Người ra Biển Bắc Trần Đỗ Cẩm |
I.
Phần Mở Đầu Cuộc
chiến tranh tại Việt Nam giữa hai khối
Quốc Gia và Cộng Sản diễn ra dưới
nhiều h́nh thái trong đó đôi bên t́m đủ
mọi cách để chiếm lợi thế và loại
đối thủ ra ngoài ṿng chiến. Nhiều sách báo
và phim ảnh đă phân tích tỉ mỉ và tường
thuật rất rơ ràng về những trận đánh
nổi tiếng như Tết Mậu Thân, Hạ Lào,
Quảng Trị, Kontum, An Lộc v.v... trong đó quân
số đôi bên tham chiến lên tới nhiều sư
đoàn. Tuy nhiên, ngoài mặt “nổi” hay chiến
tranh qui ước nêu trên được nhiều người
biết đến, c̣n có mặt “ch́m” hay chiến
tranh đặc biệt ít được phổ
biến. Nói
tới chiến tranh đặc biệt, ngay kẻ trong
cuộc cũng chỉ biết được phần
nhiệm của ḿnh, c̣n người bên ngoài lại càng
không rơ, ngoài cái tên Lực Lượng Đặc
Biệt (LLĐB). Nh́n chung, LLĐB gồm nhiều quân
binh chủng thuộc QLVNCH, đôi khi có cả dân
sự, có nhiệm vụ xâm nhập hậu phương
hay vùng địch kiểm soát bằng những toán
nhỏ để thu thập tin tức t́nh báo, phá
hoại, bắt cóc hay tuyên truyền. V́ những
cuộc hành quân “trong bóng tối” này rất nguy
hiểm nên đại đa số nhân viên thuộc LLĐB
đều là người t́nh nguyện. Chúng ta thường
nghe nhắc đến những toán Lôi Hổ, Delta,
Biệt Cách Dù v.v... thuộc Bộ Binh hoặc Phi Đoàn
219 của Không Quân, c̣n riêng về Hải Quân, ngoài
lực lượng Biệt Hải, phần c̣n lại
vẫn c̣n bao trùm trong màn bí mật. Trong
mỗi cuộc hành quân đặc biệt xâm nhập
hậu tuyến địch, nhất là tại những
vùng “ngoại biên” (ngoài lănh thổ VNCH) như
Bắc Việt, Lào, Cam Bốt, lực lượng tham
dự thường chia làm hai thành phần: toán hành
động, thường được gọi tắt
là “toán” (team) có nhiệm vụ “đổ bộ”
để thi hành công tác được trao phó và toán
yểm trợ chịu trách nhiệm chuyên chở, đổ
và bốc toán hành động cũng như yểm
trợ hỏa lực khi cần. Các toán Bộ Binh v́ không
có phương tiện chuyên chở và yểm trợ cơ
hữu như phi cơ hay tầu bè và nên chỉ có
thể đảm nhiệm công tác hành động. Ngược
lại, Không Quân v́ không có toán hành động riêng nên
chỉ có thể thi hành công tác chuyên chở và yểm
trợ. Riêng Hải Quân là quân chủng duy nhất có
thể tự đảm trách những cuộc hành quân
đặc biệt v́ trong tổ chức đă có đủ
hai thành phần quan yếu nói trên. Ngoài
ra, trong khi những cuộc hành quân đặc biệt
do Phi Đoàn 219 và các toán Lôi Hổ, Delta v.v... chịu
trách nhiệm phần lớn chỉ xảy ra trong lănh
thổ Việt Nam, Lào hay Cam Bốt, c̣n các vụ xâm
nhập lănh thổ Bắc Việt về sau này hầu
như hoàn toàn do Hải Quân VNCH tự đảm trách
bằng những đơn vị cơ hữu. Thành
phần hành động của Hải Quân là Lực Lượng
Biệt Hải, c̣n đơn vị yểm trợ và
chuyên chở được gọi là Lực Lượng
Hải Tuần (LLHT). Về phương diện hành quân,
LLHT là đơn vị duy nhất thuộc LLĐB có
thể tự thi hành một số công tác đặc
biệt tại Bắc Việt như pháo kích các
mục tiêu trên bờ, bắt giữ các ngư phủ
để khai thác tin tức t́nh báo, thả truyền
đơn v.v... mà không cần sự trợ giúp của
các lực lượng khác. Cả hai Lực Lượng
Hải Tuần và Biệt Hải nằm dưới
quyền chỉ huy của Sở Pḥng Vệ Duyên
Hải (SPVZH). Trước
khi t́m hiểu thêm về mặt tổ chức cũng
như những hoạt động của SPVZH, tưởng
cũng nên minh xác đôi điều để tránh
mọi hiểu lầm đáng tiếc. Bài viết này căn
cứ phần lớn vào những điều chúng tôi
biết và c̣n nhớ qua 5 năm liên tiếp đảm
nhiệm chức vụ Hạm Phó cũng như Hạm
Trưởng nhiều khinh tốc đĩnh (PTF - Patrol
Torpedo Fast) thuộc LLHT và đă tham dự trên 100
chuyến công tác đủ loại tại hải
phận Bắc Việt từ năm 1965 đến 1970.
