Luật quốc tế: „Đem đại nghĩa thắng hung tàn“, bảo
vệ biển đảo Việt Nam Tạ
Văn Tài |
Vào
thời đại xa xưa, mà Đại Việt c̣n là
tiểu quốc đơn độc tại Đông Nam
Á trước đại cường phía Bắc,
sức mạnh quân sự thiên hẳn về cường
quốc phương Bắc, nhưng tinh thần dân
tộc kiên cường đă chiến thắng bọn
xâm lược: vua quan và nhân dân Nhà Trần đă
đại thắng, đẩy lui nhiều cuốc
tấn công của quân Nguyên, Lê Thái Tổ và các sĩ
phu giỏi như Nguyễn Trăi cùng quân sĩ đă trường
kỳ kháng chiến chống quân Minh, kết thúc
bằng Tuyên ngôn Độc lập vang dậy B́nh
Ngô đại cáo, “Đem đại nghĩa để
thắng hung tàn / Lấy chí nhân mà thay cường
bạo”. Việt
Nam cần sử dụng tối đa chính nghĩa
Luật Quốc tế để bảo vệ quyền
về biển đảo tại Biển Đông, y như
Tuyên ngôn B́nh Ngô đại cáo:
Áp dụng gương sáng và bài học lịch sử
đó cho sự bảo vệ chủ quyền biển
đảo hiện nay chống tham vọng Đại Hán
của Trung Quốc – tức là nếu vận dụng
sức mạnh chính nghĩa của luật pháp quốc
tế và do đó, sẽ có thêm sự ủng hộ
ngoại giao của thế giới, th́ Việt Nam ngày
nay, đang có nhiều cường quốc bạn trong
nền ngoại giao đa phương và Việt Nam cũng
từng là nước hội viên và Chủ tịch
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,
lại được tuyệt đại đa số
nhân dân trong nước và hải ngoại ủng
hộ việc cương nghị với Đại Hán
để bảo vệ chủ quyền biển đảo
– th́ chắc Việt Nam không thể bị thua
thiệt, bị Trung Quốc lấn át được,
cho dù Trung Quốc những năm gần đây cứ
thỉnh thoảng lại có hành vi hung hăn như đâm
vỡ ngư thuyền của dân chài Việt Nam,
bắt giam họ mà đ̣i tiền chuộc, đem
hạm đội tầu cá và hải giám của
họ ào ạt vào Biển Đông, đem giàn khoan vào
Thềm lục địa Việt Nam. Lănh đạo cao cấp có thể dùng ngôn
ngữ ngoại giao, lịch sự để cố duy
tŕ ḥa b́nh hữu nghị, nhưng phải để
cho các nhân viên ngoại giao cấp dưới và cố
vấn luật pháp dùng những lư luận cương
nghị nhất trong cuộc đấu tranh pháp
luật, mà trên diễn đàn quốc tế bây
giờ thường gọi là lawfare, như là khí
giới quan trọng ngang hàng với chuẩn bị
warfare/chiến tranh, nếu cần. V́ nếu có căn
bản pháp luật vững chắc cho lập trường
của ḿnh, th́ một quốc gia mới có thể t́m
được các sự ủng hộ về mặt chính
trị – ngoại giao của các nước bạn,
tức là có nhiều sức mạnh mềm (soft power)
để củng cố vị thế của ḿnh, trước
khi phải bất đắc dĩ dùng đến
sức mạnh quân sự trong việc tự vệ
đơn phương hay tập thể (defensive warfare,
collective defense), theo đúng Hiến chương Liên
Hiệp Quốc, đúng theo nguyên tắc exhaustion of
peaceful remedies (Tận dụng các biện pháp ḥa b́nh). Xin đề nghị một chương tŕnh hành
động để Việt Nam bảo vệ chủ
quyền đất đai (sovereignty on territories) của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi có
biến cố quan trọng là Phán quyết năm 2016
của Ṭa án Trọng tài Luật Biển trong vụ Phi
Luật Tân kiện Trung Quốc, tuy Bản án phần
lớn là đưa ra các kết luận về vùng
biển (maritime areas), hơn là về điểm nước
nào làm chủ vùng đất đai nào (sovereignty over
territories, tức đảo, đá). Trong những năm trước khi có
Bản án 2016 của Ṭa án Trọng tài Luật Biển
trong vụ Phi kiện Trung Quốc, th́ chúng tôi đă có
những nỗ lực giúp cho quyền và lợi ích
của Việt Nam trong những bài viết và phát
biểu cho các Hội thảo Quốc tế về
Biển Đông tại Việt Nam, ở
Quảng Ngăi 2013, ở Đà Nẵng 2014 (dịp Trung Quốc đem giàn khoan vô vùng
biển Việt Nam), ở
Nha Trang 2016, ở Harvard University nhiều lần, ở
University of California, Berkeley 2014 và ở Yale University
(phải nói, riêng Hội thảo chỗ này diễn ra năm
2017), và chúng tôi cũng có các dịp trả
lời cho phỏng vấn tại Truyền h́nh Việt
Nam VTV4 hay báo Quân đội Nhân dân hay Thời
báo Kinh tế Sài G̣n trong các dịp các Hội
thảo trên, hay trả lời phỏng vấn trên Radio
Free Asia, Radio France Internationale, Voice of America. Ngoài
ra, có hai lần Hội thảo Quốc tế về phân
định biên giới vùng biển và kỹ thuật
khoan dầu biển khơi tại Houston, năm 2010 và
2012, trong đó chúng tôi không đóng góp bài tham
luận, nhưng có đứng lên chất vấn đại
diện Sở Đại dương Trung Quốc và Công
ty China National Offshore Oil Corporation về những phát
biểu sai pháp luật quốc tế của họ. Trong các dịp dự các Hội thảo
Quốc tế hay trả lời phỏng vấn trên, chúng
tôi đă cố gắng tŕnh bày chi tiết, ít hay
nhiều tùy dịp, là chủ quyền lănh thổ
của Việt Nam tại phần lớn hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải là trên
tất cả các đá, băi ngầm) và các quyền
chủ quyền (sovereign rights, về tài nguyên) đi
liền với các vùng biển chung quanh chúng, mà
luật quốc tế dành cho Việt Nam, th́ được
xây trên các căn bản chắc chắn của các
chứng cớ sự kiện lịch sử và các nguyên
tắc của quốc tế công pháp truyền thống
và của luật quốc tế mới trong Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations
Convention on the Law of the Sea, UNCLOS). Ngoài các lời biện hộ cho Việt Nam
