Khai thông ḥa đàm Paris

Trọng Đạt

Cuộc Ḥa đàm Ba Lê khai mạc dưới thời Tổng thống Johnson tháng 5-1968 cho tới khi TT Nixon lên nhậm chức năm 1969 không có ǵ thay đổi tại bàn Hội nghị.

Tháng 8-1969 mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ bắt đầu, phía Hà Nội khăng khăng đ̣i Mỹ rút quân không điểu kiện, loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, thành lập chính phủ Liên hiệp, Mỹ phải cắt viện trợ Việt Nam Cộng Ḥa. Hết năm này tới năm khác trôi qua, Ḥa đàm bế tắc khiến Mỹ vô cùng sốt ruột. Hà Nội gây khó khăn cho Nixon v́ biết ông bị phản chiến, truyền thông, Quốc hội trong nước chống đối.

Năm 1972 t́nh h́nh đổi khác, mang nhiều hy vọng cho Nixon-Kissinger, phần v́ BV thảm bại trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972, nhất là TT Nixon nhiều hy vọng thắng cử nên Hà Nội thay đổi lập trường. Họ muốn kư Hiệp định sớm trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ đầu tháng 11-1972 v́ cho rằng nếu Nixon tái đăc cử ông ta sẽ cứng rắn hơn, nhiều thẩm quyền hơn

Dưới đây tôi dựa vào lời kể của Kissinger trong hồi kư White House Years, Chương “Từ bế tắc tới khai thông” (1)

Kissinger được cử đi Moscow gặp Thủ tướng Nga ngày 20-4-1972 về th́ cuộc Tấn công của BV từ 30-3 đă yếu đi, sau  khi chiếm Quảng trị chúng không chiếm Huế v́ thiếu lực lượng. Các sư đoàn VNCH chiến đấu rất vững, cuối tháng 5 có tới 200 B-52 tham gia  khiến BV gặp nhiều khó khăn. Từ 8-5 khi Mỹ phong tỏa Hải pḥng khiến địch phải dùng tầu hỏa chở tiếp liệu, khó khăn hơn, địch thiếu đạn dược, hỏa tiễn. Hai cuộc họp Thượng đỉnh  với Trung Cộng (tháng 2-72) và Nga (tháng 5-72) khiến BV bị cô lập, họ quay ra đẩy mạnh chống chiến tranh bên Mỹ, tới tháng 6 Hà Nội ám chỉ sẽ có ngưng bắn vào mùa hè, dấu hiệu ngày càng rơ hơn nhất là váo tháng 9-1972.

Khi Nixon phong tỏa cảng Hải pḥng, VNCH mới vững tinh thần, Kissinger cho là Mỹ ở thế mạnh tại ḥa đàm, cuộc oanh tạc và phong tỏa của Nixon có kết quả, cuối cùng  Hà Nội đồng ư mật đàm, họ quan tâm tới cuộc bầu cử Mỹ và muốn kư sớm hơn.

Thử nghiệm bế tắc

Nếu BV thua trận Mùa hè đỏ lửa và Nixon thắng họ sẽ thương thuyết, kỳ Hiệp định, giả thử t́nh h́nh chính trị tại Mỹ xấu đi Hành pháp sẽ phải chấp nhận Liên hiệp và ấn định rút quân, một thiểu số (30 Thương nghị sĩ) chủ trương rút quân (Mỹ) không điều kiện để đổi tù binh, khoảng 40 TNS chỉ rút khi nào BV thả tù binh (Mỹ). Thượng viện mong mỏi có ḥa b́nh để Mỹ rút ngay cả khi BV-VNCH c̣n đánh nhau, chấm dứt cuộc chiến để lấy tù binh mặc cho số phận VNCH ra sao. Tu chính án Cooper-Brooke chủ trương rút quân để  đổi tù binh chỉ có 5 phiếu thuận tại Thượng viện, có lẽ chẳng bao lâu luật chấm dứt chiến tranh sẽ được thông qua. Hà Nội tin nếu họ thả tù có thể Thượng viện Mỹ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh có lợi cho BV (trang 1307). Địch đang quan tâm cuộc bầu cử TT  Mỹ.

Nixon không tin ở thương thuyết với BV cho là chỉ có tiến bộ đàm phán sau bầu cử, ông muốn đánh mạnh hơn trước khi thương thuyết. Nhưng Kissinger lại tin là lần này sau bầu cử (tháng 11) chắc sẽ có luật chấm dứt chiến tranh.

