Luật
Các Đặc Khu: Các Sai Phạm Và Giải Pháp TS.Đỗ Kim Thêm |
Bối
cảnh Ngày
10 tháng Sáu năm 2018 là khởi điểm cho một
trang sử đấu tranh của toàn dân tộc.
Lần đầu tiên, kể từ ngày 30 tháng Tư năm
1975, dân chúng cả nước đă đồng
loạt xuống đường biểu t́nh để
phản đối việc Quốc hội thông qua
dự luật An ninh Mạng và Các Đặc khu. Có
nhiều lư giải về các tác hại của hai
dự luật này, mà lời tuyên bố của Bà
Nguyễn Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội, là nguyên
ủy: “Bộ Chính trị đă quyết rồi. Bây
giờ Quốc Hội phải bàn để ra
luật.“ V́
sao mà dân chúng lên tiếng nói? Họ không chịu
mất nước và mất tự do ngôn luận.
Bộ Chính trị và Quốc hội đă vi phạm
hai quyền hiến định của toàn dân về
vẹn toàn lănh thổ và tự do ngôn luận. Để
phản đối hai hành vi vi hiến này, toàn dân đă
biểu t́nh, đó cũng là một quyền hiến
định. Nguyên
nhân
Độc
tôn Đảng quyền, vi phạm quyền dân tộc
tự quyết của toàn dân, thiếu kỹ năng
hoạch định chính sách của chính quyền và
kỹ năng lập pháp của Quốc hội là các lư
giải chính. Độc
tôn Đảng quyền
Mục
tiêu của Hiến pháp là đề ra một khuôn
mẩu quy phạm về tổ chức chung cho toàn xă
hội và thể hiện ư chí chung sống của người
dân với chính quyền. Nhưng thực tế cho
thấy là Hiến pháp Việt Nam chỉ thể
hiện ư muốn chính trị và sao chép lại
những đường lối của Đảng để
dân chúng tuân thủ. Điều
4 Hiến pháp 2013 có quy định về vai tṛ lănh
đạo của Đảng. Tuy nhiên, điều
kiện để có hiệu lực hợp hiến và
hợp pháp là mọi hoạt động của Đảng
phải nằm trong khuổn khổ cuả Hiến pháp
và luật pháp. V́ không có luật qui định, nên
Đảng không bị ràng buộc và chịu trách
nhiệm pháp luật: tất cả các Cương lĩnh
và Nghị quyết của Đảng là toàn diện,
tuyệt đối, nhưng đứng ngoài và đứng
trên Hiến pháp và luật pháp. Nghị
Quyết của Bộ Chính trị về Các Đặc
khu mà ông Đinh Thế Huynh đă kư Kết luận
số 21-TB-TW ngày 22 tháng Ba năm 2017 "Đồng ư
cho thành lập ba đơn vị hành chính kinh tế
đặc biệt Vân Đồn (tỉnh Quăng Ninh)
Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hoà) và Phú Quốc
(tỉnh Kiên Giang) trực thuộc cấp tỉnh“ là
nằm trong trường hợp mà Bà Nguyễn thị
Kim Ngân đă viện dẫn. Đặc biệt
nhất là Bộ Chính trị c̣n “giao cho Đảng
đoàn Quốc hội xem xét thông qua". Hiến
pháp 2013 không có một điều khoản nào quy định
về thẩm quyền hiến định của
Bộ Chính trị. Cho đến nay, các đạo
luật do Quốc hội ban hành cũng không đề
cập đến quyền của Bộ Chính trị. Do
đó, Bộ Chính trị không có quyền về quy
hoạch lănh thổ. Thực
ra, đây không phải là lần đầu tiên có
vấn đề về quy hoạch lănh thổ, các
dự án Bauxite tại Tây Nguyên, khu kinh tế gang thép Vũng
Áng, dự án Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội và Chân Mây
với các hậu quả tương tự đă có trước
đây. Đề
ra vai tṛ lănh đạo Nhà nước của Đảng
trong một khuôn khổ pháp chế là một nhu cầu
khách quan thời đại mà Quốc hội cần ban
hành để toàn dân biết giới hạn pháp
luật của Đảng. Nhưng độc tôn Đảng
quyền là chuyện mọi người phải
đương nhiên chấp nhận và cho Đảng là
một đặc thù của Việt Nam do lịch
sử đấu tranh của Đảng để
lại. Thực tế sinh động hiện nay cho
thấy là Đảng đă chấm dứt nhiệm
vụ lịch sử này từ lâu. Vi
phạm thẩm quyền lập hiến
Các
vấn đề toàn vẹn lănh thổ, tuyên chiến
hay nghị hoà, tổ chức bộ máy nhà nước
và tôn trọng các dân quyền và nhân quyền là các
quyền cơ bản do toàn dân quyết định. Toàn
dân ủy nhiệm cho quốc hội lập hiến
soạn thảo và sau đó đồng thuận
Hiến pháp qua h́nh thức trưng cầu dân ư hay phúc
quyết. Quốc
hội Việt Nam là một cơ chế Đảng
cừ dân bầu, một đặc thù không như các
Quốc hội khác trên thế giới. Điều 69
Hiến pháp 2013 đă không phân biệt thẩm
quyền lập hiến và lập pháp của quốc
hội. Một mặt, Hiến pháp xác định
thẩm quyền lập hiến là chủ quyền
của nhân dân, mặt khác lại đề cao vai tṛ
tối thượng của Quốc hội, không phân
định rơ hai phạm vi là một nghịch lư.