dựa trên căn bản các sự kiện lịch
sử và các luận cứ pháp luật, chúng tôi có
nhắc đến một sự kiện được
một luật sư lănh đạo đ̣an luật sư
của Phi Luật Tân tại Ṭa Luật Biển là ông
Francis Jardeleza, trong hai lần ông đến Harvard
thuyết tŕnh, có nói lại với tôi là Chính phủ
Phi Luật Tân, năm 2014, có rủ Việt Nam, và
Malaysia nữa, cùng nạp đơn kiện Trung
Quốc, sau khi Phi đă nghĩ kỹ về giải pháp
thương nghị để gỉảm thiểu
sự lấn lướt trong 17 năm của Trung
Quốc, mà Phi cố gắng măi không xong, nhưng
Việt Nam rút cục chỉ nạp một vài ư
kiến dự sự để yêu cầu Ṭa để
ư đến quyền lợi của Việt Nam. Rút
cục th́ Phi Luật Tân đă thắng vẻ vang
tại Ṭa Luật Biển năm 2016 mà Việt Nam th́
hụt mất một cơ hội để có một
Bản án về quyền lợi của ḿnh, trong đó
ḿnh đă tham gia với tư cách nguyên đơn. C̣n
nếu chỉ có một văn thư xin Ṭa để
ư cho ḿnh, th́ Việt Nam không có một Bản án
thắng Trung Quốc mà từ đó trở đi có
thể dán lên ngực đại diện Trung Quốc
mỗi khi phải đương đầu với
họ, với luật pháp quốc tế do ṭa phán
quyết, như một khí giới đại nghĩa
thắng được sự hung tàn. Luận cứ
luật pháp là sức mạnh của kẻ yếu
về quân sự, cần vận dụng tối đa,
ngoài sự vận dụng ngoại giao và ủng hộ
của các cường quốc mạnh về quân
sự. Chính cái thành ngữ tiếng Việt “đinh
đóng cột” mà tôi đă nói trên radio trong câu
“quyền lợi trong Vùng Đặc quyền Kinh
tế và Thềm lục địa của các nước
cận duyên như Việt Nam đă được
luật quốc tế minh định chắc chắn như
‘đinh đóng cột’”, đă được
một ông Trung Quốc trong đài Á Châu Tự Do
nhắc lại và nói là nghe tôi nói trong đài Á Châu
Tự Do và muốn hỏi lại tôi điều này,
điều kia về quan điểm về quyền
lợi Việt Nam. V́ những trải nghiệm trên, chúng tôi càng
có xác tín là cần phải xây dựng trên cái đà
chiến thắng của luật pháp quốc tế, tượng
trưng bởi Bản án 2016 của Ṭa Trọng tài
trong vụ Phi kiện Trung Quốc, mà suy ra Việt Nam có
thể dựa trên Bản án đó mà củng cố thêm
quyền lợi và thế đứng chính nghĩa
của ḿnh ra sao. Không thể có chỗ ở đây để
nhắc lại tất cả các chi tiết về các
luận cứ pháp lư, về chủ quyền đất
đai (sovereignty over land features) và quyền chủ
quyền trong các vùng biển (sovereign rights in the maritime
zones, EEZ và Continental Shelf), mà chúng tôi đă đua ra
trong các bài tham luận đóng góp cho các Hội
thảo Quốc tế suốt từ 2010 cho đến
2017. V́ thế ở thời điểm 2018 này, chỉ
xin đề nghị là chỉ xây đắp luận
cứ pháp lư cho Việt Nam dựa trên biến cố
trọng đại gần đây mà thôi, tức là
Bản án Ṭa Trọng tài 2016 trong vụ kiện Phi
chống Trung Quốc. Xin suy ra các hệ luận từ Bản án đó
trong vụ Phi kiện Trung Quốc cho vấn đề
chủ quyền đất đai của Việt Nam. Đây là làm một việc mà đạo đức
nghề nghiệp luật sư (code of professional ethics)
khuyến khích như một sứ mạng: cố kéo dài
luật pháp (extension of the law) để nhấn đến
mức tối đa lợi ích của của người
hay quốc gia ḿnh biện hộ. Ngay cả nước
ưa dọa dùng vơ lực và cũng đă dùng vơ
lực là Trung Quốc cũng phải đồng ư, dù
là đồng ư miễn cưỡng, với các nước
Đông Nam Á là nên biến các quy tắc ứng xử
nhiệm ư ở Biển Đông (Declaration of Conduct) thành
một Bộ luật Ứng xử (Code of Conduct),
với giá trị cưỡng hành để có chính nghĩa
của luật pháp có hiệu lực bó buộc. Bản án Trọng tài về việc Phi kiện
Trung Quốc ngày 12 tháng 7, 2016 của Ṭa án
Trọng tài Thường trực (Permanent Court of
Arbitration) là một Bản án tuyên phán về ư nghĩa
luật pháp và không có hiệu lực cưỡng hành
về mặt buộc một quốc gia phải hành
động ǵ đó, nhưng Bản án không kháng cáo
được mà là chung quyết và bó buộc các phe
đương tụng về mặt thẩm quyền xét
xử (compulsory jurisdiction) – dù Trung Quốc lờ Ṭa án
đi, mà chỉ làm một bài viết bên ngoài Ṭa án,
không xuất hiện mà nạp Ṭa. Nó là một
chiến thắng vẻ vang của Phi, mà các quốc gia
có t́nh trạng tương tự như Phi được
hưởng lợi về sự giải thích luật
của Bản án, và là một sự thất bại ê
chề của Trung Quốc trong tham vọng quá đáng xác
nhận bừa chủ quyền trên một khoảng
đại dương quá lớn trong Biển Nam Hải
(South China Sea), gọi là vùng Đường 9 đoạn
hay Đường lưỡi ḅ. Khi Ṭa bàn về các
vấn đề dưới ánh sáng của Công ước
Luật biển (United Nations Convention on the Law of the Sea –
UNCLOS) năm 1982, Bản án của Ṭa không xét đến
các lời yêu sách, xác nhận chủ quyền về
đất đai (territorial sovereignty) về đá (rocks)
và đảo (islands) có trong Hoàng Sa và Trường Sa, v́
chuyện chủ quyền đất đai thuộc lănh
vực của Luật Quốc tế Truyền thống
hay Tập tục (Traditional or Customary International Law) đă
có từ 4 thế kỷ. Nhưng Bản án có ảnh hưởng
gián tiếp tới việc định nghĩa đặc
tính của các mỏm đất (land features) đó. V́ thế, sau đây sẽ xin tŕnh bày ảnh hưởng
của Bản án đối với quyền lợi
của Việt Nam trong Biển Nam Hải, về các
mỏm đất trong Hoàng Sa và Trường Sa I.