Ngày 3-7-1972 Tướng Haig được cử tới Sài G̣n, ông Thiệu nói nếu Mỹ tiếp tục yểm trợ oanh tạc th́ VNCH sẽ không thua BV, ông cũng biết là sắp có đàm phán quan trọng, ḥa hoăn hai bên chỉ là bước đầu, chưa phải khúc cuối, Mỹ rút VNCH vẫn tồn tại, Hà Nội không chịu từ bỏ chiến thắng. Chẳng bao lâu miền Nam sẽ phải tự chiến đấu một ḿnh, cho dù Hà Nội không chấp thuận đề nghị của Mỹ, Quốc hội mới sẽ ép hành pháp kư Hiệp định tệ hơn là những cái chúng ta đàm phán như rút quân, đổi tù binh. Hà Nội nghĩ nếu Nixon có thể thắng cử, họ sẽ thương thuyết với ông trước tháng 11 hơn là để sau khi ông ta được cử tri bầu lại.

Trong khi ấy Thượng viện chỉ muốn ra luật rút hết quân để đổi tù binh mà không đếm xỉa ǵ tới ngưng bắn (trang 1311). Ngày 19-7 khi Kissinger đàm phán vối Lê Đức Thọ, ông nói bất cứ ăm mưu nào (của BV) nhằm gây ảnh hưởng tới cuộc bầu cử TT (tháng 11) tôi sẽ chấm dứt đàm phán ngay. Hai bên hẹn gặp lại ngày 1-8

Trong giờ nghỉ cuộc mật đàm ngày 1-8, phía BV đăi ăn trái cây, bánh ngọt, chả gị lớn hơn kỳ họp trước, Kissinger đoán có thể ngày 14-8, họ sẽ đăi nhậu, rượu bánh… Thọ nói về trận oanh tạc, phong tỏa của Mỹ xong đi vào đề. Hai năm trước, Hà Nội khăng khăng đ̣i Mỹ rút không điều kiện, nay họ tiên đoán Nixon sẽ thắng cử tháng 11-1972 .

Thọ vẫn đặt vấn đề liên hiệp nhưng nhượng bộ hơn. Trước đây là Chính phủ lâm thời liên hiệp mà CS chỉ định thành phần thứ ba,  nó có thể phủ quyết đối với hai thành phần c̣n lại. Nay Thọ đề nghị một chính phủ liên hiệp ba thành phần mà Sài G̣n cũng có quyền phủ quyết nghĩa là 50/50 nhưng Kissinger vẫn phản đối liên hiệp. Sau đó Thọ nhượng bộ thêm hơn: chính phủ VNCH kể cả Thiệu có thể tham gia b́nh đẳng (trong ba thành phần), có nghĩa là Hà Nội không đ̣i Thiệu phải từ chức như mấy năm liên tiếp.(trang 1316)

Bắc Việt bắt đầu chuyển động tại bàn đàm phán, Kissinger tiếp tục bác bỏ Liên hiệp, Hà Nội chưa dám quyết định bỏ cho tới  tháng 9 năm nay (1972). Đây là lần đầu tiên BV bị thời gian thúc ép, càng gần bầu cử tháng 11-1972 họ càng phải tính thay đổi chiến lược.

Lê Đức Thọ được gọi về Hà Nội, họ công nhận chính phủ Thiệu hợp pháp có thể tham dự cuộc thảo luận của chính phủ Liên hiệp, họ bỏ đ̣i hỏi Mỹ phải rút quân không điều kiện (trang 1318). Trước đây họ nói Chính phủ liên hiệp chiếm hết chủ quyền nay công nhận 50/50 một nửa VNCH và một nửa VC. Thọ đổi chiều có vể như khẩn cấp, nhiều đề nghị liên tục.

Sau phiên họp ngày 14-8, Kissinger báo cáo Nixon

“Hà Nội theo dơi bầu cử Mỹ cũng như diễn tiến quân sự tại miền nam VN và quyết định kư kết trước bầu cử tháng 11, họ lựa chọn trong tuyệt vọng. Địch sẽ thương thuyết với một chính phủ (Mỹ) có thể cho họ cơ hội có quyền lực ở miền Nam nhưng không cho họ chiến thắng quân sự hoặc chờ đối đầu một chính phủ với bốn nam nữa.. . Kissinger nói ta đang tiến gần kư kết rồi, vẫn c̣n cơ hội thực hiện ḥa b́nh danh dự.

TT Nixon viết cho Tướng Haig (phụ tá Kissinger)

“Như thế từ trước tới nay không có tiến bộ”

Thăm Sài G̣n 

Ngày 17-8 Kissinger tới Sài G̣n, Hành pháp Mỹ đang bị dân đốc thúc kư v́ chán nản, đảng đối lập phá. Tại Sài G̣n TT Thiệu cho là ḿnh mạnh về quân sự hơn BV và không nhượng bộ. Kissinger trấn an Thiệu nói: chúng tôi sẽ không bôi bác chiến thắng của VNCH, chúng tôi (Hành pháp) không phải là những người Mỹ coi Thiệu là trở ngại cho ḥa b́nh. Nếu chúng ta không có được một Hiệp định tốt đẹp hợp lư, ta sẽ phải chấp nhận nó. Kissinger đề nghị với Thiệu sẽ họp với Thọ ngày 15-9 và Mỹ sẽ rút quân trong ṿng 3, 4 tháng hạn chót ngày 8-5, ta sẽ bác bỏ Liên hiệp nhưng sẽ bầu ra Ủy ban bầu cử ba thành phần, VNCH sẽ có hai phiếu phủ quyết nhưng ông Thiệu không chịu. Khi những cuộc họp mật quan trọng sắp tới, quan điểm của Thiệu lại thay đổi, khác biệt hơn. 