Một số biến cố xảy ra trước và sau
khoảng thời gian này chúng tôi chỉ được
nghe kể lại hoặc thâu thập được
trong những cuộc phỏng vấn những người
trong cuộc mới đây. V́ vậy, dù cố gắng
tŕnh bày sự thật khách quan, nhưng thời gian
thế nào cũng làm trí nhớ mai một phần nào,
nên không sao tránh khỏi sai sót, mong những vị
“biết chuyện”, nhất là các bạn đồng
đội cũ vui ḷng đóng góp ư kiến và bổ
khuyết để trang Hải Sử về LLHT
được thêm phần trung thực. Chúng tôi cũng
minh xác chỉ muốn tŕnh bày sự thật, không
hề có ư phê b́nh hoặc chỉ trích bất cứ
ai, đặc biệt với những người chúng
tôi hằng mến mộ và kính phục là các tác
giả Việt - Mỹ đă bỏ công lao nghiên
cứu, sưu tầm tài liệu và viết về SPVZH
và LLHT. Trân trọng cám ơn. V́
SPVZH là một đơn vị thuộc LLĐB, tưởng
cũng nên duyệt qua phần nhân sự cũng như
tổ chức của lực lượng này để
việc theo dơi được mạch lạc và dễ
hiểu hơn. Ngay
sau khi hiệp định đ́nh chiến Genève phân chia
hai miền Nam - Bắc Việt Nam vừa được
kư kết vào năm 1954, Giám Đốc Trung Ương
T́nh Báo Hoa Kỳ (CIA) là ông Allen Dulles đă chỉ
thị Đại Tá Không Quân Edward Lansdale sang Việt
Nam để hỗ trợ Thủ Tướng Ngô Đ́nh
Diệm củng cố Miền Nam cũng như tổ
chức những cơ sở bán quân sự nằm vùng
tại Bắc Việt trước khi Cộng Sản
(CS) kiểm soát. Đại Tá Lansdale lúc đó đang
đảm nhiệm chức vụ Phó Giám Đốc Pḥng
Hành Quân Đặc Biệt thuộc Bộ Quốc Pḥng
do Thiếu Tướng Graves Erskine làm Giám Đốc.
Sở trường của ông là điều hành
những hoạt động phản du kích “mật”
trong bóng tối, trước đây đă giúp Tổng
Thống Phi Luật Tân Magsaysay của Phi Luật Tân thành
công trong việc tiêu diệt loạn quân CS Huk trong
khoảng giữa thập niên 1950. Tổ chức của
Đại Tá Lansdale tại Việt Nam được
gọi là Phái Bộ Quân Sự Sài G̣n (Saigon Military
Mission), trong đó c̣n có một chuyên viên điệp báo
là Thiếu Tá Bộ Binh Lucien Conein, người sau này
nắm giữ một vai tṛ rất quan trọng trong
những cuộc chính biến dưới thời Đệ
Nhất Cộng Ḥa. Ngay
trước khi miền Bắc được trao cho CS,
nhiều nhân viên dân sự người Việt do Đại
Tá Lansdale tuyển mộ, đa số thuộc sắc
tộc Nùng sinh trưởng tại vùng Móng Cái gần
Hải Pḥng và biên giới Hoa - Việt, đă
được gửi sang đảo Saipan để
huấn luyện về kỹ thuật xâm nhập,
nằm vùng và phá hoại. Khi Việt Nam chính thức
bị chia đôi, họ đă được huấn
luyện thuần thục và chia thành từng toán
nhỏ, sau đó được các chiến hạm Hoa
Kỳ thuộc Đệ Thất Hạm Đội
đổ bộ vào khu vực bờ biển gần nguyên
quán. Những nhân viên này được lệnh trà
trộn với thân nhân, “nằm yên” không hoạt
động ǵ cả cho tới khi nhận được
chỉ thị. Vũ khí, máy truyền tin và vàng đă
được dấu sẵn trước tại
những địa điểm bí mật để pḥng
khi cần tới. Một trong những “điệp viên
ch́m” trong thời gian này là Phạm Xuân Ẩn, nhưng
Đại tá Lansdale không biết hắn là một tên
VC nằm vùng được cài vào tổ chức
của ḿnh. Về
phần Nam Việt Nam, sau khi t́nh h́nh tương đối
ổn định, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
cũng tổ chức riêng những cơ quan t́nh báo
đặc biệt trực thuộc Phủ Tổng
Thống do Bác Sĩ Trần Kim Tuyến người
Huế đứng đầu. Một trong những
bộ phận dưới quyền Bác Sĩ Tuyến,
chuyên đảm nhiệm các hoạt động
Biệt Kích là Sở Liên Lạc do Đại Tá Lê
Quang Tung chỉ huy, Đại Tá Trần Khắc Kinh
phụ tá. Người lo việc tuyển mộ nhân viên
cho Sở Liên Lạc là Đại Úy Lê Quang Triệu,
em ruột của Đại Tá Lê Quang Tung, lúc đó c̣n
đảm nhiệm chức vụ Đại Đội
Trưởng Đại Đội Liên Binh Pḥng Vệ
Tổng Thống Phủ. Ngoài ra, ông Cố Vấn Ngô
Đ́nh Cẩn cũng có những tổ chức điệp
báo riêng biệt tại Miền Trung. Sở
Liên Lạc chia thành 3 bộ phận chính, đó là
Sở Bắc, Sở Nam và Liên Đội Quan Sát. 1.