Tất cả quyền lực của Nhà nước
đều thuộc về nhân dân và Nhà nước
bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm
chủ về mọi mặt của nhân dân, nhưng người
dân không thể thực hiện quyền này trong
thực tế, v́ người dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng Nhân dân. Do đó, Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp và chỉ có Quốc hội mới quyền
sửa đổi Hiến pháp. V́
Hiến pháp đề cao chủ quyền cuả nhân dân,
nhưng lại không minh thị thẩm quyền phúc
quyết hiến pháp, đó là một sự thiếu
nhất quán trong quy định quyền lực của
nhân dân. Hiến pháp mặc nhiên không phát huy đúng
mức quyền làm chủ của nhân dân v́ cho phép
Quốc hội không thực hiện trưng cầu dân
ư, đó là một lổi hệ thống. Việt
Nam không có Toà Bảo Hiến để xét xử là
Kết luận số 21-TB-TW ngày 22 tháng Ba năm 2017
của Đảng về các Đặc khu có vi hiến
không. Quyền giải thích luật pháp thuộc về
Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội, một cơ
chế kiểm tra nhưng không bảo đảm tính
thống nhất cuả hệ thống luật pháp, nhưng
tŕnh độ chuyên nghiệp của các Đại
Biểu c̣n là vấn đề. Kỹ
năng hoạch định chính sách của chính
quyền Khi
soạn thảo đề án cho chính quyền, các chuyên
gia hoạch định các chính sách các Đặc khu
cho thấy có nhiều vấn đề về kỷ năng
cần được thảo luận nghiêm túc hơn. Khái
niệm Đặc
khu Hành chính là một khái niệm cổ điển
thuộc khoa học hành chính công quyền, nhằm
bảo đảm đặc quyền tự trị cho các
cơ quan hành chính điạ phương, giúp cho người
dân tự quản các sắc thái truyền thống, mà
không cần cơ quan trung ương can thiệp. Xă thôn
tự trị theo tinh thần phép vua thua lệ làng là
một đặc sắc của dân tộc Việt. Đặc
khu Kinh tế là một một khái niệm quen thuộc
trong các sách giáo khoa về phát triển kinh tế cho các
nước đang mở mang, nhằm tao ra những khu
chế biến các sản phẩm công nghiệp để
xuất khẩu. Với các biện pháp thuế quan
ưu đăi, nhân công có mức lương thấp, các
cơ sở hạ tầng thuận lợi cho tồn
trử, chuyển vận hàng hải và hàng không, Đặc
khu Kinh tế tạo thu hút cho giới đầu tư
quốc tế và làm tăng nguồn thu ngoại tệ
đang c̣n khan hiếm. Khu vực này hoạt động
biệt lập với cơ cấu nền kinh tế
nội địa c̣n đang khép kín v́ tŕnh độ
canh tân kỹ thuật c̣n tụt hậu. Ngược
lại, mục tiêu của Luật Đặc khu Hành chính
và Kinh tế Vân Đồn (tỉnh Quăng Ninh), Bắc Vân
Phong (tỉnh Khánh Hoà) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)
là giao trọn quyền quy hoạch lănh thổ cho chính
quyền cấp tỉnh, nhưng tầm vóc các quyết
định này lại có ảnh hưởng cho các
vấn đề chiến lược an ninh, quốc pḥng,
nhân dụng và đối ngoại cho cả nước. Thực
tế cho thấy là tŕnh độ lao động
của dân địa phương các đặc khu c̣n