Tóm lược nội dung Bản án Trọng tài mà
phần lớn nói về vùng biển Bản án ban cho Phi một chiến thắng pháp
lư rơ rệt, dựa trên các
quy tắc luật về vùng biển (maritime zones) trong UNCLOS: Trung
Quốc không thể dùng Đường chữ U (Lưỡi
ḅ) mà đ̣i chủ quyền lịch sử trên 80%
diện tích Nam Hải, phải từ bỏ sự
quấy phá như đă làm, mà phải tôn trọng
quyền chủ quyền (sovereign rights) chuyên độc
của Phi Luật Tân về tài nguyên cá, dầu khí, khoáng
sản trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive
Economic Zone) và Thềm lục địa (Continental Shelf)
của Phi, và không được làm hại tới
mức vô phương cứu chữa, như đă làm,
gây ra cho sự toàn vẹn của môi sinh đại dương.
Các điểm thắng lợi pháp lư này
của Phi cũng có lợi cho các quốc gia cận duyên
khác, như Việt Nam, mà họ không phải nạp
đơn trong một vụ kiện mới nào, v́
giải thích của Ṭa là áp dụng cho mọi quốc
gia trong UNCLOS. Chúng tôi đă viết bài nhận định
vế Bản án Ṭa Trọng tài cho Hội thảo
tại Nha Trang vào ngày 17 tháng 8, 2016, Hội thảo năm
2016 này là nỗ lực của Việt Nam tiếp tục
đẩy tiến thêm các kết quả của các
Hội thảo tại Quảng Ngăi năm 2013 và Đà
Nẵng năm 2014. V́ thế trước hết, xin ghi lại vài
đoạn của các tham luận cho hai Hội thảo
trước 2013 và 2014, để cùng thấy rơ là may
thay, các kết luận hay quan điểm đưa ra
trong các bài tham luận 2013 và 2014 đó, đă
được tuyên nhận trong Bản án Trọng tài
năm 2016 về vụ Phi kiện Trung Quốc: ‘China
cannot show any international law basis for this ridiculous claim [on
maritimes zones in the U-Line] and has been self-contradictory at
international conferences when providing various vague rationales for this
claim: “historical circumference”or “adjacent waters”. But such
sweeping and unfounded claims are clearly in violation of the other
Southeast Asian coastal states’ claims on their own territorial seas of 12
miles, their exclusive economic zones and their continental shelves of 200
miles width measuring from the base line. In these maritime zones, the
coastal states are protected in the exercise of their exclusive sovereign
rights under the 1982 UN Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), articles
56, 57, 76, and 77. These sovereign rights over natural resources are
exclusive to the coastal states, which they can enjoy without being required
to proclaim a claim to them, and they may construct artificial structures on
rocks, whether submerged or not, into artificial islands, and carry out sea
research, regulate protection of environment, provided that they respect the
rights of other states to freedom of navigation or to laying of oil
pipelines or cables. Other states than the coastal states cannot exploit
natural resources in the EEZ and Continental Shelf of the coastal states
without their explicit consent. UNCLOS has reserved these exclusive rights
to coastal states as firmly as ‘nail hit into a wooden pole’ (as we say
in the Vietnamese proverb: “chắc như đinh đóng
cột”). The U-shaped line, which claims vast ocean areas for China,
is unsupported by UNCLOS (article 89 says “No State may validly purport to
subject any part of the high sea to its sovereignty”)’. “Trung Quốc không
đưa ra được căn bản luật
quốc tế nào cho sự nhận vơ này [về
Đường 9 đoạn chữ U], mà c̣n mơ
hồ hay mâu thuẫn trong lúc biện giải tại các
hội nghị quốc tế, khi th́ nói đến “ṿng
cung lịch sử” (historical circumference), khi th́ nói đến
các “vùng biển lân cận” (adjacent waters) tính từ
các đảo/đá của Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng
các yêu sách quá đáng và vô căn cứ này trái
với quyền của các quốc gia cận duyên Đông
Nam Á (quanh Biển Đông) trong vùng lănh hải
(territorial sea) 12 hải lư và trong Vùng Đặc
quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) cũng như
ở Thềm lục địa (Continental Shelf, CS) tính
từ Đường cơ sở ra 200 hải lư. Các quyền chủ
quyền về tài nguyên, tài nguyên sinh vật như cá
sống trong vùng nước 200 hải lư đó, cũng
như tài nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng
chất dưới đáy biển, là các quyền chuyên
độc hay dành riêng (exclusive rights) của các quốc
gia cận duyên, mà họ được hưởng mà
không cần ra tuyên bố xác lập (UNCLOS, các điều
56, 57, 76, 77). Các quốc gia cận duyên có quyền xây các
kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên
mặt nước biển hay ngầm, thành các đảo
nhân tạo, thi hành nghiên cứu biển, qui định
việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn
trọng các quốc gia khác khi họ sử dụng
quyền tự do lưu thông hải hành (freedom of
navigation) hay đặt các ống dẫn dầu và cáp
ngầm. Các quốc gia khác đó không có quyền khai
thác tài nguyên thiên nhiên trong Vùng Đặc quyền Kinh
tế và thềm lục địa của các quốc
gia cận duyên, nếu không có sự ưng thuận
minh thị của các nước cận duyên. Thực là
UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước
cận duyên một cách chắc chắn như “đinh
đóng cột”. “Đường 9 đoạn” yêu
sách vùng biển rộng lớn cho Trung Quốc, là hoàn