Sở Bắc
Sở
Bắc c̣n được gọi là Pḥng 45 do Đại
Úy Bộ Binh Ngô Thế Linh (sau này được thăng
đến cấp Đại Tá), bí danh là “B́nh”
điều khiển. Tuy được mệnh danh là
Sở Bắc nhưng cơ quan này không những chỉ
đảm nhiệm các hoạt động Biệt Kich
ở Bắc Việt, mà c̣n tổ chức những
cuộc hành quân mật trên đất Lào và Cam
Bốt. Tóm lại, Sở Bắc chịu trách nhiệm
về những hoạt động Biệt Kích bên ngoài
lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. 2.
Sở Nam Sở
Nam hay Pḥng 55 do Đại Úy Bộ Binh Trần Văn
Minh chỉ huy, chịu trách nhiệm về những
hoạt động Biệt Kích trong lănh thổ VNCH. 3.
Liên Đội 1 Quan Sát Ngoài
hai Sở Nam và Bắc, Sở Liên Lạc c̣n có một
cơ cấu đặc biệt ít người biết
đến, đó là Liên Đội Quan Sát 1 được
thành lập vào năm 1956 với sự trợ giúp
của Ngũ Giác Đài và CIA Hoa Kỳ. Bề
ngoài, Liên Đội chỉ là một tổ chức thông
thường với một số nhân viên trực
thuộc về mặt hành chánh, nhưng mọi công tác
đều do Sở Liên Lạc điều động.
Những nhân viên của Liên Đội được
đặc biệt huấn luyện để thi hành các
công tác “nằm vùng” ngay tại Miền Nam trong trường
hợp nơi này bị rơi vào tay CS sau cuộc
Tổng Tuyển Cử theo tinh thần hiệp định
Genève. Măi cho tới năm 1958 dù cuộc tuyển
cử đă bị hủy bỏ, các toán công tác
thuộc Liên Đội vẫn c̣n thực hiện
những vụ chôn giấu vũ khí, chất nổ, máy
truyền tin, vàng v.v... để chuẩn bị cho
những công tác “nằm vùng” khi cần. III.
Các Đường Xâm Nhập Tới
năm 1958, khi t́nh h́nh miền Nam đă tương
đối ổn định, Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm mới chính thức yêu cầu Hoa Kỳ trợ
giúp để thực hiện những hoạt động
Biệt Kích tại Bắc Việt. V́ vậy, khi ông Ẃlliams
Colby thuộc CIA được cử đến Sài G̣n
vào ngày 1 tháng giêng năm 1959 để sắp đặt
các cơ sở cần thiết, những hoạt động
Biệt Kích phối hợp giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam mới được chính thức bắt đầu.
Nh́n chung các hoạt động xâm nhập Miền
Bắc gồm 2 ngả chính là đường hàng không
và đường biển. 1.
Xâm Nhập Bằng Đường Hàng Không Về
đường hàng không, thoạt tiên, CIA mướn
một số phi công thuộc công ty Hàng Không Trung Hoa
(China Air Lines - CAL) ở Đài Bắc để huấn
luyện những phi công Việt Nam. Sau này, Phi Đoàn
Vận Tải của Không Quân Việt Nam do Trung Tá
Nguyễn Cao Kỳ làm Phi Đoàn Trưởng kiêm luôn
những chuyến bay thả dù đặc biệt ngoài
Bắc. Chuyến
bay đầu tiên được thực hiện vào ngày
27 tháng 5 năm 1961 do chính Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ là
phi công chính của chiếc phi cơ C-47. Bốn nhân viên
của toán Caster được thả dù xuống
một vùng rừng núi thuộc tỉnh Sơn La. Họ
đều là người Nùng gốc Sơn La, nguyên là
quân nhân thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh, một
đơn vị có đa số quân nhân thuộc
gốc người thiểu số miền Bắc di
chuyển vào miền Nam. Toán Caster được đặt
dưới quyền điều động của
Sở Khai Thác Địa H́nh thuộc Pḥng 45 tức là
Sở Bắc. Trưởng toán Caster tên là Hà Văn
Chấp. Sau khi hoàn tất công tác thả toán, phi cơ
của Trung Tá Kỳ rời khỏi Bắc Việt an toàn
bằng ngả không phận Lào. 2.
Xâm Nhập Bằng Đường Biển Các
hoạt động xâm nhập Bắc Việt bằng
đường biển đă được khởi
sự rất sớm, chỉ vài năm sau khi chia đôi
đất nước. Những vụ xâm nhập
bắt đầu vào năm 1956 khi Sở Liên Lạc
cần một số ghe gỗ để chở nhân viên
tăng cường cũng như tiếp tế vật
liệu cho những toán “nằm vùng” ngoài Bắc
bằng đường biển. Lúc
đầu, chỉ có 6 nhân viên dân sự nguyên quán
tỉnh Quảng B́nh di cư được tuyển
mộ tại Nha Trang để gia nhập lực lượng
“biển” mới được thành lập này. Công
tác bao gồm những chuyến đi ngắn chừng
một vài ngày xâm nhập hải phận miền
Bắc bằng những ghe nhỏ giống như ghe
đánh cá ngoài Bắc để dễ trà trộn. Sau
đó, v́ nhu cầu công tác ngày một gia tăng,
lực lượng xâm nhập “biển” tuyển
mộ thêm nhiều nhân viên và trang bị thêm ghe
lớn hơn. Lực lượng gồm toàn nhân viên dân
sự này là một thành phần của Sở Bắc dưới
quyền điều động của “ông B́nh”, có
thể được coi là tiền thân của SPVZH và
LLHT sau này. Tuy
những chuyến tiếp tế và liên lạc bằng
đường biển vẫn tiếp tục, nhưng
măi đến tháng 2 năm 1961, cơ quan mật vụ
của Bác Sĩ Trần Quang Tuyến với sự
trợ giúp cùa CIA Hoa Kỳ mới cho đổ bộ 2
điệp viên thực sự lên bờ biển
Quảng Yên. Hai điệp viên này, một người
gốc miền Nam, người thứ hai gốc
miền Bắc tên là Phạm Chuyên lên bờ an toàn.
