KHI BỊ
TRƯỢT CHÂN, NGƯỜI VIỆT NAM PHẢI T̀M RA
NGUYÊN NHÂN Đại-Dương |
Trong ḍng lịch sử, dân tộc Việt Nam
đă bị trượt chân nhiều lần mà cứ
lập đi lập lại đến thành căn
bệnh măn tính v́ sau mỗi lần thất bại
chẳng quyết liệt t́m kiếm căn nguyên để
mà tránh. Hội Quốc Liên thành lập sau năm 1920 kéo
dài 26 năm đă làm “giảm chế độ nô
lệ” trên thế giới được mở
rộng bằng “quyền tự quyết dân tộc”
khi được Liên Hiệp Quốc (1945-) tiếp
nhận giúp cho 14 quốc gia Á Phi được trao
trả độc lập từ năm 1947 mà không
bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng
và tàn phá đất nước như khi tiến hành
cuộc đấu tranh bằng bạo lực quân
sự. Các quốc gia đó đă có thời gian
học hỏi làm quen với kỹ năng quản
trị đất nước và đào tạo chuyên viên
các cấp để lấp chỗ trống khi
được trao trả quyền tự chủ dân
tộc nên ít vấp ngă trong khi vận hành. Đế quốc Việt Nam tuyên bố độc
lập ngày 11/03/1945 sau khi Vua Bảo Đại Huỷ
bỏ Hoà ước kư với Pháp năm 1884 và phê
chuẩn Nội các Trần Trọng Kim 17/04/1945 dưới
sự bảo trợ của Quân đội Nhật Hoàng. Suốt 80 năm, dân tộc Việt Nam vẫn không
lật đổ được sự cai trị
của Thực dân Pháp. Nhưng, chỉ một đêm
Quân đội Nhật đă làm xong và tạo ra
guồng máy điều hành phi-phong-kiến cho người
Việt Nam v́ những thành phần trong Nội các
Trần Trọng Kim gồm toàn trí thức theo Tây
học. Nội các tiến hành: (1) Lập lại
Quốc hiệu Việt Nam. (2) Dùng chữ Quốc
ngữ và Việt-hóa giáo dục. (3) Đ̣i lại trên
danh nghĩa vùng Nam Kỳ để thống nhất lănh
thổ. (4) Soạn Hiến pháp nhấn mạnh tự do
và độc lập. Với nền tảng này, khi Nhật đầu
hàng Đồng Minh th́ Việt Nam có đầy đủ
khả năng hội nhập vào trào lưu tiến hoá
trên thế giới giống như trường hợp
Tân Gia Ba. Dân tộc Việt Nam bị trượt chân khi
Hồ Chí Minh, con tốt của Cộng sản Quốc
tế, buộc Vua Bảo Đại phải giao Ấn tín
và từ chức, giải tán Nội các Trần
Trọng Kim để lập Chính phủ Việt Minh mà
Đảng Cộng sản làm ṇng cốt. Hồ Chí
Minh và Vơ Nguyên Giáp tiến hành chiến dịch tiêu
diệt các Đảng phái Quốc gia và các tôn giáo
tạo ra cuộc nội chiến dai dẵng khiến cho
tiềm lực giành độc lập dân tộc bị
suy yếu buộc Việt Nam phải dựa vào Trung
Cộng và Liên Sô toàn diện và triệt để. Cú trượt chân này làm cho dân tộc Việt
Nam rơi vào cuộc chiến tranh ư thức hệ kéo dài
từ năm 1945 đến 1975 với biết bao máu và