toàn trái với UNCLOS (Điều 89 của UNCLOS nói “yêu
sách chủ quyền trên biển cả là vô giá
trị”). Sau sự phản đối
của Trung Quốc về thẩm quyền bó buộc
của Ṭa Trọng tài khi vụ kiện được
đệ nạp vào năm 2013 và về sự không công
nhận phán quyết chung kết về các vấn đề
nội dung vào tháng 7-8/2016, được nêu ra bởi
nhiều cấp bậc Chính quyền Trung Quốc,
từ Chủ tịch Tập, đến Ngoại trưởng,
và Người phát ngôn, th́ chính ra nước Tàu đă
có thái độ trầm lặng đối với
Bản án (vài học giả c̣n nói nên công nhận
một vài khía cạn của Bản án) và h́nh như
Trung Quốc không sẵn sàng thực thi các đe
dọa như xây cất thêm ở Vùng Băi cạn
Scarborough hay các đá ngầm khác, hay lập Vùng
Nhận dạng Pḥng không (Air Defense Identification Zone-ADIZ)
tại Biển Đông. H́nh như Trung Quốc thiên
về thương nghị, như chính Đại
sứ Trung Quốc ở Mỹ nói, và thiên về đấu
tranh pháp lư: không c̣n nói tới rút lui khỏi UNCLOS, Ṭa
án Tối cao Trung Quốc đưa ra một quyết
nghị chống lại Ṭa ở Hague, tức là Trung
Quốc thấy cuộc chiến tốt hơn là
cuộc đấu pháp lư (lawfare). Do đó, ta nên chú
trọng đến các luận cứ pháp lư trong chương
tŕnh sau đây cho Việt Nam, dù ta thấy có thể
phải có chiến lược khác nữa là các cường
quốc có hải quân mạnh, như Mỹ, có thể
giúp củng cố cho cuộc đấu pháp luật
với vài sự đe dọa vơ lực khả tín nào
đó, như đưa hàng không mẫu hạm tới
Biển Đông, gần các mẩu đất có tranh
chấp. II.
Ảnh hưởng của Bản án 2016 đối
với việc định nghĩa t́nh trạng pháp lư
của các mẩu đất ở Trường Sa và có
thể cả ở Hoàng Sa Bản án ngày 12 tháng 7,
2016 giải thích như sau về đặc tính của
các mẩu đất tại Trường Sa: tất
cả các mẩu đất đó th́ (a) hoặc là
đá (rocks) (tức là thực thể nổi trên
mặt nước lúc thủy triều lên cao, nhưng
không phải là đảo theo định nghĩa
của UNCLOS, tức là khi ở trong trạng thái thiên
nhiên nguyên thủy, nó có nước ngọt và động,
thực vật cho con người có thể sống trong
một nền kinh tế tự chủ), (b) hoặc là các
thực thể chỉ thấy nhô lên khi thủy
triều xuống hoặc là ch́m khi nước lên.
Đá th́ có lănh hải 12 hải lư bao quanh, nhưng các
thực thể ch́m hay chỉ thấy lúc nước
xuống th́ không có lănh hải đó. Đó là nguyên
tắc luật pháp: “đất ngự trị
biển”. Chắc hẳn định nghĩa pháp lư này
của Ṭa án cũng áp dụng cho các đá và đá
ch́m ở Hoàng Sa. Do đó chúng tôi đề nghị là
Việt Nam nên khởi động một vụ kiện
tại Ṭa Trọng tài, y như vụ Phi Luật Tân,
để xác lập t́nh trạng pháp lư của các
thực thể ở Hoàng Sa – mà Việt Nam vẫn tuyên
nhận chủ quyền, chống sự xâm lược
của Trung Quóc đă từ nhiều năm, trong đa
số các thực thể đó – đều là đá,
chứ không phải là đảo. Khi Ṭa tuyên bố là không
thực thể nào ở Trường Sa là có thể cho
con người cư ngụ được trong
trạng thái thiên nhiên, th́ hệ luận là không
thực thể nào là đảo theo định nghĩa
trong UNCLOS, mà có thể hưởng được Vùng
Kinh tế Đặc quyền (Exclusive Economic Zone, EEZ) có
bề rộng 200 hải lư. Lời giải thích, tuyên
nhận này của Ṭa có hậu quả là bác bỏ giá
trị pháp lư, thực ra không có, của luận cứ
Trung Quốc vẫn đưa ra để gây tranh
chấp: đ̣́ hỏi vô căn cứ pháp lư là có
một vùng Thềm lục địa hay Vùng Kinh tế
Đặc quyền rộng 200 hải lư tính từ
Đường cơ sở của các mỏm đá, mà
Trung Quốc tự định nghĩa là đảo. Trong hai Hội thảo
Quốc tế ở Quảng Ngăi, 2013 và Đà Nẵng,
2014, chúng tôi đă đưa ra trong các bài tham luận
cái đề nghị giống như tuyên phán năm
2016 của Ṭa Trọng tài, để tiến tới
một giải pháp trong đó gỉam được
tranh chấp do yêu sách đ̣i quá đáng một vùng
biển rộng hơn là 12 hải lư của lănh
hải (territorial sea): [For
Paracels] We can ask the Arbitral Tribunal of the Law of the Sea to use the
compulsory procedure to interpret and apply UNCLOS, (articles 186, 288) and
to issue a declaratory judgment to the effect that all land features in
Paracels, such as Tri Ton, or even Woody, do not satisfy the conditions for
qualification as islands in accordance with article 121 of UNCLOS. Islands
must, in their original state of nature, have adequate conditions for human
habitation and self-sustaining economy (such as soft water, food raised or
planted locally – if only coca-cola is available for drinking, as a
Malaysian scholar joked, then it is not island). If not island, then a land
feature can only be a reef or rock (article 121, section 3). If only a rock,
it has no exclusive economic zone or continental shelf, but only the 12-mile
territorial sea (article 121, section3). If island, the land feature would
then have territorial sea, contiguous zone, exclusive economic zone, and
continental shelf. In front of the Arbitral Tribunal of the Law of the Sea,
Vietnam can sue under the compulsory procedure to drag China into the
tribunal which would interpret and apply UNCLOS (articles 286, 288) and hear
Vietnam’s presentation of historical evidence of many centuries on the
necessity of Hoang Sa flottilla to bring soft water and food on its
expeditions to Hoang Sa, and then to withdraw back to the mainland for not
being able to live there all year round, in a self-sustaining economy.