Chuyên nguyên là một cán bộ trung cấp VC hồi chánh
bằng cách vượt vĩ tuyến 17 vào năm 1959.
Bí danh hoạt động của Chuyên là Ares. Sau này, có
bằng cớ cho thấy Ares là một điệp viên
nhị trùng. 3.
Ghe Nautilus Sau
cuộc đổ bộ điệp viên này, các ghe dùng
để xâm nhập hải phận Miền Bắc
đều được đặt bí danh “Nautilus”,
lấy tên chiếc Tiềm Thủy Đĩnh bí
mật của Hạm Trường Nemo trong cuốn
truyện khoa học già tưởng “20,000 Dậm Dưới
Đáy Biển” của văn hào Jules Verne. Các
chuyến công tác cũng được gọi là
Nautilus. Trong giai đoạn này, các chuyến xâm nhập
bằng đường biển đều thành công tương
đối dễ dàng. Đến
lúc này, các công tác Nautilus đều do CIA điều hành.
Thủy thủ đoàn Nautilus vẫn hoàn toàn là các nhân
viên dân sự do CIA tuyển mộ, nhưng cũng đă
có một số người nhái thuộc Hải Quân
Việt Nam được CIA đặc biệt huấn
luyện để thi hành những công tác phá hoại
bằng chất nổ. Những người nhái này
đa số thuộc toán 18 quân nhân được
gửi đi thụ huấn khóa huấn luyện đặc
biệt tại Đài Loan vào tháng 8 năm 1960. IV.
Thay Đổi Hệ Thống Chỉ Huy Ban
đầu, một số công tác Nautilus xâm nhập
bằng đường biển đạt được
kết quả khả quan v́ địch chưa kịp
đề pḥng cũng như ứng phó. Nhưng càng
về sau, hiệu năng càng giảm sút v́ địch
gia tăng lực lượng duyên pḥng cũng như
bị phản nên nhiều chuyến công tác bằng ghe
đă thất bại v́ bị lộ. Việc
dùng ghe chỉ được lợi điểm có
thể trà trộn với các thuyền đánh cá địa
phương, nhưng nhờ khai thác tin tức từ các
thủy thủ đoàn bị bắt, địch đă
biết khá rành rẽ về đường đi nước
bước của các chuyến xâm nhập nên cũng
khó ḷng lẩn tránh. Hơn nữa, các ghe Nautilus đều
có vận tốc chậm và hỏa lực yếu nên không
thể tự vệ khi bị phát hiện và săn
đuổi. V́
những lư do trên, Đô Đốc Harry G. Felt, Tư
Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương
(CINPAC - Commander In Chief, Pacific) cho rằng những tổ
chức mật vụ của CIA không đủ khả năng
để hoàn thành sứ mạng xâm nhập. Ông đề
nghị dùng các phương tiện của Hải Quân
Hoa Kỳ, trong đó có cả việc dùng tiềm
thủy đĩnh thay thế cho các ghe Nautilus. Vào
khoảng tháng 7-62, Tổng Trưởng Quốc Pḥng
McNamara triệu tập một buổi họp giữa
Bộ Quốc Pḥng, Bộ Ngoại Giao và CIA để
t́m giải pháp. Mọi người đồng ư
chuyển giao phần điều hành các hoạt động
biệt kích xâm nhập Bắc Việt từ CIA qua
Bộ Quốc Pḥng. Việc chuyển giao sẽ
được hoàn tất trong ṿng một năm dưới
kế hoạch mang bí danh Switchback. Tới tháng 12 năm
1962, Toán Đặc Biệt (Special Group) thuộc Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) cũng
chấp thuận đề nghị của Đô Đốc
Felt trước đây về việc xử dụng
khinh tốc đĩnh và người nhái để
đảm nhiệm những công tác đổ người
lên miền Bắc. Tuy nhiên lúc đó cả tầu
lẫn người nhái đều chưa có. Kế
hoạch Switchback chính thức khởi đầu vào ngày
1 tháng giêng năm 1963. Từ đó, Bộ Tư
Lệnh Quân Sự Hoa Kỳ tại Sài G̣n (MACV - Military
Assistance Command Vietnam) chính thức thay thế CIA đảm
nhiệm các công tác dọc theo biên giới lúc bấy
giờ đang do nhân viên CIA Gilbert Layton chỉ huy. Đại
Tá Geoge Morton thay thế Layton, thành lập Toán C Lực Lượng
Đặc Biệt (LLĐB), đặt bản doanh
tại Nha Trang với Layton ở lại làm phụ tá.
Riêng các hoạt động ngoài Bắc, tuy do MACV điều
động nhưng nhân viên CIA W.T Chenney vẫn chịu
trách nhiệm. Tháng 4 năm 1963, một Trung tâm Huấn
luyện LLĐB cũng được thiết lập
tại Long Thành để huấn luyện các toán
sẽ được thả ra ngoài Bắc trong khi CIA
chuẩn bị bàn giao các hoạt động xâm
nhập miền Bắc cho các giới chức quân
sự. V.