nước mắt lẫn một đất nước
xác xơ, một dân tộc bơ vơ lạc lỏng
trong ḍng tiến hoá của nhân loại. Hiệp định Geneve năm 1954 tạo cơ
hội cho hơn một triệu người Miền
Bắc không muốn sống dưới chế độ
Hồ Chí Minh hà khắc, phi nhân đă t́m về
Miền Nam Tự do cởi mở. Khoảng 14 triệu dân
Việt sống phía Nam vĩ tuyến 17 đă góp
sức chung ḷng khôi phục một nữa giang sơn
bị tang thương v́ 9 năm chiến tranh. Các cụ già lo trùng tu văn hoá dân tộc
bị suy đồi v́ chiến tranh; giới tráng niên
cần cù vừa làm vừa học để chăm lo
gia đ́nh vun đắp tuổi thơ; các em bé i a câu
thơ yêu nước, thán phục các vị anh hùng dân
tộc đă dày công chống quân xâm lược, tàn
bạo, đê tiện từ Phương Bắc; trai
trẻ nhập ngũ ṭng quân góp sức xây dựng
lực lượng pḥng thủ để bảo vệ
Việt Nam Cộng Hoà non trẻ. Miền Nam vĩ
tuyến 17 thơm lừng hương lúa trên các cánh
đồng bát ngát, ngọt ngào hoa quả trong các nhà vườn
cây trái sum suê; vang tiếng cười rộn ră từ
thôn quê tới thành thị, từ miền núi tới
miền biển trong câu ḥ tràn đầy hy vọng
về một nước Việt Nam Minh Châu Trời
Đông. Dân chúng Việt Nam Cộng Hoà tuy yêu quư một
thể chế tự do, dân chủ mà hiểu về
Chủ nghĩa Cộng sản khá nông cạn do: (1)
Giới trí thức chạy theo trào lưu tư tưởng
Tây Phương khi Triết gia Jean-Paul Sartre (1905-1980) tôn
sùng Chủ nghĩa Marx. Chưa bao giờ tham gia Đảng
Cộng sản Pháp, nhưng, Sartre thường xuyên
ủng hộ và thăm Liên Sô năm 1954, từng nói
“Một người chống cộng là một con chó”.
Năm 1956, Sartre lên án Mạc Tư Khoa xâm lăng Hung
Gia Lợi và đoạn tuyệt với Liên Sô khi
Mạc Tư Khoa đàn áp Mùa Xuân Praha của Tiệp
Khắc năm 1968, nhưng, vẫn ủng hộ
giới trẻ cấp tiến của Pháp. Giới trí
thức Việt Nam Cộng Hoà rút vào tháp ngà khiến dân
chúng mơ hồ về Chủ nghĩa Cộng sản dù
cho thần tượng Jean-Paul Sartre đă xoay 180 độ.
Họ bênh vực mù quáng cho quyền tự do ngôn
luận trong bối cảnh thù trong giặc ngoài nên
Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Đức
Thuư, Hoạ sĩ Ớt, Phạm Ngọc Thảo,
Trịnh Đ́nh Thảo, Bà Ngô Bá Thành (Phạm Thị
Thanh Vân) … ngang nhiên quậy phá, tuyên truyền, làm gián
điệp cho Hà Nội. (2) Thường dân Việt Nam
lo làm ăn trong bối cảnh phát triển ồ
ạt của Việt Nam Cộng Hoà nên phó mặt cho Chính
quyền và giới trí thức đương đầu
với các thủ đoạn của Cộng sản.