thô sơ, khu vực kinh tế là cá thể, năng
suất lao động thấp, đó không phải là các
yếu tố thu hút cho giới đầu tư quốc
tế đến các đặc khu để thiết
lập các khu vực công nghệ cao, du lịch và ṣng
bạc. Do tụt hậu giáo dục, người dân
địa phương sẽ không có kỹ năng và cơ
hội được thu dụng tại các khu vực
hiện đại hay quốc tế. Thiết lập các
đia điểm dành cho người nước ngoài là
không đáp ứng cho các nhu cầu phát triển địa
phương, nhưng tạo môi trường kinh doanh
bất động sản cho giới lănh đạo
cấu kết với tài phiệt trục lợi. Do
đó, không quan tâm đến yếu tố khống
chế chính trị và lũng đoạn tài chính do
Trung Quốc gây ra, chỉ lo tập trung đầu tư
bất chính mà có tác hại về an ninh lănh thổ,
hoạch định chính sách các Đặc khu là
một sai lầm nghiêm trọng về mặt khái
niệm cơ bản. Đồng
thuận của dân chúng Thiết
lập các Đặc khu thể hiện quyết tâm duy
ư chí chính trị của Đảng mà Đề án
Bắc Vân Phong là một thí dụ điển h́nh
(trang 31 của Đề án), v́ tinh thần đồng
thuận của dân chúng mà các chuyên gia đề
cập trong đề án là vô căn cứ. "Trước
cơ hội phát triển mới của huyện
Vạn Ninh, người dân trên địa bàn đă
đồng thuận hưởng ứng và sẳn sàng
phối hợp với chính quyền để xây
dựng đơn vị hành chính-kinh tế đặc
biệt, tạo ra buớc ngoặc mới cho sự phát
triển của khu vực này (trang 31- 32 của Đề
án). Không
tham khảo ư kiến của người dân và các
tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trước khi
tiến hành dự án, lại xác quyết tinh thần
đồng thuận không có cơ sở, đề án là
sự áp đặt không dân chủ. Ngày 10 tháng Sáu năm
2018 người dân Nha Trang đă biểu t́nh phản
đối là một chứng minh ngược lại. Bối
cảnh quốc tế Bối
cảnh quốc tế được các chuyên gia mô
tả là thuận lợi cho việc thiết lập các
Đặc khu: ...
Hiện nay, thế giới đang có xu hướng
xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển
mô h́nh hợp tác công tư, nhiều quốc gia xem phát
triển đặc khu kinh tế là động lực
mạnh mẻ thúc đẩy tiến tŕnh cải cách
kinh tế và hội nhập ... (trang 22) Thực
tế ngược lại. Tác lực chính của
sự thay đổi bối cảnh này là Trung Quốc
đang trỗi dậy. Trong năm năm qua, Trung
Quốc đă mở rộng lănh hải quốc tế
bằng cách xây các ḥn đảo nhân tạo ở
Biển Đông, khẳng định quyền kiểm soát
tài nguyên thiên nhiên trong khu vực, ép buộc Việt
Nam ngưng khai thác dầu khí ở vùng Bải Tư chính
mà Việt Nam kiểm soát theo Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển. Việt Nam
phải hai lần bỏ dở một dự án giao do Công
ty Repsol Tây Ban Nha khai thác và bồi thường
thiệt hại. Sau
khi quân sự hoá các tiền đồn ở Biển
Đông để tạo là một sự kiện đă
rồi đối với thế giới, Trung Quốc
chuyển sang hướng Ấn Độ Dương.
