KẺ NỘI THÙ NGUY HIỂM HƠN LŨ NGOẠI XÂM

Đại-Dương

 

Vị trí nước Việt Nam trên bản đồ thế giới vừa có lợi thế để mở mang và phát triển bờ cỏi, vừa trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng thống trị, bành trướng của ngoại bang.

Suốt ḍng lịch sử oai hùng và đau thương của dân tộc Việt Nam đă chứng minh rất rơ ràng.

Mọi biến cố xảy ra cho dân tộc Việt Nam đều có bàn tay của kẻ nội thù chứ hoàn toàn không do ngoại bang gây ra. Sự tàn ác của lũ ngoại xâm đối với dân tộc Việt Nam chỉ hữu hạn về thời gian và biện pháp so với tính chất trường kỳ và không-giới-hạn của kẻ nội thù.

Kẻ nội thù khó nhận diện v́ cùng chung huyết thống, sắc tộc, ḍng họ, láng giềng, bạn bè, môn đệ, ngôn ngữ, tập quán nên dễ được thông cảm, tha thứ về mọi hành vi bất xứng, tàn bạo, man rợ, lừa gạt, dối trá.

Những câu châm ngôn, tục ngữ, ca dao đă ăn sâu vào tâm hồn Việt tộc như “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống, nhưng, chung một giàn”, “đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại”, “một giọt máu đào hơn ao nước lă”, “đoàn kết th́ sống, chia rẽ th́ chết”, “bà con xa không bằng láng giềng gần”, “khi thương củ ấu cũng tṛn, khi ghét trái bồ ḥn cũng méo”, “tối lữa tắt đèn có nhau”, “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng” làm cho người Việt mất đi tính phán đoán chính xác về con người và hành vi của họ đối với dân tộc, với tổ quốc, với xă hội.

Ngược lại, đối với lũ ngoại xâm hoặc người nước ngoài do khác biệt màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, cách cư xử, truyền thống dân tộc nên dễ nhận diện mà khó tha thứ dù với bất cứ hành vi nhỏ nhặt nào.

Sự đánh giá bằng cảm tính khiến cho người Việt Nam rơi vào thảm hoạ: bế quan toả cảng, bị lừa triền miên mà vẫn chưa t́m ra sinh lộ.

Thứ nhất, nhân loại đă trải qua các giai đoạn lập quốc và mở rộng bờ cỏi, biên cương nên các cuộc chiến tranh chiếm đất, giành dân kéo dài qua nhiều thế kỷ cho tới khi mỗi quốc gia xác lập được ranh giới cố định lâu dài hay tạm thời.

Dân tộc Việt Nam bị Đế quốc Trung Hoa thống trị suốt 1,000 năm, chen lẫn một số năm tự trị nhờ các vị anh hùng dân tộc vùng lên đánh đuổi quân xâm lược.

Áp lực từ Phương Bắc buộc vua chúa Việt Nam phải mở rộng biên cương bằng cách xâm lăng và tiêu diệt các triều đại phía nam.

Từ 1471 đến 1832 Đế quốc Việt Nam đă thanh toán trọn vẹn Vương quốc Chăm (Campapura).

Từ năm 1620 đến 1691, Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đă chiếm trọn Thuỷ Chân Lạp qua giải pháp ngoại giao (gả công chúa để làm Hoàng hậu), và quân sự. Vua Chúa Việt Nam c̣n ôm tham vọng thống trị Cao Miên và Lào mà chưa trọn vẹn khi đă hết giai đoạn mở rộng biên cương.

Thứ hai, khi biên cương đă ổn định th́ việc giao dịch với nước ngoài và bảo vệ chủ quyền quốc gia nằm trong tay nhà cầm quyền làm cho người dân bị mất quyền quyết định vận mệnh quốc gia dân tộc. Dân chúng như một người mù được quan chức dắt tay, chỉ việc trong thân phận nô lệ cho người đồng chủng.

Minh Quân làm cho đất nước phát triển, dân cư an lạc, quân đội hùng hậu, an ninh bảo đảm, học hỏi được cái hay, các giỏi từ tha nhân. Ngược lại, Hôn Quân duy tŕ quyền lực bằng bàn tay sắt và biện pháp ngu dân khiến cho nhân tài thui chột nên chỉ làm một việc duy nhất: ca tụng nhà cầm quyền bất cần đúng hay sai, phải hay trái.

Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba đều liên hệ tới nền văn minh Trung Hoa, nhưng, họ chỉ chắt lọc tinh tuư Đông Tây Kim Cổ để cấu thành hành động hữu ích nên đă đưa đất nước nghèo đói, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá trở thành quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới trong ṿng 30 năm.

Sau 40 năm “đổi mới” Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 58 quốc gia có tổng thu nhập trung b́nh thấp (876-3,465 USD) v́ giới cầm quyền kiềm hăm trí tuệ người Việt.

Nô lệ về tư tưởng là kiểu nô lệ toàn diện khủng khiếp đối với dân tộc. Khác với giới trí thức Nhật Bản và Đại Hàn, vua quan Việt Nam tôn sùng văn hoá Trung Hoa một cách cuồng tín nên miệt thị Chữ Nôm (Nam) “nôm na là cha mách qué”.

Hồ Chí Minh mang chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam đă hủ hoá dân tộc đến độ cuồng dại.

Khi bị khai trừ Tiến sĩ Chu Hảo, từng giữa chức Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, do vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hoá mặc dù đương sự đă viết thư Tuyên bố từ bỏ đảng trong thư ngày 26/10/2018.

Ông Hảo viết “45 năm trước, tôi đă tự nguyện gia nhập đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) với lư tưởng cao quư là đấu tranh v́ Độc lập dân tộc, v́ Dân chủ và Phát triển đất nước”. Suốt 45 năm mà nhà trí thức xă hội chủ nghĩa này đă ngốn biết bao cuốn sách cũng không biết Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một chi bộ của Đệ tam Quốc tế. Thật khó hiểu!

Phần lớn trí thức xă hội chủ nghĩa rời bỏ ĐCS sau ba bốn chục năm làm công cụ đắc lực cho guồng máy đàn áp, tham nhũng, phi nhân tại Việt Nam. Sao họ cần tới bốn thập niên mới nhận thức được điều mà mỗi thường dân đă biết từ lâu lắm rồ?

Thứ ba, mọi giao dịch với với người nước ngoài phải đứng trên nền tảng lợi ích dân tộc (chủ nghĩa quốc gia), công bằng, minh bạch, b́nh đẳng, ṣng phẳng. Chủ nghĩa cộng sản đặt quyền lợi quốc tế lên trên quyền lợi dân tộc nên nhược tiểu chỉ phục vụ cho quyền lợi của cường quốc.

Dân tộc các quốc gia Đông Âu đă thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản (phục vụ quyền lợi quốc tế) để trở về chủ nghĩa quốc gia nên phát triển nhanh và hài hoà gấp bội trong khi ông chủ tư tưởng (Nga) vẫn b́ bỏm trong vũng lầy độc tài và đe doạ chiến tranh.

Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn chuyên cần “bưng bê” Bắc Kinh nên cứ lẽo đẽo bám đuôi thiên hạ.

Trí thức xă hội chủ nghĩa Việt Nam dù được đào tạo ở trong nước hay ngoại quốc, tại các nước độc tài hay dân chủ khi gia nhập vào guồng máy cầm quyền cũng đều trở thành vô cảm trước vận nước ngả nghiêng và nỗi đau xé ḷng của dân tộc. Họ chỉ biết kiếm tiền bằng mọi giá, mọi kiểu nên số người siêu giàu tăng gấp bội.

Tác giả Xuân Lộc viết trên BBC ngày 16/11/2018 đă trích dẫn thống kê của Ngân hàng Thế giới “tầng lớp trung lưu Việt Nam chiếm 13% dân số và đến 2020 sẽ thành 33 triệu người”. Nhưng, không giống Tây Phương để làm thay đổi xă hội.

Thành phần trung lưu Việt Nam dựa vào quan hệ để phát triển và tồn tại theo nguyên tắc tuyển cán bộ “nhất quan hệ, nh́ tiền tệ, ba hậu duệ, bốn tiền tệ”.

Do đó, toàn thể dân tộc Việt Nam bị vắt kiệt sức để cung phụng cho bầy sâu ngày càng đang đúc và ghê tởm.

Chờ cho bầy sâu cộng sản ngưng tàn phá là chuyện không tưởng.

Toàn dân Việt Nam thuộc tầng lớp bị trị hăy noi gương các dân tộc Đông Âu vùng lên diệt sâu, cứu nước, đ̣i lại quyền quyết định vận mệnh quốc gia.

Đại-Dương

 

Trở lại