LUẬT
QUỐC TẾ NÓI G̀ VỀ DỰ THẢO LUẬT
ĐẶC KHU ? GS.Lê Đ́nh Thông |
Quê hương tan nát Ngày
10/06/2018, nhiều cuộc biểu t́nh đă diễn ra
đồng loạt tại Hà Nội, Saigon, Hải Dương,
Nghệ An, Đà Nẵng, Nha Trang, B́nh Dương,
Mỹ Tho, B́nh Thuận chống lại dự thảo
luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Trước
làn sóng phẫn nộ của người dân, chỉ
một ngày sau (11/06/2018), 423 trên tổng số 432 đại
biểu quốc hội đă bỏ phiếu hoăn
biểu quyết đến tháng 10/2018, tránh cảnh
tức nước vỡ bờ, đưa đến
sự sụp đổ của chính quyền cộng
sản. Trong
bài sau đây, -
Phần I nhằm xét xem dự thảo luật
đặc khu có những quy định nào khiến toàn
dân phải phẫn nộ, chống đối ? - Phần II : đối tượng của dự thảo luật nhắm tới ‘‘nhà đầu tư chiến lược’’ là ‘‘bọn phản động bành trướng Bắc Kinh’’ theo chính ngôn từ của bộ Ngoại giao Hà Nội trong cuốn Bạch thư (nhà xb Sự Thật ấn hành ngày 04/10/1079). Trong phần II, ta thử đối chiếu một số điều ghi trong dự thảo luật với các quy định của công pháp quốc tế.
Người dân Sàig̣n xuống đường phản đối dự luật đặc khu kinh tế
I
- CÁC ĐIỀU KHOẢN BÁN NƯỚC : Dự
thảo luật (sau đây gọi tắt là dự
luật) đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc
(gọi tắt là đặc khu) gồm 6 chương 85
điều. Điều 58 quy định : -
đặc khu Vân Đồn trực thuộc tỉnh
Quảng Ninh; -
đặc khu Bắc Vân Phong trực thuộc tỉnh Khánh
Ḥa; -
đặc khu Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên
Giang. Ba
đặc khu ở ba miền đất nước
mở đường cho Bắc Kinh từng bước
thôn tính Bắc, Trung, Nam. Về mặt địa lư
chiến lược, việc thiết lập ba đặc
khu c̣n cho phép Bắc Kinh xâm nhập vùng lănh hải,
chiều rộng 12 hải lư của nước ta, theo
quy định của công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển, công bố ngày 10/12/1982. Sau
đây, ta sẽ lần lượt xét đến
một số quy định chính yếu của dự
luật. 1.1.
Từ ngữ :
Điều 3 của dự luật giải thích các
từ ngữ sau đây : -
Đơn
vị hành chính
- kinh tế đặc biệt (sau đây gọi là
đặc khu) là đơn vị hành chính thuộc
tỉnh, do Quốc hội quyết định thành
lập, có cơ chế, chính sách đặc biệt
về phát triển kinh tế - xă hội, có tổ
chức chính quyền địa phương và cơ
quan khác của Nhà nước tinh gọn, bảo đảm
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. -
Khu thương mại tự do
là khu chức năng thực hiện các hoạt động
kinh doanh, dịch vụ quy định tại Điều
29 của Luật này, có ranh giới ngăn cách
với bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm
điều kiện cho hoạt động kiểm tra, giám
sát, kiểm soát hải quan của cơ quan hải quan
và các cơ quan khác có liên quan đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện
vận tải xuất cảnh, nhập cảnh; quan
hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu thương
mại tự do với thị trường trong nước
là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu; được
áp dụng cơ chế, chính sách của khu phi thuế
quan và cơ chế, chính sách đặc biệt khác. - Nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư có năng lực tài chính, quản trị, có cam kết bằng văn bản về việc ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ sạch hoặc công nghệ cao; cam kết đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, gắn bó lợi ích lâu dài. 1.2.
Việc áp dụng pháp luật của Bắc Kinh
tại các đặc khu : Điều
6 cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài
(tức pháp luật của tập đoàn bá quyền
Bắc Kinh) tại các đặc khu.
