LỊCH
SỬ KHÔNG BIẾT BẺ CONG GIỐNG NHƯ SỬ GIA, NGƯỜI KỂ CHUYỆN, KẺ VIẾT Đại-Dương |
Lịch sử cuộc chiến tại Việt
Nam diễn ra từ năm 1945 đến 1975 tuy cùng
một chiến trường mà mang nhiều tính
chất khác nhau tuỳ thuộc mưu đồ tập
thể và nhận thức của từng người:
nội chiến Nam-Bắc, nội chiến
Quốc-Cộng, chiến tranh Uỷ nhiệm, chiến
tranh Giải phóng, chiến tranh Vệ quốc. Nội chiến Nam-Bắc khi dân tộc Việt
Nam ở hai bên bờ sông Bến Hải lâm vào cuộc
tàn sát kéo dài từ năm 1954 đến 1975. Nội chiến Quốc-Cộng diễn ra
từ năm 1930 đến 1975 làm cho t́nh cảm dân
tộc đi theo hai ngả: Cộng sản, Tư
bản cho tới khi toàn bờ cỏi Việt Nam bị
nhuộm đỏ. Chiến tranh Uỷ nhiệm từ năm 1930
đến 1975 do Cộng sản Quốc tế đào
tạo, huấn luyện, tài trợ cho Hồ Chí Minh phát
động cuộc chiến giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp trên Bán đảo Đông Dương.
Hoa Kỳ nhảy vào Việt Nam từ năm 1954 đến
1973 nhằm bảo vệ vùng đất phía Nam sông
Bến Hải thoát khỏi sự thôn tính của
Cộng sản Quốc tế. Chiến tranh Giải phóng do Đảng Cộng
sản Việt Nam tiến hành cuộc xâm lăng từ
năm 1945 đến 1975 để thiết lập
một Nhà nước Cộng sản trên toàn cỏi
Đông Dương. Chiến tranh Vệ quốc từ năm 1954
đến 1975 chỉ để bảo vệ dân chúng
phía Nam sông Bến Hải do Hiệp định Geneve năm
1954 tạo ra được hưởng đời
sống tự do, độc lập, phát triển,
hội nhập quốc tế. Dân tộc Việt Nam đóng vai tṛ chính trên
chiến trường mà yếu tố quyết định
thắng/bại lại thuộc vào các thế lực
quốc tế. Hầu hết các sử gia thế giới,
kể cả một số phóng viên quốc tế đă
không hiện diện tại chiến trường
lại có toàn quyền phê phán cuộc chiến đau
thương, bi thảm nhất của dân tộc
Việt Nam. Phóng viên ngoại quốc ở Thủ đô Sài
G̣n và các thành phố lớn chờ tin chiến trường
do cộng tác viên bản xứ gởi về để
sàng lọc và viết bài theo cảm nghĩ và định
kiến cá nhân. Giới sử gia, điện ảnh gia,
kịch tác gia dựa vào hầu hết các tài liệu
đó cùng với tài liệu tuyên truyền từ phe
Cộng để sàng lọc thêm vài lần nữa nên
lịch sử cuộc chiến Việt Nam khó tránh
bị vo tṛn bóp méo. Cuộc chiến Việt Nam được
giảng dạy tại học đường, biện
luận trên các phương tiện truyền thông
quốc tế đều thể hiện sự phiến
diện từ cá tài liệu nêu trên nên mọi tội
lỗi đều trút lên đầu phe bại trận
vốn không c̣n điều kiện chính thức để
biện minh. V́ thế, có một số người Việt
Nam đă cất cao giọng “cái hoạ mất nước
không do người trẻ … thế hệ trước
sai làm tuổi trẻ phải lưu vong”. Việt Nam Cộng Hoà mất có vô số nguyên
nhân, nhưng, chẳng phải duy nhất trên quả
đất này. Đệ nhị Thế chiến đă có
nhiều cường quốc bị kẻ thù cai trị
như Pháp và đa số các nước ở Châu Âu cũng
như Trung Quốc và một số nước khác
ở Châu Á. Nếu không được Hoa Kỳ và Anh
Quốc sử dụng mọi phương tiện
chiến tranh và hàng triệu binh sĩ đổ bộ
lên đất Pháp th́ Châu Âu có thể thoát khỏi ách
thống trị của Đức Quốc Xă hay sao? Thiếu Hoa Kỳ và Anh Quốc trực tiếp
tham chiến th́ liệu Trung Quốc và các nước
Châu Á có thoát khỏi sự dày xéo của Đế
quốc Nhật Bản hay không? Việt Nam Cộng Hoà lập quốc từ năm
1955 đă phải đương đầu với
cả Khối Cộng Quốc tế chứng tỏ ư
chí độc lập và tinh thần bảo vệ quê hương,
gia đ́nh lên tuyệt đỉnh trong bối cảnh
chiến tranh khủng bố và bao vây ác liệt. Năm 1968, Phe Tự do có 1,4 triệu quân (VNCH
850,000, Hoa Kỳ 543,000 và số c̣n lại thuộc 5 nước
đồng minh) so với 1 triệu cán binh (Bắc
Việt 690,000 và 200,000 Việt Cộng cùng 170,000 Trung
Quốc, 200 Bắc Triều Tiên). Theo Wikipedia. Khi Mỹ rút quân và viện trợ th́ cán cân
quân số, phương tiện chiến tranh nghiêng
về phía Cộng sản Quốc tế nên
thắng/thua là tất yếu.