Thiệu đưa cho Kissinger văn thư  8 trang chỉ trích những đề nghị của Thọ ngày 1-8, Kissnger cho là Thiệu không chấp nhận bất cứ đề nghị nào của Hà Nội. Sau 18-8 Thiệu đưa Kissinger một văn thư mới 4 trang đề nghị thay đổi 20 điểm trong kế hoạch của Kissinger trong đó khoảng 15 điểm tạm được, c̣n lại rất khó. 

Ông Thiệu bác bỏ Ba thành phần cho dù 50/50 v́ nó sẽ làm người dân miền Nam nghi ngờ chính phủ của ông, Kissinger nói v́ ta muốn chôn vùi Liên hiệp nên lập ra những thành lập mơ hồ. Ông cũng nói nếu BV đề nghị ngưng bắn không điều kiện ta cũng sẽ phải nhận. Thiệu nói nếu BV sợ ngưng bắn v́ nó sẽ không phát động chiến tranh được, ông ta chống tất cả những cái đưa tới giải pháp. Thiệu nói bổn phận của chính phủ ông là không làm cho dân quân, đảng phái miền nam VN lo sợ, ông sẽ phải thuyết phục họ là Hiệp định sẽ không đe dọa VNCH, ông cần thời gian “ngay cả khi chúng tôi chấp nhận đề nghị các ngài, chúng tôi cũng sẽ phải học tập  để giảng giải cho dân (2

Thiệu và chính phủ của ông chưa sẵn sàng đàm phán ḥa b́nh. Họ thoáng nghĩ là nó sẽ đưa tới đầu hàng CS. 

Miền Nam chỉ muốn tiếp tục chiến đấu hơn là đối mặt với chính trị, mục đích Mỹ là danh dự. (But Thieu problem was survival, he and his people would be left indefinitely after we departed, he had no margin for error ..(1324)) trong khi sau cuộc chiến Triều Tiên Mỹ vẫn giữ 50,000 quân. 

Thiệu làm cho t́nh h́nh phức tạp hơn (với Mỹ) nhưng ông ta không chống đối rơ rệt. VNCH đối với Đại sứ Bunker không lịch sự, vui vẻ, khi Bunker muốn gặp Thiệu họ không trả lời hay trả lời trễ. Vấn đề chính là Sài G̣n chống lại Ủy ban ḥa giải dân tộc. TT Nixon gửi thư cho Thiệu nói 

“Chúng tôi sẽ không làm cái mà chúng tôi đă từ chối làm trước đây ba năm rưỡi” đó là bỏ rơi miền Nam ”

“We will not do now what we have refused to do in the preceding three and a half years” that is abandon south Vietnam” (trang 1327) 

Đại sứ Bunker trở lại Sài G̣n ngày 5-9-1972 mang thư của TT Nixon được ông Thiệu tiếp ngày 6 

Ngày 7-9 ông Thiệu hỏi Đại sứ Mỹ nếu bản sơ thảo bị bác, ngày 9-9 các ông Nguyễn Phú Đức, Hoàng Đức Nhă, đưa cho Bunker một dự thảo 

Ngày 10-9 Kissinger đi Moscow, ngày 13-9, 48 tiếng trước khi Kissinger gặp Lê Đức Thọ, Thiệu lại bác đề nghị của Mỹ về thành lập Ủy ban bầu cử v́ ông ta chưa muốn ngưng bắn. Tại Mỹ dư luận chống đối cho là VNCH phủ quyết chính sách của Mỹ giải quyết quân sự trước như cease-fire, prisoners, withdrawal. Kissinger giảng chiến lược với Thiệu ngày 17, 18 tháng 8 và gửi văn thư cho TT Nixon ngày 25-8. Ông ta cho rằng cả Hà Nội và Sài G̣n đều không muốn đàm phán, họ chỉ muốn chiến thắng một trận quyết định, cả hai phía đều sợ sau khi ngưng bắn phải đương đầu với một cuộc vật lộn chính trị, Thiệu muốn cản Mỹ nhượng bộ để tránh phải thấy ngưng bắn. 