Therefor, at the present moment, China cannot ask for the status of island
for any land feature in Paracels, despite its construction of artificial
structures thereon, or for any recognition of exclusive economic zone and
continental shelf emanating from any land feature in Paracels. [Về Hoàng Sa] Việt
Nam có thể xin Ṭa án Trọng tài Quốc tế về
Luật Biển, theo thẩm quyền bắt buộc
về giải thích và áp dụng UNCLOS (điều 186,
288), ra một Bản án tuyên nhận (declaratory judgment)
rằng tất cả các ḥn như Tri Tôn hay ngay cả
Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không hội đủ
điều kiện để là đảo theo định
nghĩa của Điều 121 của UNCLOS. Đảo
phải là nơi mà trong trạng thái thiên nhiên nguyên
thủy, có đủ điều kiện hỗ trợ
cho đời sống con người và một nền
kinh tế tự túc (như có nước ngọt,
thực phẩm nuôi và trồng tại chỗ –
nếu “chỉ có cocacola thay nước” như
một học giả Malaysia nói đùa, th́ không
phải là đảo); không đủ điều
kiện là đảo th́ chỉ có thể là đá
(reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu
là đá th́ không có Vùng Đặc quyền Kinh tế
và thềm lục địa ở chung quanh, mà chỉ có
lănh hải 12 hải lư (theo khoản 3, Điều 121).
C̣n nếu là đảo th́ có các vùng nước chung
quanh như lănh hải, vùng tiếp giáp lănh hải
(Contiguous Zone), Vùng Đặc quyền Kinh tế và
Thềm lục địa giống như lục địa
vậy. Trước Ṭa án Trọng tài Quốc tế
về Luật Biển, Việt Nam có thể theo thủ
tục bắt buộc (compulsory procedure) để kéo
Trung Quốc ra ṭa, mà yêu cầu ṭa dùng thẩm
quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286
và Điều 288), để Việt Nam tŕnh bày
được chứng cứ lịch sử của
nhiều thế kỷ về hoạt động của
đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi
ra quần đảo đều phải mang nước
ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không
sống quanh năm trong một nền kinh tế tự túc
được, và do đó, ngay bây giờ, Trung Quốc
cũng không đ̣i quy chế đảo cho Hoàng Sa
được, và cũng không đ̣i Vùng Đặc
quyền Kinh tế và Thềm lục địa 200
hải lư cho Hoàng Sa được. Và do đó, vào năm
2014, Giàn khoan HD-981 đă xâm phạm vào Vùng Đặc
quyền Kinh tế và Thềm lục địa của
Việt Nam. Chính
những người Trung Quốc làm việc tại Hoàng
Sa trong những năm gần đây cũng phải công
nhận là Hoàng Sa không đủ nước ngọt do
mưa cung cấp để con người có thể
sống (nước giếng th́ bị cứt chim làm
độc và do đó không uống được), mà
cũng không có đủ rau trái mà ăn, do đó
phải ăn đồ hộp mang từ đất
liền ra, và sau hết không có đất trồng
trọt. Do đó, mỗi tháng, phải tiếp tế
đồ ăn và nước uống từ lục
địa (http://www.shtong.gov.cn/…/node839…/userobject1ai121797.html.
(http://baike.baidu.com/view/28617.htm). Mở rộng chiến
thuật phản biện này sang các đá ở Trường
Sa, mà minh chứng tất cả các ḥn ở đó
đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước
khi xây các kiến trúc nhân tạo, th́ có thể
giảm thiểu nhiều sự tranh giành chủ
quyền của Trung Quốc trong vùng biển Trường
Sa, v́ dù Trung Quốc có chiếm vài đá và đá
ngầm, họ cũng không thể đ̣i ǵ rộng hơn
12 hải lư lănh hải quanh các đá đó (đá
ngầm cũng không tạo ra lănh hải, có xây trên
đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ
quốc gia cận duyên mới có quyền xây trên đá
ngầm – Điều 60 UNCLOS), không thể đ̣i Vùng
Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa
xuất phát từ các ḥn đá; và “Đường 9
đoạn” càng mất cơ sở là có ḥn đất
nào đó để bám vào. III.
Hệ luận của Bản án đối với
chủ quyền lănh thổ của Việt Nam ở hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Một khi đă mô
tả các đặc tính vật lư của các đá,
đá ngầm, hay đá nổi lên lúc thủy triều
xuống và định nghĩa t́nh trạng pháp lư
của các thực thể đất đai ở Hoàng
Sa và Trường Sa, ta c̣n phải giải quyết
vấn đề này, là quốc gia nào có chủ
quyền lănh thổ trên các thực thể đó.