Trung Quốc đă lập một căn cứ quân
sự đầu tiên ở Djibouti, chiếm cảng chính
của Djibouti và sẽ mở một căn cứ
hải quân mới thuộc cảng Gwadar ở cạnh
biên giới Pakistan. Trung Quốc đă thuê một
số ḥn đảo c̣n tranh chấp ở Maledives, nơi
tập trung xây dựng một đài quan sát hàng
hải. Đài này cho phép Trung Quốc huy động các
tàu ngầm tấn công bằng vũ khí hạch tâm
tại Ấn Độ Dương. Trung
Quốc cũng dùng tiền để lũng đoạn
nội t́nh của Úc và Tân Tây Lan và tạo ảnh hưởng
như đă làm tại Việt Nam. Việc mua chuộc
Tổng trưởng Mậu dịch Andrew Robb xảy ra
trong thầm lặng, mà về sau truyền thông mới
phát hiện. Tháng 10 năm 2015 Úc đă cho Trung Quốc
thuê Cảng Darwin trong 99 năm với giá 506 triệu Úc
Kim. Đây là một vị thế chiến lược
gần phi trường quân sự, căn cứ của
Mỹ và Úc để tiến về Biển Đông.
Một thất bại nặng nề cho Úc. V́
tập trung về ba vấn đề thương
mại, Bắc Triều Tiên và Iran, Hoa Kỳ đă làm
ngơ trước sự tấn công của Trung
Quốc về quyền tự do trên biển, bao gồm
cả hạn chế quyền của Việt Nam và các nước
khác trong khu vực. Nếu xung đột tại
Biển Đông xảy ra, ba đặc khu Vân Đồn,
Bắc Vân Phong và Phú Quốc sẽ có ư nghĩa
chiến lược đối với các cuộc hành
quân ngăn chặn, nó sẽ thành các tiền trạm
cho Trung Quốc. Tóm
lại, Trung Quốc đă biến đổi quan
cảnh chiến lược của khu vực và đang
cố thủ trước những lợi thế này. Vô
h́nh chung, Việt Nam giúp trực tiếp cho Trung Quốc
lănh đạo bá quyền độc đoán trong
trật tự khu vực. Kinh
nghiệm quốc tế Đề
án Bắc Vân Phong có đề cập đến các
kinh nghiệm thành công (trang 18), nhưng không phân tích các
chi tiết. Thực tế là từ sau khủng hoảng
tài chính năm 2008 cho đến nay, t́nh h́nh toàn
cầu hoá thay đổi triệt để, nên các thành
công trong việc thiết lập các đặc khu không
c̣n được xem là tương tự mà Việt
Nam có thể áp dụng. Cụ
thể là các Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến,
San Đầu, Hạ Môn và Chu Hải được thành
lập vào thời điểm thuận lợi của trào
lưu toàn cầu hoá và công nghiệp hoá. Nhờ
thế, qua chủ trương xuất khẩu, Trung
Quốc tận dụng các lợi thế tương
đối trong luật mậu dịch quốc tế. Mô
h́nh Dubai không thể so sánh với nội t́nh của
Việt Nam hiện nay. Chính quyền Dubai hoàn toàn
chủ động trong việc hoạch định chính
sách. Nhờ khả năng tài trợ dồi dào của
các nước thuộc khối Á Rập, Dubai không
bị khống chế chính trị như Trung Quốc
đối với Việt Nam. Lợi
thế của Singapore là không thuần về mô h́nh phát
triển địa lư mà c̣n là một chính quyền
mạnh nhưng trong sạch, một đặc thù
về thể chế mà Việt Nam không có. Thành
công của hai Đặc khu Incheon và Jechu (Hàn Quốc) có
vai tṛ đóng góp của khối nhân lực, môt
lợi thế về nhân dụng của Hàn Quốc mà
Việt Nam chưa quan tâm xây dựng kỹ năng. Do
đó, để bổ sung cho nội dung đề án
được hoàn chỉnh hơn, các chuyên gia cần
so sánh trong chi tiết về các kinh nghiệm quốc
tế để phát triển các Đặc khu thành công. Ngoài
ra, đề án có đề cập đến các kinh
nghiệm thất bại (trang 20), nhưng thiếu
cập nhật kiến thức qua các đề án trước
đây do chính Việt Nam gây ra. Việt Nam cần
học tập về các tác hại của các dự án
Bauxite, Vũng Áng, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Chân
Mây để kết kuận khách quan hơn, nhưng