Kissinger nhượng bộ có h́nh thức tại phiên họp ngày 15-9, ông ta có ba lựa chọn: 1-Kư Hiệp định trước bầu cử TT (tháng 11-1972); 2- Sau bầu cử leo thang mạnh; 3-Tiếp tục cuộc chiến hy vọng  kư một Hiệp định tốt đẹp hơn. Kissinger thích lựa chọn 1, Nixon thích 2, ông muốn sử dụng sức mạnh sau khi thắng cử, lựa chọn 3 khó thực hiện. 

Bộ trưởng Quốc pḥng Laird tŕnh Nixon xin cắt 20% tăng quân, 40% giảm phi vụ, cắt tiếp liệu đạn dược nhưng bị Tổng thống bác bỏ. Ngày 29-8-1972 Nixon thông báo rút 12,000 quân chỉ c̣n 27,000 người. Quốc hội, Laird, truyền thông sẽ ép chính phủ rút đơn phương trong sáu tháng tới khiến Mỹ sẽ yếu thế tại bàn Hội nghị. Tháng 1-1973 Quốc hội sẽ có thể ra luật chấm dứt chiến tranh can thiệp sẽ gây nhiều khó khăn cho Hành pháp, Hà Nội tính sai khi cho rằng sau bầu cử Nixon sẽ mạnh hơn. 

Kissinger ủng hộ Nixon leo thang chiến tranh sau bầu cử để gây thế mạnh cho đàm phán cuối cùng có nghĩa là nhiệm kỳ hai của Nixon sẽ bị nhiều chống đối tại Mỹ, vết thương chiến tranh VN khó mà hàn gắn. Áp lực Quốc hội sẽ gia tăng nên Hành pháp phải cố gắng giải quyết Hiệp định trước 3-1-1973, ngày Quốc hội mới sẽ nhóm họp trong khi Kissinger chưa đạt được điều khoản nào coi được. Chính phủ đă hứa giải quyết trong hai năm, Mỹ khó hy vọng nhờ Nga-Trung Cộng giúp giải quyết đàm phán, bây giờ là lúc đi t́m sự nhượng bộ tối đa của CSBV, Kissinger định đề nghị một Ủy ban ḥa giải dân tộc và điện tín cho Nixon nói: nếu Hà Nội chấp nhận đề nghị nhưng phía VNCH lại không đồng ư lắm. Nixon không hào hứng về đàm phán, ông tin vào thăm ḍ, ngày 11-9 ông được 55/32 phần trăm ủng hộ ttục oanh tạc BV và 64/22 ủng hộ phong tỏa Hải pḥng, 47/35 chống Liên Hiệp và 51/26 người dân không đồng ư chương tŕnh tranh cử của McGovern. 

Kissinger đi Paris, ông cho là Sài G̣n không giúp t́m ḥa b́nh, 51/33 cử tri ủng hộ TT Nixon gần đem quân về hết, mười hai hôm trước đó thăm ḍ Gallup cho biết Nixon được 64%, trong khi đối thủ McGovern chỉ được 30%. 

Tướng Haig điện tín cho Kissinger đang ở Moscow cho biết TT Nixon nói Hội đồng an ninh Quốc gia không hiểu rằng dân Mỹ nay không muốn đàm phán mà phải oanh tạc, về điểm này Kissinger không đồng ư với Nixon. 

Tại phiên họp ngày 15, 17 tháng 9, sau khi bàn luận Thọ lại trở giọng nói về Chính phủ lâm thời, ông ta nhượng bộ chút chút cho vui, Kissinger bác đề ghị của Thọ về rút quân trong 45 ngày thay v́ ba tháng và hẹn ngày 15-10 gặp lại, Thọ đề nghị họp hai ngày, Kissinger đề nghị lùi lại ngày 26-9. 

Kissinger thư cho TT Nixon nói họ quan tâm tới bầu cử của Tổng thống, Mỹ thuận lợi nhiều hơn, ngày 15-9 VNCH tái chiếm Quảng trị. Cử tri Mỹ ủng hộ Nixon giải quyết cuộc chiến và ông hơn điểm McGovern rất nhiều. Trung Ương cục miền Nam ra sắc lệnh số 6 chỉ thị các đảng viên làm cho Nixon kư Hiệp định trước ngày bầu cử 5-11. 

Kissinger hài ḷng với phiên họp ngày 15-9 khi về v́ đă bác bỏ chính phủ Liên hiệp, Thiệu chán nản, Bunker không gặp được Thiệu để báo cáo phiên họp giữa Kissinger và Thọ. Ông Thiệu nói: không ai có quyền đàm phán bắt chúng ta phải chấp nhận giải pháp trừ dân tộc VN . Lê Đức Thọ và Xuân Thủy tŕnh bầy sự gấp rút chấm dứt chiến tranh sớm bằng kư kết. 