Kế Hoạch 34A (OPLAN 34A) Vào
tháng 5 năm 1963, Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ
chỉ thị Đô Đốc Harry G. Felt soạn
thảo dự án yểm trợ chính quyền miền
Nam Việt Nam thi hành những công tác đặc
biệt ngoài Bắc. Tháng 6 năm 1963, Đô Đốc
Felt và Bộ Tham Mưu phác họa kế hoạch hành
quân sơ khởi dùng chiến thuật “đánh
bất ngờ” (hit and run) với mục tiêu chiến lược
buộc miền Bắc giảm bớt nỗ lực quân
sự tại miền Nam. Theo kế hoạch này, quân
lực VNCH đảm trách về phần nhân viên, c̣n
Hoa Kỳ sẽ cung cấp phương tiện và
huấn luyện. Kế hoạch soạn thảo sơ
khởi mang tên OPLAN 34-63 được tŕnh lên Bộ
Tham Mưu Liên Quân (Joint Chiefs of Staff) và chấp thuận
trên nguyên tắc vào ngày 14 tháng 8, chỉ một vài chi
tiết nhỏ được yêu cầu thay đổi.
Kế hoạch được tu chỉnh và được
chấp thuận lần nữa vào ngày 9 tháng 9. Trong
cuộc Hội Nghị về Việt Nam tại Honolulu vào
ngày 20 tháng 10, Williams Colby, lúc đó đă được
thuyên chuyển về Hoa Thịnh Đốn giữ
chức vụ Giám Đốc CIA toàn vùng Viễn Đông
thay v́ chỉ riêng có VN như trước, ngỏ ư
với Bộ Trưởng Quốc Pḥng rằng, theo kinh
nghiệm của CIA, kế hoạch thả các toán
nhỏ vào Bắc Việt sẽ không thành công. Nhưng
các giới chức cao cấp Hoa Kỳ không đồng
ư, cho rằng sở dĩ CIA thất bại v́ thiếu
phương tiện và khả năng, do đó chỉ
thị cho CIA bàn giao kế hoạch xâm nhập miền
Bắc lại cho quân đội. Trong
lúc việc chuẩn bị tiến hành khả quan.
một biến cố bất ngờ xảy ra khiến
một số dự tính bị đảo lộn. Đó
là cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm vào ngày 3 tháng 11 năm 1963 đă làm xáo
trộn phần nhân sự về phía Việt Nam trong
kế hoạch hành quân. Hai người cầm đầu
ban Mật Vụ của Tổng Thống Diệm là Bác
Sĩ Trần Kim Tuyến và Đại Tá Lê Quang Tung không
c̣n nữa. Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm nhận
chức Chỉ Huy Trưởng LLĐB rồi tới
Đại Tá Lam Sơn Phạm Đ́nh Thứ thay
thế chỉ mấy tháng sau đó. Tuy nhiên, cả Pḥng
45 tức Sở Bắc và Pḥng 55 tức Sở Nam
vẫn do Ngô Thế Linh và Trần Văn Minh điều
khiển. Tuy
nhiên, dù gặp trở ngại nhưng các công tác
biệt kích bằng đường biển vẫn
được tiến hành. Trong khuôn khổ kế
hoạch 34-63, vào tháng 11 năm 1963, một số người
nhái thuộc toán công tác đường biển
rời Đà Nẵng ra Căn Cứ Hải Quân Cửa
Việt để thực tập chuẩn bị cho công
tác đánh phá tầu bè tại các quân cảng Bắc
Việt gần vĩ tuyến 17 Bắc. Chuyến công tác
được dự trù vào tháng 12 năm 1963, mục
tiêu là những chiến đĩnh Bắc Việt
tại căn cứ Hải Quân Quảng Khê nằm
ở cửa sông Giang thuộc tỉnh Quảng B́nh, nơi
đặt Bộ Chỉ Huy Hải Quân Vùng Nam của
Bắc Việt. Trước ngày công tác, các cố
vấn Mỹ cho xem không ảnh căn cứ Quảng Khê.