1.3.
Về thời hạn 99 năm : Điều
32 quy định ‘‘thời hạn sử dụng đất
để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu
không quá 70 năm; trường hợp đặc
biệt, thời hạn sử dụng đất có
thể dài hơn nhưng không quá 99 năm’’.
1.4.
Các chế độ ưu đăi dành cho đặc
khu : Điều
41 ấn định chế độ ‘‘ưu đăi
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu’’. Theo
điều 50, ‘‘chính phủ quyết định các
chính sách đặc thù về tiền tệ, hoạt
động ngân hàng và ngoại hối áp dụng
tại từng đặc khu’’.
II
- Đối chiếu dự luật với các nguyên
tắc căn bản của công pháp quốc tế :
Đối
tượng của dự luật là ‘‘nhà đầu
tư chiến lược’’ duy nhất là Bắc
Kinh. Yếu tố nước ngoài cho phép đối
chiếu dự luật với một số nguyên
tắc căn bản của công pháp quốc tế. Trước
hết, ta xét đến nguồn gốc của dự
luật. 2.1.
Nguồn gốc dự luật : Dự
luật đặc khu được soạn thảo
theo mô h́nh ‘‘kinh
tế đặc khu’’
(經濟特區)
của
Bắc Kinh. Năm
1979, Bắc Kinh thiết lập bốn đặc khu kinh
tế tại các tỉnh Quảng Đông và Phúc
Kiến. Hiện nay, Bắc Kinh có tham vọng thực
hiện chủ nghĩa bá quyền thông qua lănh vực
kinh tế, tài chánh, áp đặt việc thiết
lập đặc khu kinh tế tại các nước lân
bang có mức độ tham nhũng cao, theo chỉ
số của Tổ chức Minh bạch Quốc tế
(Corruption Perceptions Index 2017): -
Việt Nam (35 điểm) ; -
và Pakistan (32 điểm). V́
vậy, Bắc Kinh dễ dàng mua chuộc các lănh đạo
đảng cầm quyền (đảng cộng sản)
và Nhà nước Việt Nam. 2.2.
Dự luật vi phạm nguyên tắc chủ quyền : Theo
định nghĩa, chủ quyền của một
quốc gia có nghĩa là Nhà nước không bị chi
phối bởi chính quyền nước ngoài. Trong
dự luật, bóng đen Bắc Kinh hoàn toàn che phủ
các quy định của dự luật, khiến Nhà nước
không c̣n khả năng hành sử quyền lợi
được luật pháp quốc tế công nhận
tại các đặc khu. Từ ngữ ‘‘Nhà nước’’,
tiếng Pháp là État (tiếng Anh : State) gốc la tinh
‘‘status’’ có nghĩa là đứng thẳng. Ngôn
ngữ của ta dịch là ‘‘Nhà nước’’
(viết hoa) là muốn nói đến định
chế này có chức năng bảo đảm đời
sống của người dân. Với dự luật
đặc khu, thử hỏi Nhà nước có c̣n đứng
thẳng, hay phải khom lưng trước thế
lực ngoại bang ? Điều
50 ấn định đặc khu có chính sách đặc
thù về tiền tệ. Quy
định này hoàn toàn đi ngược lại
chủ quyền quốc gia về tiền tệ
(souveraineté monétaire est un atribut propre à l’État). 2.3.
Về thời hạn 99 năm : Trong dự
luật, thời hạn 99 năm rập khuôn 99 năm mà
triều đ́nh nhà Thanh bán đứng Hồng Kông cho
đế quốc Anh, theo các quy định của
Hiệp ước Nam Kinh. Ngày 04/02/1861, Đế
quốc Anh tiếp nhận bán đảo Cửu Long,
đảo Ngang Thuyền. Ngày 09/06/1898, Tân Giới (les
Nouveaux Territoires) ở phía bắc bán đảo Cửu
Long và 230 đảo nhỏ được giao cho Anh
trong 99 năm. Quy định này đă hết hạn ngày
01/07/1997. Đế
quốc Anh có ưu thế về hàng hải, muốn
chiếm cứ Hồng Kông để khống chế toàn
bộ khu vực Hoa Nam, về chiến lược
lẫn kinh tế. Năm 1842, người Anh giương
cờ đế quốc trên đảo Hồng Kông.