Thọ nhượng bộ đề nghị (của Mỹ) sau khi kư Hiệp định, họ sẽ rút khỏi Miên và Lào, sẽ thả tù binh Mỹ tại Lảo, ông ta nói không có tù binh Mỹ tại Miên và thúc dục Kissinger đàm phán nhanh hơn và đề nghị họp ngày 7-10 nhưng Kissinger đề nghị ngày 8-10. Kissinger biết là tới điểm quan trọng, ông ta cử Tướng Haig tới Sài G̣n gặp TT Thiệu ngày 2-10 để nói cho Thiệu biết chiến thuật kéo dài đàm phán để làm Thọ sốt ruột và để hắn nhượng bộ thêm hơn. 

Ngảy 4-10 ông Thiệu và Hội đồng an ninh quốc gia bác mọi đề nghị của Mỹ. Haig báo cáo chúng tôi mất gần 4 giờ họp với Thiệu, HĐANQG gồm phó TT Hương, Thủ Tướng Khiêm, Bộ trưởng Lắm,   Phụ tá ngoại vụ Đức, Phụ tá đặc biệt Nhă, không khí cho thấy họ chống lại lập trường Mỹ. 

Nixon nói Kissinger tiếp tục họp ngày 8-10, ông này cho là ông Thiệu không hợp lư, BV đang sốt ruột muốn kư sớm, Hà Nội và Mỹ sẽ tiến tới kư kết Hiệp định, họ sẽ tới họp với tinh thần xây dựng. Ngày 5-10 Kissinger gửi thư cho Thiệu nhân danh Nixon hứa sẽ hỏi ư kiến VNCH trước khi kư Hiệp định 

Khai thông: Cuộc họp ngày 8-10 

Hai bên đùa vui nhau về đua ngựa, phía CS nhường cho Kissinger nói trước, ông này đề cập việc BV rút khỏi Miên, Lào, thả tù Mỹ tại Miên, Lào. Kissinger không nhượng bộ ǵ, Thọ đề nghị Mỹ-BV kư Hiệp định giải quyết vấn đề quân sự gồm rút quân, thả tù Mỹ, ngưng bắn. Vấn đề chính trị miền nam VN, Thọ đồng ư trên những nguyên tắc chính sau khi ngưng bắn. 

Thọ không đ̣i có chính phủ Liên hiệp trước khi ngưng bắn, bây giờ là vấn đề chính phủ liên hiệp hai bên của miền Nam  là chính phủ Sài G̣n và chính phủ Lâm thời công ḥa miền Nam (VC) vẫn tồn tại. Chính phủ này không bao giờ được lập ra v́ nó đ̣i hỏi sự đồng thuận của hai bên VNCH và Việt Cộng. 

Trong ba năm, Hà Nội đ̣i Mỹ phải cắt viện trợ là điều kiện tiên quyết cho đàm phán (precondition of settlement), nay Thọ vứt bỏ điều này nghĩa là Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho VNCH nhưng họ không nói ǵ về việc rút quân của CSBV, họ chấp nhận đề nghị Mỹ ngày 31-5-1971 sẽ không xâm nhập vào Nam. sẽ có quốc tế kiểm soát. Thọ không nói ǵ về quân BV ở Miên. Lào cũng không nói ǵ về ngưng bắn ở đây, nói xong ông ta đưa cho Kissinger coi Dự thảo: 

“Đề nghị các ông cũng như chúng tôi cùng chấm dứt chiến tranh, TT Nixon nói ngưng bắn, thả tù, rút quân và chấm dứt chiến tranh. Chúng tôi đă thỏa măn đề nghị của quí vị và chúng tôi đề nghị một số nguyên tắc chính trị, vấn đề chính trị của miền Nam để miền Nam giải quyết” (tóm tắt lời Thọ) 

BV phân chia quân sự, chính trị mà Kissinger đă đ̣i hỏi từ bốn năm trước. Họ chấp nhận đề nghị ngày 8-5 của TT Nixon và kết luận chính phủ miền Nam sẽ không bị lật đổ, họ cũng không đ̣i ông Thiệu tạm thời từ chức trước khi bầu cử Tổng thống tại miền Nam, họ loại bỏ đ̣i chính phủ liên hiệp (Coalition government).. vấn đề chinh trị miền Nam để họ tự giải quyết. 

Kissinger nói chúng tôi mong mỏi điều này từ bốn năm qua, khi nó tới th́ cũng ít tồi tệ hơn chúng tôi nghĩ, ông ta cho đây là sự may mắn. Tướng Haig (phụ tá) nói chúng ta đă cứu được danh dự của những người lính đă chết phục vụ nơi đây. (Phụ tá) John Negroponte chú ư vào điểm không thể chấp nhận được của Thọ, họ không chịu rút về Bắc. Kissinger cho là ngưng bắn, Mỹ rút, trả tù, không xâm nhập là những căn bản đề nghị của Mỹ từ tháng 5-1971. 