Nhưng chuyến công tác bị hủy bỏ nửa
chừng v́ thời tiết xấu. Một trong những
người nhái tham dự là anh Vũ Văn Gương. Cho
tới cuối năm 1963, dù có tiến bộ về
mặt huấn luyện, nhưng những hoạt động
b́ệt kích vẫn không thâu thập được thành
quả khả quan như ư muốn. Lư do v́ tổ
chức chưa được chặt chẽ và nhân viên
phần lớn vẫn c̣n là dân sự nên thiếu
huấn luyện chuyên môn cũng như kỷ luật
quân đội, do đó cần sự tham gia tích
cực của QLVNCH. Để hữu hiệu hóa các
hoạt động, cả CIA và MACV được
chỉ thị tu chỉnh OPLAN 34-63. Sau một thời
gian làm việc, kế hoạch mới tu sửa mang tên
OPLAN 34A, đặt trọng tâm vào việc xâm nhập
bằng đường biển, được đệ
tŕnh Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng
12 (CIA gọi là Kế Hoạch Tiger). Trước đó
không lâu, vào ngày 12 tháng 12, Bộ Trưởng Quốc
Pḥng McNamara đă báo tin cho Đại Sứ Cabot Logde
biết rằng Tổng Thống Johnson muốn đẩy
mạnh những cuộc hành quân đặc biệt
nhắm vào miền Bắc do lực lượng Nam
Việt Nam đảm trách với sự hỗ trợ
của quân lực Hoa Kỳ. Những cuộc hành quân này
sẽ mang nhiều cường độ khác nhau để
ngầm thông báo cho Bắc Việt rơ rằng Hoa Kỳ
không chấp nhận việc CS xâm lăng miền Nam và
nếu Bắc Việt cứ ngoan cố xử dụng vơ
lực, họ sẽ bị đánh bại. Nói tóm
lại, mục đích chính của OPLAN 34A là phối
hợp với các áp lực về quân sự và
ngoại giao để cảnh cáo Bắc Việt không
được gia tăng hoạt động ở Lào cũng
như Nam Việt Nam. Như vậy, từ một kế
hoạch đổ biệt kích do CIA điều
khiển với mục tiêu thâu thập tin tức t́nh báo
và phá hoại, OPLAN 34A vào giai đoạn này đă
trở thành một kế hoạch nặng về chính
trị. Đáp
ứng chỉ thị của thượng cấp, cũng
vào ngày 15 tháng 12, Hải Quân Hoa Kỳ thành lập Toán
Yểm Trợ Lưu Động (MST - Mobile Support Team)
tại Đà Nẵng. Toán này gồm một số người
nhái HQ (SEAL), các sĩ quan chuyên về t́nh báo của
Thủy Quân Lục Chiến và nhiều chuyên viên hành
quân Biệt Hải Hoa Kỳ. Ngoài ra, c̣n có thủy
thủ đoàn của hai Khinh Tốc Đĩnh (PT Boats)
vừa mới tới Đà Nẵng. Nhiệm vụ
của Toán MST là huấn luyện thủy thủ đoàn
Việt Nam trong tương lai về cách xử dụng
Khinh Tốc Đĩnh sẽ được dùng trong các
công tác Biệt Hải, cũng như lo việc sửa
chữa và yểm trợ. Đến
ngày 19 tháng 12, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Hoa
Kỳ Tại Thái B́nh Dương yêu cầu Bộ Tham
Mưu Liên Quân Hoa Kỳ cho phép thi hành kế hoạch
mới OPLAN 34A trong khoảng thời gian 12 tháng để
trắc nghiệm. VI.
Thành Lập MACSOG Và Nha Kỹ Thuật Một
điều đáng để ư là tuy OPLAN 34A dự trù
xử dụng quân lực miền Nam, nhất là quân
chủng Hải Quân, nhưng phía VNCH lại không
được tham khảo ư kiến khi soạn thảo
để kịp thời chuẩn bị. Măi tới ngày
21 tháng giêng năm 1964, khi kế hoạch đă
được Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ đồng
ư cho thi hành đợt 1, Đại Sứ Hoa Kỳ
Henry Cabot Logde mới thông báo với Quốc Trưởng
Việt Nam Dương Văn Minh về kế hoạch
OPLAN 34A cùng cho biết chính phủ Hoa Kỳ đă
chấp thuận kế hoạch này và yêu cầu
VIệt Nam hợp tác bằng cách cho quân đội tham
gia. Ngày 24 tháng giêng, Toán Hành Quân Đặc Biệt
(Special Operations Group - SOG) được chính thức thành
lập do Đại Tá Clyde Russell chỉ huy, dưới
quyền điều động của Phái Bộ Quân
Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV). Do đó, cơ
quan đảm trách những cuộc hành quân đặc
biệt này thường được gọi tắt là
MACV-SOG hay MACSOG. Sau này, vào năm 1964, tên Special Operation
Group được đổi là Studies and Observation Group
(Toán Nghiên Cứu và Quan Sát) cho có vẻ “dân sự”
hơn, nhưng tên viết tắt vẫn là MACSOG. Ngày
28 tháng Giêng năm 1964, cuộc chỉnh lư củaTướng
Nguyễn Khánh khiến kế hoạch của MACSOG
bị chậm lại v́ Hoa Kỳ cần phải
được sự chấp thuận và hợp tác
của chính phủ mới. Tướng Khánh là một
người chủ trương “Bắc Tiến” nên
tới ngày 12 tháng 2, Sở Kỹ Thuật (Strategic
Technical Service - STS) thuộc Bộ Quốc Pḥng VNCH
được thành lập do Đại Tá Trần Văn
Hổ chỉ huy để hoạt động song hành
với MACSOG. Sở Kỹ Thuật là hậu thân
của Sở Khai Thác Địa H́nh (Topographic Exploitation
Service) trước đây của Đại Tá Lê Quang
Tung dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm. Về sau, Sở Kỹ Thuật được
đổi tên thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical
Directorate - STD). VII.