đề án chỉ mô tả các nguyên nhân thất
bại của các Đặc khu quốc tế là: …
thiếu quyết tâm chính trị của lănh đạo
cấp cao, thiếu khát vọng và nhiệt huyết
của chính quyền và nhân dân nơi xác định xây
dựng đặc khu kinh tế, vị trí lựa chon không
đúng, xác định phát triển ngành nghề chưa
thực sự phù hợp với tiềm năng, không có
luật riêng, thiếu cơ chế... (trang 20), thiếu
sự hỗ trợ của chính phủ để đầu
tư phát triên hạ tầng, tổ chức bộ máy
hành chính cồng kềnh chồng chéo, quy tŕnh thủ
tục thiếu minh bạch, năng lực quản lư kém
dể xảy ra tiêu cực tham nhũng ... (trang 21) Không
nêu lên được các kinh nghiệm thất bại
cụ thể của một Đặc khu nào, các
chuyên gia lập luận chung theo những sáo ngữ quen
thuộc và đúng cho sự thất bại của toàn
nền kinh tế Việt Nam. Với 325 khu công
nghiệp, 18 khu kinh tế biển, 26 khu kinh tế
cửa khẩu và 3 khu công nghệ cao, Việt Nam có
đủ kinh nghiệm về các loại thất
bại và cần rút tiả kinh nghiệm cho việc
hoạch định các đặc khu, một việc
học tập mà các chuyên gia đă không làm nghiêm túc. Gần
đây, truyền thông quốc tế đă mô tả chi
tiết các thất bại của các Đặc Khu Boten
(Lào) và Sihanoukville (Kampuchea) do Trung Quốc gây ra. Hơn
nữa, Đặc khu Koh Kong (Kampuchea) với 45.000 ha
sẽ cùng chung số phận như tại Sri Lanka.
Bẩy nợ do Trung Quốc giăng ra làm cho Sri Lanka sa lưới
và phải giao hải cảng Hanbantota với 15.000
mẩu đất chung quanh cho Trung Quốc sử
dụng trong thời hạn 99 năm; đó là một
tiến tŕnh hỗ trợ cho dự án một vành đai,
một con đường thành công. Vị thế
chiến luọc của Ấn độ v́ thế mà
suy yếu hơn. Các thảm hoạ này không được
các chuyên gia thảo luận trong đề án, đó
là một sai lầm khi hoạch định. Tóm
lại, các vấn đề về khái niệm, thủ
tục tham khảo, bối cảnh và kinh nghiệm
quốc tế cần bổ sung cho phù hợp với
tầm quan trọng của đề án. Điều này
chứng tỏ là các chuyên gia đă không có kỹ năng
hoạch định đề án, nhưng tệ hai
hơn lại là kỷ năng lập pháp của
Quốc hội. Kỷ
năng lập pháp của Quốc hội H́nh
thức Dự
luật gồm 6 Chương, 88 Điều khoản và
4 Phụ lục; với nội dung quy định cơ
cấu tổ chức, điều hành, các điều
kiện ưu đăi, thủ tục tiến hành đầu
tư kinh doanh ở ba Đặc Khu Vân Đồn (Quảng
Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Ḥa) và Phú Quốc (Kiên
Giang). Điều
11 Khác
với Đề án, về mặt h́nh thức, Điều
11 của Luât Đặc khu có quy định việc
lấy ư kiến về việc quy hoạch đặc
khu với các h́nh thức là: a)
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ
chức có liên quan, chuyên gia, nhà khoa học, nhà đầu
tư chiến lược được thực
hiện bằng h́nh thức gửi hồ sơ, tài
liệu và đăng tải trên cổng thông tin
điện tử của cơ quan lập quy hoạch. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân được lấy ư
kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn
bản; b)
Việc lấy ư kiến cộng đồng dân cư
sinh sống tại đặc khu được thực
hiện bằng h́nh thức đăng tải trên cổng thông
tin điện tử của cơ quan lập quy
hoạch, niêm yết, trưng bày tại nơi công
cộng; c)
… có thể lấy ư kiến bằng h́nh thức
phát phiếu điều tra phỏng vấn, tổ
chức hội nghị, hội thảo hoặc các h́nh
thức phù hợp khác. Quốc
hội không chứng minh được là đă tuân
thủ Điều 11 trước khi đệ tŕnh
dự thảo Luật cho Quốc hội xét duyệt.