Kissinger cho rằng đây là sự chấm dứt đổ máu tại Đông Dương, chúng ta đứng ở ngưỡng cửa cái mà ta đă t́m kiếm từ lâu, ông nói Thọ đă mở ra một chương mới trong đàm phán và đi tới kết luận, Kissinger cảnh báo Thọ rằng những điều chúng ta thảo luận phải được TT Nixon và Sài G̣n đồng ư sau đó mới đến chuyện đi Hà Nội sớm nhất là ngày 20-10. Chiều thứ hai 9-10, lúc 2 giờ chiều sẽ gặp lại. Kissinger lệnh cho Winston Lord, John Negroponte  soạn thảo tài liệu của Thọ đưa cho Mỹ, bác những khoản này, điều nọ để làm khó dễ, củng cố quyền giúp miền Nam, củng cố những khoản cấm xâm nhập, đ̣i BV rút khỏi Miên, Lào. 

Kissinger kể lại sau đó ông đi bộ một ḿnh trên đường phố Paris, ông nghĩ bao năm qua lập trường của Mỹ đă rơ, không lật đổ chính phủ đồng minh (VNCH) chấm dứt chiến tranh, lấy tù binh, đ̣i CSBV rút khỏi Miên Lào, cấm xâm nhập và nay Thọ đă chấp nhận những đ̣i hỏi đó, họ cho là quân BV là người ngoại quốc. (trang 1347). 

Kissinger nói nguyên văn   trong hồi kư trang 1347-1348 

“Không có điều khoản nào ghi quân BV rút từ Nam về Bắc, điều này chấp nhận được. Nhưng chính chúng tôi đă bỏ đ̣i hỏi này- với sự thỏa thuận của ông Thiệu- trong đề nghị ngưng bắn ngày 7-10-1970 và trong mật đàm về chương tŕnh bẩy điểm ngày 31-5-1971 và trong đề nghị của Nixon trước quốc dân ngày 25-1-1972 và 8-5-1972. Chúng ta phải nhớ là đối với chuyện này không có ai- dù là diều hâu, bồ cu, hay Thiệu- có thể phản đối khi những đề nghị trước đây đă được đưa ra (đă không có khoản này). Trên nguyên tắc đ̣i BV rút đương nhiên là hợp lư. Nhưng thực tế đă chứng tỏ ta đă không thể đ̣i được qua suốt mười năm chiến tranh và ba chính phủ (Kennedy, Johnson, Nixon). Chúng ta chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi Hà Nội bại trận hoàn toàn qua một cuộc chiến lớn toàn diện (all-out war) mà người dân Mỹ và Quốc hội lại không ủng hộ. V́ thế trong khi chúng tôi tiếp tục thúc dục họ trong những ngày tới, chúng tôi không thể coi đó là một điều kiện để kư Hiệp định. Chúng tôi đă qua cái ngưỡng cửa này từ lâu. Điều mà chúng tôi có thể ráng sức làm ấy là nhấn mạnh điều khoản của chúng tôi ngày 31-5-1971, chương tŕnh cấm BV xâm nhập người và vũ khí vào Nam , nay Thọ đă chấp nhận. Điều này sẽ làm quân đội BV bị hao ṃn suy yếu” (trang 1347-1348) 

Nếu địch không xâm nhập th́ lực lượng chúng ở miền Nam sẽ bị bao ṃn, nếu ta bác bỏ những đề nghị của BV có thể bị Quốc hội và người dân chống.  

Chúng tôi có thể sẽ làm BV sốt ruột để đ̣i thêm. Kissinger cho rằng TT Nixon muốn đàm phán kư kết sau bầu cử .. ông ta không từ chối hay làm từ từ. 

Khi đi trên đường phố Paris tác giả Kissinger nghĩ ta có bổn phận đạo đức với Sài G̣n và bổn phận với người dân Mỹ. Nhưng chúng ta không có bổn phận hứa với họ (VNCH) chiến thắng sau cùng khiến ta phải can thiệp thêm nhiều năm nữa. Chúng ta đă đưa hàng triệu quân, hàng tỉ đô la tiền trang bị tới miền nam VN và đă làm xă hội (chúng ta) xâu xé nhau trong ṿng mười năm. Chúng tôi nay đă kéo dài thời gian làm cho VNCH mạnh bằng Việt Nam hóa chiến tranh. Chúng tôi có bổn phận với người dân Mỹ, chấm dứt chiến tranh để hàn gắn…chấm dứt chiến tranh là cách tôi trả ơn cho đất nước đă cưu mang tôi, giúp gia đ́nh tôi thoát khỏi hận thù, ngược đăi… 