Vấn đề chủ quyền lănh thổ của
Việt Nam trên các thực thể đất đai trong
hai quần đảo th́ do Luật Quốc tế
Cổ truyền hay Tục lệ quy định. Trong hai Hội thảo
Quốc tế trước đây, năm 2013 và 2014, chúng
tôi đă bàn về vấn đề này như sau: “Claims
of sovereignty over each land feature in the Paracels and Spratleys must be
based on the customary/traditional/ classical rule of international law of
the last 4 centuries on acquisition of territorial sovereignty over land: a
government wishing to establish a sovereignty claim over a land area has to
assert, after discovery or occupation, its intention to make such claim, and
to continue administering such area in peace, and if such land area is taken
over by another government through the use of force, it has to protest in
order to prevent the new authority to acquire sovereignty by prescription,
i.e. continuous and undisputed exercise of sovereignty. The
historical facts about Vietnam’s discovery and occupation of Paracels, and
also an unspecified number of land features in Spratleys, dated back to
centuries-old Vietnamese historical records, such as Phu Bien Tap Luc
(Fronties Chronicles) of Lê Quí Đôn, while Chinese historical
records did not mention Paracels or Spratleys but stopped at Hainan as the
southernmost boundary of China; among these Chinese records is the detailed
Kiangsi emperor map of 1717 compiled by the French Jesuits, a copy of which,
drawn by J.B.Bourguignon, was recently donated by German Chancellor Merkel
to Chinese President Xi Jin-ping. The Vietnamese historical records under
the emperors and under the French colonial rule show Vietnam’s repeated
assertions of sovereignty over and administration of both Paracels and
Spratleys (which were named Hoang Sa and Truong Sa). Western travelers’
and Christian missionaries’ writings also confirmed them. During
the existence of the two Vietnams from 1954 to 1975, the role of asserting
sovereignty over Paracels and Spratleys fell on the Republic of Vietnam –
RVN – which was entrusted with the administration of Paracels and
Spratleys, situated south of the partition line of 17th parallel, by the
1954 Geneva Accords, which was signed by a number of big powers, including
by China, and by the Democratic Republic of Vietnam represented by Prime
Minister Pham Van Dong himself. But
the most resounding assertion of Vietnam’s sovereignty over the Paracels
was the valiant sea battle the RVN navy fought on January 19, 1974 with
China’s navy which was sent to occupy Hoang Sa – for a long time
occupied and administered by Vietnam – after China’s announcing
sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa on January 12 and the RVN protested
on January 16 with a request for the United Nations Security Council to take
action, which request was repeated on January 20, for UN Security Council to
hold an emergency meeting. At the June 28, 1974 UN Conference on the Law of
the Sea in Caracas, the RVN repeated its claim of sovereignty over the
archipelagos and its protest against illegal occupation by China. On
September 24, 1975, at talks with a Vietnamese delegation on visit to China,
Vice-Premier Deng Xiao-ping admitted there was dispute between China and
Vietnam on the archipelagos and suggested discussion to settle the problem. Ever
since the unification of the two Vietnams into one, many times the successor
state of Socialist Republic of Vietnam has protested whenever there was an
encroachment by China, by presenting historical evidence on the sovereignty
of Vietnam over Paracels and many territories in Spratleys, in declarations
or white papers, in the years of 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988
(protesting China’s declared incorporation of the archipelagos into
Hainan), 1990, 1991, 1994 (protesting – not China’s territorial claim
– rather China’s signing agreement with Crestone permitting the latter
to survey in Vietnam’s continental shelf and exclusive economic zone),
2012 (protesting China’s overall plan for management of islands). There
was also action in defense of Vietnam’s sovereignty in 1988 when in
supplying the Vietnamese navymen standing in defense Vietnam-occupied Giac
Ma in the Spratleys, Vietnam suffered 64 casualties. All these words and
acts claiming and defending sovereignty make it impossible for China to
erode Vietnam’s sovereignty by prescription. During
the crisis of the oil rig HD-981, from May to July 2014, Vietnam brought to
the area surrounding the rig many fishery inspection vessels, the maritime
police or coast guard, to demand withdrawal of the oil rig, so as to
preserve sovereignty and sovereign rights. Vietnamese fishermen continued to
fish in the proximity, despite the harassment of the Chinese vessels,
keeping a safe distance to avoid armed clash, with the purposes of earning
their livelihood and asserting national sovereignty in a self-controlled
manner. This
maneuver to preserve Vietnamese sovereignty by words and deeds has kept
intact the claim of Vietnam over Paracels and Spratleys and avoided its
erosion”. Sự xác lập chủ
quyền đối với từng thực thể lănh
thổ trong Vùng Hoàng Sa và Trường Sa này phải
dựa vào quy tắc thủ đắc chủ quyền
lănh thổ của Luật Quốc tế Truyền
thống hay Thông lệ của 4 thế kỷ qua:
một chính quyền của một quốc gia muốn xác
lập chủ quyền trên một vùng đất đai
th́ phải tuyên bố ư định đó, sau khi khám
phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên
tục quản lư trong ḥa b́nh, và nếu bị một
chính quyền khác dùng vơ lực chiếm mất, th́
phải phản đối để không cho quyền
lực mới đó thủ đắc chủ quyền
bằng thời hạn tiêu diệt, nghĩa là có
một thời gian mà chủ thể quyền lực
mới thi hành chủ quyền liên tục mà không ai
phản đối. Các
bằng chứng về các sự kiện lịch sử
trong câu chuyện Việt Nam khám phá và chiếm ngụ
Hoàng Sa, và một số thực thể đất đai
ở Trường Sa, th́ đă được ghi trong các
tài liệu lịch sử Việt Nam có từ nhiều
thế kỷ, nhu cuốn Phủ biên tạp
lục của Lê Quí Đôn. Trong khi đó th́ tài
liệu lịch sử Trung Quốc không nói tới Hoàng
Sa và Trường Sa mà dừng lại ở Đảo
Hải Nam là vùng đất Cực Nam của Trung
Quốc; trong số tài liệu đó, phải kể
Bản đồ Chi tiết năm 1717 đời Vua