Việc tham khảo ư kiến dân chúng và các học
viện nghiên cưu chuyên ngành quan hệ quốc
tế, an ninh chiến luọc và kinh tế quốc
tế đă không xảy ra. Các
cuộc họp chuyên đề do Đại học
Thẩm Quyến và Tỉnh Quảng Ninh tổ chức vào
ngày 20 tháng Ba năm 2014 không nằm trong khuôn khổ
lấy ư kiến này, v́ nó xảy ra trước khi có
Quyết định của Bộ Chính trị và đây
là một phiên họp mang tính chỉ đạo của
các chuyên gia Trung Quốc cho Việt Nam. Cuộc
hội thảo ngày 18 tháng 1 năm 2018 do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư tổ chức cũng không
phải là lấy ư kiến mà xác định vị trí
chiến lược của Đặc khu Vân Đồn
là hành lang nối Việt Nam với ASEAN và Trung
Quốc, nên phần tŕnh bày này cũng không phải là
trong tinh thần của Điều 11. Trước
đây, Nhà Xuất bản Khoa học Xă hội Việt
Nam có cho ra đời tác phẩm “Hai hành lang,
một vành đai kinh tê Việt Nam-Trung Quốc trong
bối cành mới“, mà trong đó có đề
cập đến vai tṛ chiến lược của Vân
Đồn, nhưng Quốc hội không tham khảo hay
thảo luận v́ không được phép. Trong
tiến tŕnh soạn thảo dự luật, tất
cả các đại học chuyên khoa thuộc chính
phủ và các sinh viên, học sinh không lên tiếng nói
về một vấn đề hệ trọng của
đất nước. Chỉ có một số ít các trí
thức độc lập làm thỉnh nguyện thư
theo thông lệ và không gây được tiếng vang.
Sự im lặng truyền thông lề phải cũng có
nghĩa là đồng loă với ư kiến của
Bộ Chính trị. Điều
54 Các
nhà lập pháp cần có kỹ năng diễn đạt
ngôn ngữ một cách minh bạch và dể hiểu cho
mọi người, nhằm tránh mọi hiểu lầm
tác hại. Điều 54 khoản 4 quy định: Công
dân của nước láng giềng có chung đường
biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng
Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ
nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với
mục đích du lịch được miễn thị
thực theo bảo lănh của doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc
tế của Việt Nam với thời hạn xác định;
trường hợp có nhu cầu đến các địa
điểm khác của tỉnh … Dự
luật muốn ám chỉ là người Trung Quốc.
Do nhạy cảm chính trị mà Quốc hội không dám
nêu đích danh Trung Quốc; trong thực tế, Quốc
hội luôn dành ưu quyền cho Trung Quốc. Theo
Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch và Đầu
tư, dự luật không có một chử nào về
Trung Quốc. Nội dung của Khoản 4 là môt phản
chứng. Các nhà lập pháp đă vi phạm về tính
trong sáng trong việc soạn thảo. Do
đó, Quốc hội không tuân thủ về h́nh
thức và gây sai phạm trong tiến tŕnh lập pháp. Nội
dung Dự
luật chỉ sao chép các nội dung đă đề
cập trong đề án, nên các sai phạm của các
nhà lập pháp cũng giống như các chuyên gia
hoạch định của chính quyền. Một số
sai phạm chính về lập pháp được
liệt kê như sau: Điều
33 Trong
khi Luật Đất đai qui định thời
hạn cho thuế đất tối đa là 70 năm,
th́ Điều 33 Luật Đặc khu cho phép đến
99 năm mà không biện minh lư do cụ thể. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy là cũng đă có các
hợp đồng cho thuê đất lên đến 99 năm,
nhưng khi hợp dồng đáo hạn, người
thừa kế hợp đồng thuê sẽ hoàn
trả. Niềm tin này không có trong trường hợp
của Trung Quốc v́ hung đồ xâm chiếm
biển Đông và các nước khác trong khu vực
đă thể hiện rơ. Với các h́nh thức lũng
đoạn, mọi việc chuyển nhượng đất
đai là khả thi và trở thành hợp pháp. Người
Hoa đă dùng tiền để nhờ người
Việt đứng tên mua đất, nên tương lai
của các đặc khu trở thành một tô giới.