Sở Pḥng Vệ Duyên Hải Về
phương diện chỉ huy, chính phủ Hoa Kỳ
(Hoa Thịnh Đốn) hoàn toàn đảm nhiệm
phần kiểm soát và thiết kế hành quân, MACSOC và
Nha Kỹ Thuật tại Việt Nam đảm nhiệm
việc thi hành. Cả MAGSOC lẫn Nha Kỹ Thuật
đều hầu như không có tiếng nói hay ảnh
hưởng nào về mặt đề nghị, cho phép
và sắp đặt thời khóa biểu cho các cuộc
hành quân. Về
phương diện tổ chức, phía Hoa Kỳ, dưới
MACSOG có Phái Bộ Cố Vấn Hải Quân (Naval Advisory
Detachment - NAD) hay c̣n được gọi là Toán Hành Quân
Đường Biển (Maritime Operation Group - MAROP) chuyên
lo về các cuộc hành quân biệt hải có nhiệm
vụ thả biệt kích, bắn phá các tầu bè, cơ
sở quân sự cũng như mở các cuộc hành quân
thăm ḍ dọc duyên hải Miền Bắc. Về phía
Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật có Sở
Pḥng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service - CSS) làm
việc hàng ngang với NAD. Hai cơ quan này thường
được gọi chung là NAD/CSS đều đặt
trụ sở tại ṭa nhà Bạch Tượng (White
Elephant) Đà Nẵng đễ dễ bề phối
hợp các hoạt động. Các giới chức
chỉ huy của SPVZH phối hợp khá chặt chẽ
với NAD trong việc điều động nhân viên công
tác, thuyết tŕnh trước và sau mỗi cuộc hành
quân v.v... Ngoài cơ quan NAD, SPVZH cũng làm việc
rất chặt chẽ với toán huấn luyện và
yểm trợ MST. Trước
đây, khi toán xâm nhập đường biển c̣n
hoạt động dưới quyền điều
động trực tiếp của CIA, tuy có một
số nhỏ người nhái HQVN, nhưng nhân viên
của những ghe Nautilus đều là dân sự. Khi
kế hoạch Switchback chuyển giao quyền kiểm soát
các cuộc hành quân đặc biệt từ CIA sang quân
đội Hoa Kỳ, ghe Nautilus dần dần được
thay thế bằng những chiến đĩnh tối tân
hơn, LLHT cũng được thành lập gồm
những sĩ quan và đoàn viên thuộc Hải Quân
VNCH đặc biệt tuyển chọn để làm
thủy thủ đoàn. LLHT đặt dưới
quyền điều động của Sở Pḥng
Vệ Duyên Hải (SPVZH) trực thuộc Nha Kỹ
Thuật. Đa
số nhân viên SPVZH là quân nhân, trong số này phần
lớn là Hải Quân, đôi khi có một số
rất nhỏ thuộc Bộ Binh. SPVZH làm việc ngang hàng
với cơ quan NAD của Hoa Kỳ trong việc chỉ
định các toán công tác, huấn luyện và bảo
tŕ chiến đĩnh. Về mặt hành chánh, các quân
nhân Hải Quân thuộc SPVZH được coi như
biệt phái từ Hải Quân. Chỉ Huy Trưởng
SPVZH là một sĩ quan cao cấp Hải Quân. Các
vị Chỉ Huy Trưởng SPVZH đều là
những sĩ quan thâm niên, nhiều kinh nghiệm; sau này
có tới bốn cựu Chỉ Huy Trưởng
được thăng đến cấp Phó Đề
Đốc. Ngoài
một số cơ cấu hành chánh, SPVZH có hai
đơn vị trực thuộc chính, đó là Lực
Lượng Hải Tuần (LLHT) và Lực Lượng
Biệt Hải, đôi khi c̣n gọi tắt là Biệt
Hải. 1.
Lực Lượng Hải Tuần LLHT
là cơ cấu đông nhân viên nhất, có thể coi là
thành phần nồng cốt của SPVZH, nên đôi khi có
một số người, kể cả những người
trong Hải Quân chỉ biết đến LLHT, ít khi nghe
nói tới SPVZH. Thực sự, LLHT chỉ là một
đơn vị trực thuộc SPVZH cũng như
Biệt Hải. Để hiểu rơ thêm, cần
thấu triệt về nhiệm vụ, doanh trại, nhân
viên, trang bị và những hoạt động của
LLHT. a.
Nhiệm Vụ Nhiệm
vụ chính của LLHT là thi hành những công tác hành quân
đặc biệt bằng đường biển trong
vùng lănh hải Bắc Việt từ vĩ tuyến 17
Bắc trở lên. Về phương diện này, có
thể coi LLHT tương tự như Phi Đoàn 219
của KQVN chuyên thả các toán xâm nhập bằng
trực thăng. Nhưng ngoài nhiệm vụ thả và
vớt các toán Biệt Hải tại vùng duyên hải
Bắc Việt, các chiến đĩnh thuộc LLHT c̣n
thực hiện nhiều công tác riêng biệt khác như
pháo kích, chận bắt tầu bè, chiến tranh tâm lư
v.v... sẽ đề cập tới ở phần sau. b.
Doanh Trại Doanh
trại LLHT nằm ngay dưới chân núi Khỉ (Monkey
Mountain) thuộc bán đảo Sơn Chà, Đà
Nẵng, cạnh khu quân cảng Deep Water Pier, nơi các
tầu chở hàng lớn của Hoa Kỳ như SEALAND
cập để bốc rỡ hàng hoặc các tầu
đổ bộ thuộc Hải Quân Hoa Kỳ ủi băi.
Doanh trại này cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng
I Duyên Hải không xa. Từ Đà Nẵng đi vào,
phải đi qua trạm kiểm soát tại Cầu
Trắng, thấy băi ủi Deep Water Pier ở bên trái
rồi tới trại LLHT ở bên phải. Xa hơn
nữa là các cơ sở thuộc BTL/HQ/V1DH. Trại
gồm hai dăy nhà một tầng, mái lợp fibro-xi măng
nằm song song, dăy nhà trên cao gần chân núi dành cho sĩ
quan và dăy nhà phía dưới gần đường
lộ dành cho thủy thủ đoàn. Khu nhà sĩ quan
được chia ra thành nhiều pḥng nhỏ, mỗi
pḥng dành cho 2 sĩ quan. Cứ hai pḥng có chung một nhà
tắm. Khu đoàn viên gồm những nhà dài, không chia
thành pḥng. Thủy thủ đoàn của mỗi
chiến đĩnh chiếm một nhà làm pḥng ngủ.