Công dân Việt Nam Cộng Hoà vừa phải
đương đầu với cuộc chiến toàn
diện (quân sự, chính trị, văn hoá, kinh tế,
khủng bố, gián điệp, ngoại giao) do Cộng
sản Quốc tế phát động và điều
khiển; vừa phải xây dựng và bảo vệ
nền dân chủ non trẻ làm sao có thể ngang hàng
với nền dân chủ Tây Phương vốn đă
mất nhiều trăm năm để hoàn thiện.
Thời đó, Việt Nam Cộng Hoà là h́nh tượng
được nhiều quốc gia Châu Á ái mộ. Con người sinh ra đều b́nh đẳng
bất kể thuộc màu da, xứ sở nào, kể
cả quyền tự do ngôn luận. Bất-b́nh-đẳng
đều do chế độ chính trị tạo ra nên
mức độ dân chủ cũng biến thiên theo
thời cuộc phù hợp với quyền lợi
tối thượng của dân tộc hoặc của
giới cai trị. Quyền tự do công dân có thể bị
hạn chế khi xuất hiện dấu hiệu gây
hại tới lợi ích dân tộc mà người văn
minh phải biết chấp nhận. Mọi hành động liên quan đến
số đông, kể cả xuất phát từ nhà lănh
đạo cao nhất quốc gia cũng phải chịu
búa ŕu dư luận, dù đúng hoặc sai mà chỉ có
quyền biện minh mà không được phép cấm
đoán. Chuyện này rất b́nh thường trong xă
hội dân chủ mà bị đàn áp khốc liệt
trong chế độ cộng sản, kể cả
tại Việt Nam hiện nay. Sống trong xă hội dân chủ ở Tây Phương
sao chẳng thấy các vị nguyên thủ quốc gia
bị dư luận chỉ trích kịch liệt mà
đôi khi rất vô lư vẫn diễn ra hàng ngày? Khi nhân danh bất cứ lư do nào mà có liên quan
đến cuộc sống của số đông đều
khó tránh búa ŕu dư luận v́ bị mổ xẻ tơi
bời về chủ trương, đường
lối hành động. Như thế, mới mong có
được một chủ trương hợp t́nh,
hợp lư, khả thi và trên hết phải phục
vụ quyền lợi của dân tộc. Tư tưởng của con người chỉ
h́nh thành khi va chạm trong cuộc sống nên không
hề có chuyện “bẩm sinh tư tưởng”
hoặc "di dân tư tưởng"! Đa số người Việt Nam lưu
lạc khắp thế giới hiện nay đều
thuộc diện “tị nạn cộng sản”,
phần lớn di dân cũng nhờ nhóm “tị nạn
cộng sản” bảo lănh. Vậy, căn cước
của người Việt hải ngoại không thể
bị đánh tráo. Cuộc vận động Chống Ác không
Chống Cộng cũng khó tránh bị đưa lên bàn
mổ. Một số người ủng hộ Chống
Ác chỉ trích gắt gao bất cứ ai chủ trương
Chống Cộng. Lạ lùng chưa! Bản Tuyên bố bế
mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới
ở Úc Đại Lợi gồm 3 điểm chính
đều tập trung vào tố cáo chế độ
Cộng sản Việt Nam; lên án hành vi chống lại
dân tộc Việt Nam, làm tay sai ngoại bang, đ̣i
đảng Cộng sản trả lại
quyền làm chủ đất nước cho toàn dân;
kêu gọi lật đổ chế độ cộng
sản. Ai có thể tin vào một tổ chức với
chính sách, đường lối hành động
bất nhất như thế?
Đại-Dương |