Khi quyền quyết định của Đặc khu trưởng
như là lănh chuá điạ phương, thoát khỏi
mọi kiểm soát của chính quyền trung ương,
th́ các Đặc khu của Việt Nam sẽ thành tô
giới mới. Giá
cho thuê biển của Việt Nam theo Điều 33 là
khoảng 7 triệu đồng/ha/ năm. Hai hậu
qủa nghiêm trọng việc cho thuê dài hạn là
thất thu ngân sách và mất biển. Giới
đầu tư công nghệ cao không cần có ưu
đăi mà triển vọng sinh lợi là yếu tố
thu hút để cho họ quyết định tham gia
đầu tư. Cho thuê 70 năm hay 99 năm là không
quan trọng, mà chính v́ cơ chế quản lư về
luật đất đai không đủ khả năng
giải quyết các tranh chấp là thách thức
lớn. Các xung đột giữa doanh nghiệp và dân
chúng ở Hà Đông, Đồng Tâm, Đà Nẵng,
Thủ Thiêm là bằng chứng cho thấy là Luật
đất đai không phù hợp. Cho thuê đất 50 năm
đă phát sinh những vấn đề thiếu
hiệu năng về kinh tế và bất ổn chính
trị mà chính quyền c̣n chưa giải quyết
được, th́ hậu quả của việc cho thuê
đất 99 năm càng khó lường được,
nhất là khi có yếu tố Trung Quốc. Cho
thuê biển với giá thấp hay cao không là vấn
đề mà mục tiêu sử dụng của giới
đầu tư là trọng tâm: khai thác mặt
biển, cột nước và đáy biển có
phải là một thảm hoa có tính chiến lược
và an ninh lănh thổ không, nếu có, th́ với mức
độ nào, Quốc hội không nghiên cứu nội
dung này. Điều
39 Điều
39 quy định đặc khu được quyền
bội chi nhưng không vượt quá 70% ngân sách.
Bội chi ngân sách là một t́nh trạng cần
phải tránh. Điều này là một nghịch lư v́ t́nh
h́nh chung của ngân sách là thất thu trầm trọng
và phải dùng đến nợ công để quân b́nh
ngân sách. Quyền bội chi của đặc khu mà không
có biện minh là một sai lầm nghiêm trọng về
kỷ luật ngân sách, một sai phạm sơ đẳng
của các nhà lập pháp. Chính
ra Quốc hội phải quy định các biện pháp
kiểm tra, chế tài những sai phạm trong kỷ
luật ngân sách, đó là cần thiết hơn. Cơ
quan nào sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách cho các
Đặc khu? Không ai biết. Nếu dựa vào
nguồn cấp viện của Trung Quốc, th́ không
phải ngân sách của các Đặc khu mà là t́nh
trạng chung về tài chính của Việt Nam sẽ
sụp đổ. Ngoài
ra, Điều 7 Khoản 3 quy định “khi tranh
chấp giữa các nhà đầu tư liên quan đến
hoạt động đầu tư kinh doanh tại
đặc khu, trong đó có ít nhất một bên là nhà
đầu tư nước ngoài c̣n có thể
được giải quyết tại Ṭa án nước
ngoài, trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết riêng biệt của Ṭa án Việt Nam
theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự.” Khi
chấp nhận cho ṭa án quốc gia khác xét xử dân
Việt khi sự việc xảy ra trên lănh thổ
Việt, đó là một h́nh thức trị ngoại pháp
quyền trong tô giới. Kinh nghiệm trong thời
kỳ liệt cường xâu xé là một bài học mà
giới trí thức Trung Quốc cho là một mối
nhục trăm năm cho đất nước (thiên niên
quốc sĩ). Quốc hội không hề tiếp thu
kinh nghiệm này. Điều
40 và 43 Điều
43 quy định thuế được ưu đăi
rất thấp (10%) và được miễn thuế 4
năm, giảm thuế 50% trong 9 năm tiếp, chỉ có
đầu tư bất động sản là chịu
thuế 17%, cũng không có thuế nhập khẩu hàng
hóa đầu tư. Điều 40 miễn thuế thu
nhập cá nhân trong 5 năm và giảm 50% sau đó. Tăng