Khang Hy của Nhà Thanh, do các linh mục Ḍng Tên Pháp sưu
tập, mà một bản do J.B. Bourguignon vẽ đă
được Thủ tướng Đức Merkel
gần đây tặng Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận B́nh. Tài liệu lịch sử của
Việt Nam thời các vua chúa và thời Pháp thuộc
cho thấy Việt Nam liên tục xác lập chủ
quyền và quản lư Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách
viết bởi các du khách Phương Tây và các nhà
truyền đạo Thiên Chúa Giáo cũng xác nhận như
thế. Trong thời kỳ có hai
nước Việt Nam, từ 1954 đến 1975, th́ vai
tṛ khẳng định chủ quyền đối
với Hoàng Sa và Trường Sa rơi vào tay Việt
Nam Cộng ḥa, được trao nhiệm vự
quản lư Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ở phía nam
Vĩ tuyến 17, bởi Hiệp định Geneva 1954,
Hiệp định này do các cường quốc trong
đó có Trung Quốc, và Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa (do Thủ tướng P. V. Đồng đại
diện) kư. Nhưng sự khẳng
định mạnh mẽ nhất về chủ
quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa là trận
hải chiến can đảm mà các chiến sĩ
hải quân Việt Nam Cộng ḥa đă tiến hành ngày
19 tháng 1, năm 1974 chống lại hải quân Trung
Quốc được gửi tới chiếm Hoàng Sa
– từ lâu do Việt Nam chiếm đóng và quản
trị – trận này xảy ra sau khi Trung Quốc tuyên
bố chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa vào
ngày 12 tháng 1 và Việt Nam Cộng ḥa phản đối
ngày 16 tháng 1 với lời yêu cầu Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc can thiệp, lời yêu
cầu được nhắc lại ngày 20 tháng 1, mong
Hội đồng họp khẩn. Đến khi Hội
nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc
họp ở Caracas ngày 28 tháng 6, 1974, Việt Nam Cộng
ḥa nhắc lại lời xác lập chủ quyền
đối với hai quần đảo và lời
phản đối Trung Quốc xâm chiếm bất
hợp pháp. Ngày 24 tháng 9, 1975, khi một phái đoàn
Việt Nam qua Trung Quốc, Phó Thủ tướng Đặng
Tiểu B́nh công nhận là có tranh chấp giữa Trung
Quốc và Việt Nam về hai quần đảo và
khuyên hai bên thương thảo để giải
quyết vấn đề. Sau
khi thống nhất đất nước, CHXHCN Việt
Nam, kế quyền Việt Nam Cộng ḥa về các
quần đảo, đă nhiều lần phản đối
sự xâm chiếm của Trung Quốc. Liên tục
nhiều năm, Việt Nam đă phản đối và
đưa ra các chứng cứ lịch sử về
chủ quyền, trong lời tuyên bố hay các Bạch
thư (Sách trắng) vào các năm: 1978, 1979, 1980,
1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung Quốc tuyên
bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa vào đảo Hải Nam), 1990, 1991, 1994 (phản đối
Trung Quốc kư hợp đồng với hăng Crestone cho
phép thăm ḍ trong Thềm lục địa và Vùng Kinh
tế Đặc quyền của Việt Nam), 2012
(phản đối Trung Quốc đưa ra chương
tŕnh quản lư các đảo, trong đó có hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Việt Nam cũng
phải đổ máu bảo vệ chủ quyền
ở Gạc Ma năm 1988 khi đem đồ tiếp
tế đến cho các chiến sĩ bảo vệ ḥn
đá đó, mà Trung Quốc tàn sát 64 chiến sĩ
hải quân khi họ đang lội nước ngang lưng.
Trong vụ Giàn khoan HD-981 từ tháng 5/2014 đến tháng
7, Việt Nam đă đưa tàu kiểm ngư và tàu
cảnh sát biển tới vùng biển nơi HD-981 đang
hoạt động trái phép để bảo vệ
chủ quyền và yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan.
Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh cá
ở gần đó, mặc dù bị các tàu Trung
Quốc bao vây nhưng họ vẫn giữ một
khoảng cách an toàn, hầu tránh xung đột vơ trang,
vừa để mưu sinh, vừa để bảo
vệ chủ quyền với sự tự kiềm
chế, mặc dù Trung Quốc rất hung hăn, dùng vơ
lực, đâm tàu Việt Nam và dùng súng nước
tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối
và hành động bảo vệ chủ quyền của
Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong
vụ Giàn khoan HD-981 càng cho thấy chủ quyền
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn
được duy tŕ, không hề bị xói ṃn. Về các mỏm đá
nổi trên mặt nước khi thủy triều ở
mức cao, mà Việt Nam đă quản lư trong thời
gian lâu từ các năm 1975-76 theo Luật Quốc tế
Truyền thống, trước khi có Công ước
Luật biển 1982, dù rằng một số ở trong
Thềm lục địa hay Vùng Đặc quyền
Kinh tế của Phi Luật Tân, th́ Việt Nam có
thể xây trên các mỏm đá, vốn là vùng đất
nổi trên mặt nước trong trạng thái thiên nhiên
(chứ không ch́m dưới mặt nước), và t́nh
trạng pháp lư của chúng không có ǵ thay đổi, và
do đó, Việt Nam tiếp tục có chủ quyền lănh
thổ đối với các đá này theo Luật
Quốc tế Truyền thống – v́ Phi Luật Tân, nước
cận duyên gần nhất, theo UNCLOS, chỉ có
quyền chủ quyền về tài nguyên (sovereign rights)
trong Thềm lục địa và Vùng Kinh tế Đặc
quyền, chứ không có chủ quyền lănh thổ
(sovereignty over land territories) ở các vùng biển đó. Nhưng các thực
thể ch́m, hay chỉ nổi lên khi mức thủy
triều xuống thấp, th́ có t́nh trạng pháp lư khác:
Việt Nam, và cả Trung Quốc, không thể xây
cất các cấu trúc trên các thực thể đó
ở trong Thềm lục địa 200 hải lư
của Phi Luật Tân, v́ các thực thể đó là
một phần của đáy biển trong Thềm
lục địa của Phi trong đó Phi có quyền
chủ quyền về tài nguyên (nhưng Phi cũng không
có chủ quyền lănh thổ). Nhưng liệu có cái
biệt lệ nào cho nguyên tắc không có chủ
quyền lănh thổ của các quốc gia đối
với các đá ch́m, mà một vài quốc gia có
thể viện ra với lư do biệt lệ chủ
quyền đó là quyền thủ đắc (acquired
rights) trong quá khứ? Thí dụ: liệu Việt Nam có
thể lư luận hay không như sau: Các thực thể
ngầm mà Việt Nam đă chiếm ngụ từ các năm
trước khi có UNCLOS, 1982, và quản lư liên tục và
xây cất thêm cho chúng nổi trên mặt nước, mà
không ch́m nữa, từ các năm xa xưa đó cho
đến năm có UNCLOS 1982, th́ các thực thể
đó có thể coi là lănh thổ thuộc chủ
quyền của Việt Nam, chiếu theo Luật Quốc
tế Cổ truyền, hay không? v́ UNCLOS không thể áp
dụng hồi tố cho các quyền và t́nh trạng
đă thủ đắc của Việt Nam? Các lănh
thổ nổi trên mặt nước đó của
Việt Nam, có trước 1982, phải chăng phải
có lănh hải 12 hải lư? Vấn đề sau chót
là Vùng Nhận dạng Pḥng không ADIZ. Quốc gia nào không
có chủ quyền lănh thổ trong một vùng đất
nào đó, dù là đá, th́ không có quyền pháp lư
lập vùng ADIZ (Air Defense Identification Zone) ở trên cái vùng
đất đó, theo Luật Liên Hiệp Quốc. Đó
là lập luận mà các nước Đông Nam Á hay các
quốc gia khác có thể đưa ra chống lại
lời yêu sách cuả Trung Quốc đ̣i quyền
lập ADIZ trong vùng Trường Sa. IV.