Sự hời hợt đó trở thành mănh đất
màu mỡ để cán bộ cộng sản nằm vùng
tuyên truyền lôi kéo chống chính phủ và cuối cùng
20 triệu dân của nước Việt Nam Cộng Hoà
đă bị “xuống hố cả nút”. Đám cuồng tín của Hồ Chí Minh từ
miền Bắc đói rét vượt Trường Sơn
để xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hoà
non trẻ, yêu chuộng hoà b́nh, lo phát triển đất
nước. Hơn 100,000 đảng viên Cộng sản
được lệnh cùng ém quân phía Nam vĩ
tuyến 17 với Bí thư Trung ương Cục
miền Nam, Lê Duẩn chờ cơ hội nhuộm
đỏ Việt Nam Cộng Hoà bằng sức mạnh
của Cộng sản Quốc tế. Đền thờ
Lê Duẩn vẫn khắc câu “Ta đánh Pháp, đánh
Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc”. Dưới sự cai trị hà khắc của
Đảng Cộng sản đă tạo ra hai giai
cấp: (1) Bốn triệu đảng viên cộng
sản hưởng trọn quyền lợi quốc gia,
ngoại trừ, những tên bị thất sủng cũng
chỉ dám dâng kiến nghị, góp ư xây dựng để
được an thân. (2) 90 triệu người
Việt c̣n lại chỉ có công việc duy nhất: làm
công cho cán bộ, cho người ngoại quốc đầu
tư. Muốn đổi đời th́ làm cô dâu ở
nước ngoài hoặc t́m mọi cách rời khỏi
Thiên đường Cộng sản. Cú trượt chân đau thương và thê
thảm này đă không thành bài học nhớ đời
của người Việt Nam nên dù họ bị đàn
áp, bóc lột tàn tệ ra sao dưới chế độ
cộng sản, hoặc từng đánh đổi
mạng sống để thoát khỏi thiên đường
xă hội chủ nghĩa vẫn tự an ủi
“chế độ nào rồi cũng tàn lụi, đảng
viên cộng sản tất yếu sẽ thay đổi”
nên kết án bất cứ ai Chống Cộng đều
thuộc loại cực đoan. Đảng Cộng sản Việt Nam chới
với, chẳng biết bám víu vào đâu khi Liên Sô tan
ră năm 1991 và nhân loại đă ném Chủ nghĩa
Cộng sản vào giỏ rác lịch sử nên quay sang
bám vào chân Trung Cộng xin làm chư hầu dù trước
kia đă dựa vào Liên Sô chống lại Bắc Kinh. Hà Nội học theo sách lược của
Bắc Kinh cho phép một số nhân vật đóng vai
tṛ phản biện để tŕnh bày một số ư
kiến về dân chủ đa nguyên, đa đảng
trên thế giới. Các nhân vật thuộc cấp thấp trong
guồng máy mà phần lớn về hưu như Dương
Thu Hương, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang,
Nguyễn Thanh Giang, Lê Hồng Hà, Lữ Giang, Phạm
Quế Dương, Trần Độ, Câu lạc bộ
cựu Kháng chiến của Nguyễn Hộ, Tạ Bá Ṭng
… dưới cây gậy chỉ huy của Trần Xuân
Bách, Thường trực Ban bí thư Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đă công khai
thảo luận về đa nguyên, đa đảng cho
đến khi Hà Nội ổn định được
t́nh h́nh giao động trong xă hội mới bị
dập tắt. Không ai trong số họ kêu gọi người
Việt trong nước vùng lên đ̣i “quyền
tự quyết dân tộc!” Đại đa số Người Việt
Hải ngoại thuộc thành phần Chống Cộng
như vớ được chiếc phao nên tâng bốc
lên tận mây xanh bất cứ ai ở quốc nội
hô hào dân chủ đa nguyên mà quên xét tới ba
yếu tố quan trọng: (1) Bọn họ chỉ lư
thuyết suông về dân chủ đa nguyên có tính cách
hàn lâm, không làm lay động tới đời
sống thiết thực của toàn dân. (2) Đa số
họ là đảng viên cộng sản chỉ muốn