nguồn thu cho ngân sách là một lư tưởng cần
thực thi. Thiết lập các trung tâm du lịch và
casino không cần phải có điều khoản ưu
đăi, v́ các giới tài chính quốc tế hay công
nghiệp cao không quan tâm ưu đăi thuế khoá. Kinh
nghiệm về đầu tư trong khu vực công
nghiệp thông tin ở Bangalore, Ấn Độ là
một thí dụ. Chính tài nguyên nhân lực sinh động
là yếu tố quyết định cho giới đầu
tư phương Tây t́m đến đầu tư
tại Ấn Độ, Khi có cơ chế minh bạch,
không tham nhũng, một hệ thông công nghệ phụ
trợ và các đại học chuyên ngành, đó là
những đặc điểm thu hút mà Việt Nam không
có như tại Ấn Độ trước đây. Giải
pháp
Phản
ứng đầu tiên của Quốc hội vào ngày 9
tháng Sáu năm 2018 là lùi thời gian biểu quyết
Luật Đặc khu vào tháng 10 năm 2018 trong khoá hơp
thứ VI. Đây là một kế hoản binh, nhưng
không phải là một giải pháp đúng đắn
cho vấn đề đang sôi bỏng. Giải
pháp chung quyết cho vấn đề là Quốc hội
phải thu hồi Luật Đặc Khu cho phù hợp
với t́nh h́nh mới. Thực hiện giải pháp này
tùy thuộc vào thiện chí của chính quyền và ḷng
căm phẩn của dân chúng. Hiện nay, không ai tin là
Đảng có thực tâm thu hồi cho phù hợp
với ḷng dân mà toàn dân sẽ tích cực tham gia
chống đối trong trường kỳ. Không ai
biết chuyên ǵ sẽ xảy ra trong mối quan hệ
giửa bạo lực của độc tài ngày càng thô
bạo và ước vọng thay đổi của dân
chúng đang trỗi dậy. Chính quyền c̣n đàn áp
dân chúng đến bao lâu? Việc dân chúng tiếp
tục biểu t́nh sẽ đi về đâu? Chính
quyền có can đảm tái diễn kịch bản Thiên
An Môn không? Dân chúng có thể hiện được
tinh thần Diên Hồng không? Thiên
An Môn? Đó là một vết nhơ trong lịch sử
của Trung Quốc mà Việt Nam có thể tránh.
Những tin tức sau vụ bạo động tại B́nh
Thuận cho thấy ngược lại. Chính quyền
trang bị vũ khí tối đa để "sằn
sàng chiến đấu" chống lại nhân dân,
lực lượng mà họ xem là thế lực thù
địch. Vũ khí của Đảng hôm nay không c̣n
là bạo lực mà là lập luận của lư trí
dựa trên khái niệm pháp luật để thuyết
phục. Đảng phải chấp nhận ḷng căm
phẩn của dân chúng và thuyết phục dân chúng trên
cơ sở đối thoại. Việc mất biển
và mất nước là sự thật khách quan, đó
không phải là ác ư nói xấu chế độ. Đảng
và dân chúng, ai sẽ thắng ai trong các lập luận
này, không ai biết được, nhưng lư trí là
mệnh lệnh của thời đại để
cả hai cùng tuân thủ.Tiếp tục sử dụng
bạo lực để trấn áp người biểu
t́nh th́ Đảng sẽ không c̣n chính danh, làm cho t́nh
h́nh tệ hại hơn mà Liên Xô, Đông Âu và
khối Á Rập là bài học. Tinh
Thần Diên Hồng? Khi dân chúng ư thức rằng
Luật Đặc Khu là vấn đề mà dân chúng
đem lại giải pháp th́ tinh thần Diên Hồng
sẽ là một phương tiện và là cơ hội
để toàn dân tham gia. Sự đống thuận theo
tinh thần Diên Hồng cần được khơi
dậy. Nhận
chân các giá trị này và nỗ lực để
thực thi là vấn đề chọn lưạ hành
động của toàn dân. Tác động chuyển hoá
xă hội cho phép chúng ta lạc quan về tinh thần Diên
Hồng. Trang bị tinh thần Diên Hồng cho dân
tộc trong cơn nguy biến là một khởi điểm.
Nếu hồn thiêng sông núi c̣n hỗ trợ cùng
với các may mắn khác, một trang sử mới cho dân
tộc sẽ lật qua: Đảng sẽ bị bánh xe
lịch sử nghiền nát. TS.
Đỗ Kim Thêm |