Kết luận Hậu quả thực
tế của Bản án Trọng tài có thể là Trung
Quốc và các nước khác không có làm ǵ để
thay đội nguyên trạng, như rút lui khỏi các
mẩu đất đá họ đă chiếm ngụ
hay chiếm thêm các thực thể khác, và cùng lắm là
củng cố những ǵ họ đă chiếm bằng
cách củng cố các cấu trúc trên đó. Trung
Quốc không c̣n nhắc đên chủ quyền dựa
trên Đường chữ U, và đang cần một
thời gian để lấy lại thể diện, và
h́nh như chỉ đặt hy vọng vào kế
họach khác, là khi củng cố các thực thể
đá họ đă chiếm, th́ sẽ biến chúng thành
đảo có 12 hải lư lănh hải và có thể có
200 hải lư Vùng Đặc quyền Kinh tế. Hy
vọng này cũng không có căn bản theo UNCLOS, v́
phải là đảo trong trạng thái thiên nhiên nguyên
thủy mới có vùng Thềm lục địa và
Đặc quyền Kinh tế 200 hải lư. V́ thế các
nước khác cũng chẳng cần làm ǵ quá, mà làm
mất mặt dân chúng Trung Quốc mà họ đang
bị lănh đạo khích động với chủ nghĩa
quốc gia quá khích. Việc khuyến cáo chuẩn
bị một vụ kiện của Việt Nam để
xác lập tính cách đá, không phải là đảo,
của các thực thể ở Hoàng Sa và Trường
Sa, là cốt giảm căng thẳng, căng thẳng
bắt nguồn từ khuynh hướng tham lam quá
mức, trái luật quốc tế, về Thềm
lục địa và Vùng Đặc quyền Kinh tế,
và về các hệ luận về quyền khai thác tài
nguyên cá, dầu khí, và khoáng sản cho mọi dân
tộc quanh Biển Đông; và do đó Việt Nam có
thể cắt nghĩa cho cộng đồng quốc
tế là Việt Nam muốn đóng góp vào ḥa b́nh trong
khu vực Biển Đông. Phải
công nhận đă từ rất lâu, có lẽ từ
1988 khi chiếm Gạc Ma, Trung Quốc không chiếm thêm
thực thể đá đất nào mới. Về phía
các quốc gia khác có quyền lợi chống bá
quyền Trung Quốc, th́ trong hơn một năm nay,
2017-2018, Hoa Kỳ đă thực hiện, cùng với
một số nước đồng minh như Anh, Úc, các
vụ hải hành xác nhận tự do hàng hải
(Freedom of navigation operations – FONOPS) đi sát vào các
mỏm đá ở Trường Sa và Hoàng Sa. Ngay cả
Pháp và Nhật cũng biểu lộ quyết tâm
bảo vệ an ninh và quyền tự do hàng hải
tại Biển Đông và sẵn sàng can thiệp chung
khi t́nh thế đ̣i hỏi (Theo tin Nikkei trước
khi lên đường sang Tokyo ngày 26/01/2018, Bộ trưởng
Florence Parly của Pháp cho rằng Pháp-Nhật cần
biểu lộ quyết tâm bảo vệ an ninh và
quyền tự do hàng hải tại Biển Đông và
sẵn sàng can thiệp chung khi t́nh thế đ̣i
hỏi. Lên án chiến lược của Trung Quốc
đặt quốc tế trước “chuyện đă
rồi”, nữ Bộ trưởng Pháp cảnh cáo: Không
phải cứ cắm cờ ở nơi nào đó, th́
nơi đó đổi chủ). Nhưng ta vẫn thấy
có vài vụ Trung Quốc tiếp tục củng cố
các cấu trúc trên vài thực thể đá đă
chiếm, mà không gặp sự phản ứng thực
tế nào như Bộ trưởng Ngoại giao Tillerson
và Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Mathis đă
dọa, và Trung Quốc dùng đ̣n chiến tranh tâm lư
chống Viêt Nam như yêu cầu hăng dầu REPSOL
của Tây Ban Nha ngưng dùng giàn khoan để khai thác
lô dầu 136/03 (ngưng vào giữa năm 2017) và lô
07/03 (ngưng vào tháng 3/2018) trong Thềm lục địa
của Việt Nam. Muốn Trung Quốc nể v́,
cần tránh dùng các hăng của nước nhỏ như
Tây Ban Nha, mà cần bám chặt các hăng dầu của
Mỹ, Ấn, Nhật, Úc, v́ đằng sau các hăng
dầu khí đó là có các cường quốc ngáo
ộp đó, để gián chỉ – deter – Trung
Quốc (Làm sao Tàu dám vượt mặt hải quân
Mỹ mà phá giàn khoan có Mỹ đầu tư?). Về việc bảo
vệ dân chài Việt Nam, Hội Nghề Cá cũng
phản đối và yêu cầu hải giám giúp đỡ
hành nghề cá. Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm
22/03/2018 đă tuyên bố bác bỏ lệnh cấm
đánh cá trên Biển Đông mà Trung Quốc lại
đơn phương ban hành, cho rằng quyết định
đó vi phạm luật pháp quốc tế. T.V.T. |