chia quyền với ĐCS nên Hà Sĩ Phu đề
nghị tách đôi ĐCS để cạnh tranh
quyền lợi. (3) Đ̣i Hà Nội cởi trói văn
nghệ, nhưng, ĐCS cởi được th́
cột lại mấy hồi như thực tế đă
diễn ra. (4) Cách mạng bất-bạo-động
tại Đông Âu thành công nhờ dựa vào dân làm
mục tiêu đấu tranh nên trở thành sức
mạnh dời non lấp biển chứ không theo
kiểu cách mạng cải lương như từng
xảy ra ở Trung Cộng và Cộng sản Việt
Nam. Dân Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi cương
quyết thay thế đảng cộng sản quản
trị đất nước, nhất định không
nhượng bộ Nhà nước dù được
cải cách như Tổng bí thư Alexander Dubcek của
Tiệp Khắc. Các vị lănh tụ phản kháng ở Đông
Âu như Lech Walesa, Vaclav Havel thẳng thừng từ
chối thoả hiệp với Đảng Cộng
sản cho tới khi đă tổ chức, lănh đạo
một lực lượng dân tộc hùng hậu
mới chịu đàm phán với Nhà cầm quyền
cới thế chẻ tre. Ngược lại, các nhân
vật “phản kháng” ở trong nước gây áp
lực bằng mối quan hệ (với cán bộ) khi
thương lượng qua công thức “xin-cho”. Dân
không tin, chẳng thấy quyền, nên tránh xa để
khỏi bị vạ lây. Dân tộc hào hùng Việt Nam
mong ǵ ở những kẻ quỳ gối van xin, cầu
cạnh? Một vài người Việt hải ngoại bùi
tai với câu “Hoà hợp Hoà giải” của Hà
Nội nên muốn hợp tác với Đảng
Cộng sản để dân-chủ-hoá đất nước.
Các viên chức ngoại giao cao cấp của CSVN sang Hoa
Kỳ đă hứa cho phép một số chính trị
gia, chuyên viên Việt ở hải ngoại phối
hợp với quốc nội tổ chức các cuộc
hội thảo tại Hà Nội để thảo
luận về biện pháp phát triển đất nước.
Các cuộc hội thảo đă hứa đều
bị huỷ bỏ vào giờ chót sau khi công an phá
vỡ mọi mầm mống chống Cộng c̣n sót
lại sau năm 1975 gây thiệt hại vô cùng trước
cộng đồng quốc tế và dân tộc về
khả năng phán đoán và đối phó với
ĐCSVN. Cú trượt thứ ba làm mất niềm tin
của dân Việt ở quốc nội lẫn hải
ngoại tạo ra t́nh trạng dở khóc dở cười
v́ thù ghét cộng sản, đành bỏ nước ra
đi mà vẫn bao che, trợ giúp, làm ăn với cán
bộ cộng sản. Mới nhất, vài nhân vật chính trị ở
hải ngoại đang tung hứng vụ nguyên Thiếu
tướng Lê Mă Lương “đ̣i Hà Nội
kiện Bắc Kinh ra toà án quốc tế liên quan đến
vụ các tàu Hải cảnh Trung Cộng hộ tống
Tàu Thăm ḍ Địa chất Hải Dương 8
khuấy động Băi Tư Chính … Bộ trưởng
Bộ Quốc pḥng Ngô Xuân Lịch “không biết đọc
bản đồ, không ra thực địa”, và các tướng
lĩnh quân đội “chỉ có mỗi mặt
mạnh, đó là có rất nhiều tiền”. Nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân
sự Việt Nam, nguyên Thiếu tướng Lê Mă Lương
không có vị thế, thiếu hậu thuẫn quốc
dân th́ lời nói chỉ như gió thoảng qua tai. Vợ chồng con gái đầu ḷng đang cư
ngụ tại Cộng Hoà Liên Bang Đức. Con trai út
sinh năm1986, hiện đang theo Cao học ngành Tài chính
Kế toán bên Anh đủ điều kiện xin
tị nạn nhờ kiểu “Hy sinh đời Bố
củng cố đời Con”. Người Việt c̣n nhớ đến gương
các vị anh hùng dân tộc hăy xác định: Chỉ
có người Việt yêu nước thực sự
mới cần bảo vệ và tôn trọng “quyền
tự quyết dân tộc”. Đại-Dương
|