Điều 8c Chương III, các Điều 11, 12b, 13 Chương IV.

Điều 8c Chương III: "Hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần Hoà giải, Hoà hợp dân tộc, chấm dứt thù hằn trong ṿng 90 ngày sau khi kư Hiệp ước".

Điều 11 Chương IV: "Thực hiện Hoà giải, Hoà hợp dân tộc, xoá bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử". Điều 12a: "Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần Hoà giải, Hoà hợp dân tộc, và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng Hoà giải, Hoà hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau". Điều 12b: "Hội đồng có trách nhiệm thúc đẩy Hoà giải, Hoà hợp trong ṿng 90 ngày". Điều 13: "Vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần Hoà giải và Hoà hợp dân tộc, b́nh đẳng và tôn trọng lẫn nhau".

Bất hạnh cho dân tộc Việt Nam khi Hiệp định Paris 1973 chưa ráo mực th́ Đảng Cộng sản đă phối hợp hai lực lượng quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam (do Hà Nội dựng lên và điều khiển) để mở cuộc Tổng tấn công vào Việt Nam Cộng Hoà.

Hiệp định Paris 1973 đă bị bức tử nên Hoà giải, Hoà hợp dân tộc hoặc Hoà hợp, Hoà giải dân tộc trở thành chiêu bài mị dân.

Kể từ năm 1930, dân tộc Việt Nam đi theo hai khuynh hướng chính trị khác nhau, đối chọi quyết liệt: Chủ nghĩa Quốc tế Cộng sảnChủ nghĩa Quốc gia Dân tộc.

Thù nhau, chống nhau, giết nhau, chấp nhận chiến tranh uỷ nhiệm, chiến tranh huynh đệ tương tàn nên hận thù chất chồng như núi làm sao có thể Hoà hợp trước khi Hoà giải thành công?

Mọi hành vi của ĐCS sau 30-04-1975 đều nhằm khuất phục đối phương bằng mọi biện pháp nên xảy ra t́nh trạng người Việt Nam từ Bắc chí Nam đă chấp nhận đánh đu với tử thần để thoát khỏi thiên đường xă hội chủ nghĩa hiện thực (tức Cộng sản).

Sau khi thống trị toàn cơi Việt Nam th́ Đảng Cộng sản chính thức đề cập và thi hành khẩu hiệu Hoà hợp, Hoà giải dân tộc, trái ngược với tinh thần của Hiệp định Paris 1973.

Những người có thân nhân, hoặc nhiều cảm t́nh với cộng sản từng sinh sống tại Việt Nam Cộng Hoà đă bám vào khẩu hiệu Hoà hợp, Hoà giải dân tộc rồi cũng t́m con đường thoát khỏi thiên đường cộng sản dù có phải đổi bằng mạng sống. Hoà hợp, Hoà giải dân tộc đă phá sản.

Thứ hai, vấn đề lịch sử đóng vai tṛ quan trọng trong Hoà giải, Hoà hợp dân tộc. Tiếc thay lịch sử thiếu vô tư nếu chỉ được ghi nhận một chiều.

Tại các nước dân chủ, tự do th́ một vấn đề lịch sử được nh́n nhận dưới nhiều lăng kính khác nhau từ cực đoan tới trung dung và phổ biến công khai. Chính sử, giả sử, phịa sử tràn lan để đối chiếu, tranh luận công khai nên nhăn quang lịch sử của mỗi người được mở rộng dẫn tới điều kiện "chấp nhận được một sự kiện lịch sử".

Điều này không hề xảy ra trong chế độ cộng sản dù ở thế kỷ thứ 20 hoặc đầu thế kỷ 21. Lịch sử hoàn toàn bị bóp méo, bịa đặt để phục vụ cho chế độ độc quyền đảng trị.

Hoà giải, Hoà hợp dân tộc không thể xảy ra khi lịch sử chỉ phục vụ cho tham vọng chính trị điên rồ của đảng phái, cá nhân bất chấp quyền lợi của quảng đại quần chúng.

Cần phải chứng minh được chủ nghĩa cộng sản không tàn phá đất nước mà mang lại hạnh phúc thực sự cho toàn dân. Hoặc chủ nghĩa dân tộc đáp ứng được khát vọng ngàn đời của con người. Từ đó, sẽ mở đường cho giải pháp Hoà giải, Hoà hợp dân tộc.

Thứ ba, niềm tin vô cùng cần thiết trong giải pháp Hoà giải, Hoà hợp dân tộc. Suốt chiều dài hơn 70 năm, Cộng sản đă giết chết niềm tin vào tinh thần độc lập dân tộc, vào khả năng xây dựng đất nước xứng đáng sánh vai cùng các dân tộc khắp thế giới.

Tại Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam có chăng chỉ là niềm tin đầu môi chót lưỡi bị áp buộc hoặc tự kiểm duyệt. Khi niềm tin bị mất sẽ khiến cho mọi lớp tuổi đối phó với nhau bằng những ngôn ngữ, hành vi giả dối hoặc bộc lộ hành động súc vật. Kẻ có địa vị hoạnh hoẹ, ăn tiền bao nhiêu cũng không đủ, cướp mấy cũng chẳng vừa ḷng. Dân nghèo làm bất cứ việc ǵ, kể cả cướp của giết người, đào tường khoét vách, lường gạt, làm tay sai miễn có miếng cơm lót dạ. Từ quan tới dân, dù nghèo hay giàu chẳng ai tự hỏi việc ḿnh làm có hại ǵ tới tổ quốc, dân tộc hay không khiến xă hội hỗn loạn hơn bao giờ hết. V́ thế, Hoà hợp, Hoà giải dân tộc chỉ sơn son thếp vàng để thờ.

Thứ tư, hướng đi của đất nước cũng đóng vai tṛ quan trọng cho Hoà giải, Hoà hợp dân tộc. Những ngôn ngữ tuyên truyền về tinh thần độc lập dân tộc của giới lănh đạo Việt Nam bị dân chúng ghép vào tội làm tay sai cho Bắc Kinh. Nhà nước cam kết đưa Việt Nam thành rồng, thành hổ đă biến thành lời hứa cuội.

Giới lănh đạo Cộng sản theo Mạc Tư Khoa suốt giai đoạn 1930-1991 th́ Liên Sô giải thể. Bám Bắc Kinh th́ mất đất, biển, đảo cùng nguy cơ bị lệ thuộc, đồng hoá nên không thể đồng hành với dân tộc th́ làm sao bàn chuyện Hoà giải, Hoà hợp dân tộc.

                                        Đại-Dương

Trở lại