V́ thế tôi chấp nhận những đề nghị của Thọ, tôi biết là TT Nixon sẽ ủng hộ, không bỏ lỡ cơ hội, Tướng Haig đồng ư. Kissinger gửi điện tín cho Haldeman nói cho Tổng thống biết hôm nay đă có tiến bộ rơ rệt, TT hăy tin vào kết quả. Kissinger cũng điện cho Bunker nói với Thiệu cần chiếm cho nhiều đất, ông ta cũng hoăn giờ họp gây khó khăn để đ̣i nhiều hơn. Kissinger nói ngày 9-10 Thọ đă cho chúng tôi một tài liệu quan trọng, ông đưa một bản đề nghị sửa đổi, chấp thuận.. bỏ khoản này, lấy khoản kia. Thọ nói chúng ta ráng hoàn thành kư kết Hiệp định, tôi rất thật ḷng để kư kết, ông ta coi lại bản văn thư của Kissinger và hôm sau họp tiếp. 

Hai phái đoàn họp lại thứ ba ngày 10-10 lúc 4 giờ chiều, tối qua Kissinger đề nghị Thọ bảo đảm an ninh Miên, Lào. Hôm sau 11-10 họp kéo dài từ 9 giờ sáng tới 2 giờ khuya (16 tiếng), cuộc họp lịch sử sắp kết thúc chiến tranh.

Hai bên thỏa thuận ngưng bắn, Mỹ rút số quân c̣n lại trong 2 tháng đồng thời với thả tù binh (Mỹ). Khoản chinh phủ Lâm thời ḥa hợp bị loại bỏ, hai bên sẽ họp thành lập Hội đồng chính phủ. Mỹ chỉ công nhận chính phủ VNCH. 

Cấm xâm nhập, vũ khí được thay thế theo điều kiện một đổi một (replace on a one for one basic) có quốc tế giám sát. Kissinger nói phía Mỹ đ̣i Thọ rút về Bắc mà không bao giờ được nên đành phải đ̣i cấm xâm nhập. Thọ đ̣i VNCH thả 10,000 cán bộ CS trong số 30,000 tù h́nh sự ở VNCH, Mỹ không thể thuyết phục ông Thiệu thả tù VC để đổi tù binh Mỹ như Washington đ̣i Hà Nội. Một tuần sau BV bỏ đ̣i hỏi này, địch nhượng bộ nhiều do phía Mỹ lèo lái. 

Kissinger và Thọ thỏa thuận sau chiến tranh Mỹ sẽ tái thiết Đông Dương, ông nói “gọi là hàn gắn vết thương chiến tranh” cho nó thêm thi vị. 

Hai giờ sáng ngày 12-10-1972, sau khi thảo luận 16 tiếng, hai bên giải quyết phía Mỹ thay thế quân dụng của VNCH (như máy bay, xe cộ), ngưng bắn tại Miên, Lào. Như thế sau 3 năm, hai bên thử thách ḷng kiên nhẫn của nhau giờ là lúc cùng giải quyết. 

Ngày 11-10 (hôm trước) Kissinger điện tín cho Bunker để nói Thiệu cố gắng dành, chiếm cho nhiều đất tại các nơi đông dân cư thuộc Vùng III vây quanh Sài G̣n. Kissinger cho là họ sẽ chấp nhận ngưng bắn trong một tương lai gần. Trước khi sang gặp Thiệu tại Sài G̣n, Kissinger không gửi toàn văn dự thảo v́ bí mật, tưởng là ông ta sẽ vui mừng v́ không bị ám ảnh bởi con ma Liên hiệp và chấp nhận ngưng bắn tại chỗ (standstill cease-fire), nhưng Kissinger sợ các cố vấn của ông ta (Nhă, Đức) sẽ bóp chết Dự thảo. Negroponte lo lắng Thiệu sẽ phản ứng lại. 

Ngày 10-10 McGovern, đối thủ của Nixon đưa ra chương tŕnh t́m ḥa b́nh cho VN, ông ta không đ̣i hỏi Hà Nội nhiều như Cộng ḥa (Nixon). 

Có một số nhận định cho là Hành pháp Mỹ giải quyết vấn đề ḥa b́nh giống như năm 1969. Trước ngày 8-10-1972, Hà Nội không hề bỏ điều khoản Liên hiệp, đ̣i loại bỏ Thiệu. Nay Hiệp định công nhận sự hiện diện của Quân đội VNCH, Mỹ vẫn được viện trợ quân sự cho miền Nam . CSBV rút khỏi Miên, Lào và ngưng bắn ở Lào (trang 1359). 

Chúng tôi không t́m kiếm decent interval (khoảng cách đẹp) nhưng có được decent settlement (hiệp định tốt đẹp), VNCH được vũ trang đầy đủ, được Mỹ yểm trợ có thể chống lại những vi phạm trung b́nh, nếu địch vi phạm lớn, Mỹ sẽ cưỡng bức chúng thi hành Hiệp định (enforce agreement). Hà Nội thích cái bánh vẽ tái thiết hơn là chiếm miền Nam xa xôi. Chúng ta có thể nhờ Nga, Tầu và Hà Nội, cả hai miền Nam Bắc sẽ ḥa giải, ḥa b́nh. 