Họ cần kho hàng chứa nha phiến sản xuất
ở Ấn Độ để bán cho thị trường
Tầu. Triều đ́nh nhà Thanh chống lại nên phát
động chiến tranh nha phiến lần I. V́ thua
trận nước Tầu phải nhưởng cho Anh
đảo Hồng Kông, diện tích 1110 km². Ngày
nay, Bắc Kinh muốn lập lại kịch bản này
trên đất nước ta. Ba đặc khu kinh tế
Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc mà đảng
cộng sản Việt Nam muốn mượn tay
Quốc hội giao cho nước Tầu thực
chất là ba tô giới (租界)[Tô : cho thuê - Giới :
giới hạn]. Hiệp
ước Nam Kinh quy định thời gian cho mướn
là 99 năm, giống như dự luật đặc khu
hiện nay, danh từ pháp luật gọi là cho mướn
dài hạn (enphytéose). Từ ngữ này do chữ hy
lạp ἐμφύτευσις có
nghĩa là xâm nhập. 2.4.
Tính cách lỗi thời của dự luật : Hiệp
nước Nam Kinh (1842) đưa đến việc giao
Hồng Kông cho đế quốc Anh cũng như ḥa
ước Thiên Tân (accord de Tienjin en 1884) và hiệp ước
Thiên Tân (traité de Tianjin - 1885) liên hệ đến nước
ta đều là ‘‘bất b́nh đẳng điều
ước’’ (不平等條約),
được kư kết 100 năm về trước,
trong bối cảnh cá lớn nuốt cá bé. Như
vậy, dự luật đặc khu giật lùi một
thế kỷ, thật đáng hổ thẹn ! 2.5.
Tại sao đặc khu đươc thiết lập dưới
hành thức đạo luật ? Tập
đoàn bá quyền Bắc Kinh cũng thừa biết
100 năm sau, cả hai đảng cộng sản
Tầu - Việt chỉ c̣n là thây ma nên chỉ thị
cho đảng cộng sản Việt Nam chuyển qua
Quốc hội biểu quyết luật đặc khu.
Theo hệ cấp quy phạm (hiérarchie des normes) do Hans
Kelsen thiết lập, hiến pháp đứng đầu
hệ cấp, tiếp đó là luật, hiệp ước,
sau mới đến sắc lệnh, nghị định,
thông tư. Bắc Kinh muốn các đặc khu của Tầu trên đất Việt được ban hành dưới h́nh thức đạo luật để ràng buộc Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng trong suốt 99 năm, mặc dù dù vật đổi sao dời, chế độ cộng sản sẽ sụp đổ. Kết
luận : Ngày
10/06/2018 vừa qua, 423 đại biểu quốc hội
trên tổng số 432 đă biểu quyếu hoăn
thảo luận và biểu quyết dự luật đặc
khu đến tháng 10/2018. Quyết định này
chỉ nhằm xoa dịu nhất thời sự bất
măn của người dân. Có 9 đại biểu không
biểu quyết. Với các nhận định trên
đây, dự luật không chỉ tŕ hoăn, mà các đại
biểu quốc hội phải nhận trách nhiệm trước
quốc dân và lịch sử, hủy bỏ hẳn
dự luật bán nước này. Trong thời gian vừa, dư luận trong nước đă mệnh danh lănh đạo đảng và Nhà nước nhắm mắt làm theo chỉ thị của Bắc Kinh là ‘‘tội đồ’’. Ta đừng quên : Vua là thuyền, dân là nước. Nước có thể chở thuyền, nước cũng có thể lật thuyền (Quân giả chu giă, thứ nhân giả thủy giă ; thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu : 君 者舟也, 庶人者水也 ; 水則載舟, 水則覆舟). Paris,
ngày 12/06/2018 GS.Lê
Đ́nh Thông |