Kissinger kết luận không ngờ Watergate phá hủy hết, không kể ǵ đến việc chúng tôi mang lại ḥa b́nh danh dự. 

Nhận xét 

Các phụ tá của Kissinger ghi nhận các dữ kiện để làm biên bản cho các buổi họp mật giữa Mỹ và CSBV tại cuộc ḥa đàm. Sau này Kissinger dựa vào đó để viết hồi kư kể lại diễn tiến của đàm phán bí mật giữa ông ta và đại diện BV Lê Đức Thọ. Trong phần này Kissinger đă dài ḍng văn tự tường thuật lại với gần 60 trang giấy. Như trên cuộc thương thuyết mật đàm đă kéo dài từ năm 1969 cho tới gần cuối năm 1972 mới có lối thoát. 

Trước đó phía CS Hà Nội đưa ra những điều kiện cứng ngắc mà Kissinger đă ví như những lời khắc trong đá không thể nào lay chuyển được. Họ đ̣i Mỹ rút quân không điều kiện, lật đổ Thiệu, thành lập chính phủ Liên hiệp, cắt viện trợ cho VNCH.. sở dĩ BV ngang ngược như vậy v́ thấy Hành pháp đang bị Quốc hội Dân chủ, truyền thông, quần chúng chống đối mạnh, đ̣i phải sớm mang lại ḥa b́nh. Hà Nội hy vọng Quốc hội, phong trào phản chiến sẽ ép Nixon-Kissinger phải nhượng bộ họ tại bàn Hội nghị. 

Cuộc đàm phán của Hành pháp trên thực tế phụ thuộc vào t́nh h́nh chính trị trong nước, nghĩa là Kissinger cũng như Nixon không có nhiều quyền hành để thương thuyết, họ phải chiều theo dân, Quốc hội, báo chí….Một số dân biểu, Thượng nghị sĩ đ̣i hỏi Hành pháp phải nhượng bộ địch, họ muốn ra luật chấm dứt chiến tranh v́ quá mong mỏi ḥa b́nh. 

CSVN mới đầu hy vọng Quốc hội sẽ ép TT Nixon phải nhượng bộ, sau thấy Mỹ rút gần hết, họ được CS Nga, Tầu viện trợ nhiều vũ khí tối tân bèn mở cuộc tổng tấn công cuối tháng 3-1972 bằng lực lượng rất lớn hy vọng đánh sập chế độ VNCH để thành lập Liên hiệp. Đường lối mạnh để giải quyết bằng quân sự thất bại v́ các sư đoàn tinh nhuệ của BV bị không quân Mỹ vá quân đội VNCH đánh phá tan nát, họ thực sự muốn đàm phán tại bàn Hội nghị, nhất là thấy theo thăm ḍ Nixon sẽ tái đắc cử Tổng thống đầu tháng 11-1972. 

Như trên BV nhượng bộ hết các đ̣i hỏi cứng rắn từ mấy năm qua để kư Hiệp định trước bẩu cử Tổng thống Mỹ v́ sợ khi đắc cử rồi Nixon sẽ cứng rắn hơn. Kissinger cho là BV nhầm, sau khi đắc cử Nixon chưa chắc đă cứng rắn hơn v́ ông sẽ bị Quốc hội mới mà đa số là đối lập phản chiến chống đối mạnh. Mặc dù Nixon đại thắng với 96% phiếu cử tri đoàn, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phô thông nhưng Dân chủ vẫn nắm Quốc hội. Tại Thượng viện Dân chủ thêm 2 ghế thành 56 ghế (56%), Cộng ḥa 42 ghế (3). Trong khitại Hạ Viện mặc dù Cộng ḥa thêm 12 ghế thành 192, Dân chủ mất 13 ghế nhưng vẫn c̣n 242, họ vẫn nắm ưu thế (56%) (4). 

Đảng đối lập vẫn kiểm soát chặt chẽ chính sách của Nixon v́ họ được người dân ủng hộ khi phong trào đ̣i ḥa b́nh, chống chiến tranh lên mạnh. Quyền hành của Nixon ngày càng bị giới hạn dù ông được tái đắc cử với số phiếu quá cao. 

Mặc dù c̣n vô vàn khó khăn do từ các phía VNCH, CS cũng như Mỹ để Hiệp định mang lại ḥa b́nh có thể sớm kư kết, nhưng đây cũng là khúc quành đàm phán quan trọng sau những năm dài bế tắc trần ai. Nó mang lại niềm hy vọng cho Hành pháp Nixon cũng như cho nước Mỹ đă quá mong mỏi ḥa b́nh. 

Trọng Đạt  

Trở lại