Trong doanh trại, ngoài các pḥng ngủ, c̣n có các cơ
sở khác như câu lạc bộ, nhà kho v.v... Cầu
tầu PTF và các công xưởng sửa chữa cũng
như bảo tŕ của MST nằm gần Deep Water Pier,
đối diện với khu doanh trại qua con
đường nhỏ. c.
Trang Bị Kể
từ khi Toán Xâm Nhập Đường Biển
mới thành h́nh vào năm 1956 cho tới lúc SPVZH chính
thức thành lập vào đầu năm 1964, các phương
tiện chuyên chở thay đổi tùy theo thời gian và
nhu cầu công tác. Mới đầu, toán xâm nhập dùng
ghe loại đánh cá, sau đó đến các loại
tầu bè tối tân hơn như duyên tốc đĩnh
PCF và cuối cùng là loại khinh tốc đĩnh PTF. -
Ghe Nautilus Như
chúng ta đă biết, thoạt đầu khi Lực Lượng
Xâm Nhập Đường Biển được thành
lập và do CIA chỉ huy, phương tiện hoạt
động duy nhất là các ghe Nautilus. Đây là các ghe
gỗ khá lớn dài chừng 30 thước, có mui, trông
giống những ghe đánh đánh cá xa bờ ở
vịnh Bắc Việt. Ghe chạy bằng buồm nhưng
có gắn máy có vận tốc dưới 10 gút
(hải lư/giờ). Vơ khí trang bị gồm có đại
liên giấu trong khoang ghe và vũ khí cá nhân của
thủy thủ đoàn. Cho
tới giữa năm 1963, tại Đà Nẵng có 7 ghe
đặt tên Nautilus 1 tới 7 chuyên dùng để xâm
nhập hải phận miền Bắc. Lúc đó thành
phần này đặt dưới quyền chỉ huy
của Đại Úy Ngô Thế Linh, trực thuộc LLĐB
của Đại Tá Lê Quang Tung. Thủy thủ đoàn
của những chiếc ghe Nautilus phần đông là dân
sự gốc Nghệ An, Hà Tĩnh di cư hay sắc
tộc Nùng sinh trưởng tại miền Bắc.
Một số sĩ quan Hoa Kỳ và Việt Nam huấn
luyện thủy thủ đoàn và các toán đổ
bộ. Thủy thủ đoàn của mỗi ghe
được thay đổi và bổ xung tùy theo nhu
cầu công tác. Vào
các năm 1962-63, những ghe Nautilus xâm nhập miền
Bắc nhiều lần để tiếp tế, đổ
biệt kích và phá hoại thành công v́ có thể dễ
dàng trà trộn với ghe ngư phủ địa phương,
dù vận tốc ghe này rất chậm, phải mất
khoảng 24 giờ mới từ căn cứ xuất phát
Đà Nẵng tới được mục tiêu
Quảng Khê nằm dưới vĩ tuyến 18 Bắc.
Sau này, v́ bị phản bội cũng như địch
biết được đường giây xâm nhập
nên ghe Nautilus không c̣n hữu dụng. Đặc
biệt trong chuyến công tác đánh phá căn cứ
hải quân Quảng Khê của VC tại cửa sông
Gianh vào ngày 28 tháng 6 năm 1962, v́ hỏa lực
yếu và vận tốc chậm nên ghe Nautilus II bị
tầu VC đuổi kịp và đánh ch́m. Từ đó
CIA thay thế các ghe Nautilus bằng các duyên tốc
đĩnh (PCF - Patrol Craft Fast) c̣n gọi là “Swift”
nhanh hơn và hỏa lực mạnh hơn. -
Duyên Tốc Đĩnh PCF (Swift)
Swift
là loại tuần duyên đĩnh mũi ngắn, sườn
nhôm, dài chừng 50 bộ do hăng đóng tầu Seward
Seacraft ở Burwick, Louisiana chế tạo. Tầu
trọng tải 19 tấn, tầm nước 3.5 bộ,
gắn 2 máy diesel và có vận tốc tối đa
chừng 28 gút. Vũ khí trang bị gồm có một
đại liên 50 (12 ly7) gắn trên nóc pḥng lái; sân sau
có một súng cối 81 ly trực xạ trên gắn
đại liên 50. Thủy thủ đoàn gồm có 5 người. So
với loại ghe Nautilus, duyên tốc đĩnh Swift tuy
nhanh và trang bị hỏa lực khá mạnh nhưng
tầm hoạt động tương đối
ngắn, chỉ lên đến Đồng Hới. Tuy
vậy, Swift vẫn không phải là đối thủ
của các tầu tuần duyên loại P-4 có vận
tốc nhanh hơn và Swatow trang bị đại bác 37 ly
của Bắc Việt. Do đó, v́ nhu cầu công tác
đ̣i hỏi, vào khoảng đầu năm 1964, SPVZH
được trang bị các chiến đĩnh
loại Khinh Tốc Đĩnh (PTF - Patrol Torpedo Fast)
lớn hơn, tầm hoạt động xa hơn, có
vận tốc cao và hỏa lực mạnh hơn.
Việc xử dụng PTF và người nhái tại
Việt Nam đă được Khối Hành Quân Đặc
Biệt của Hoa Kỳ chính thức đề nghị
trong văn kiện đề ngày 27 tháng 9 năm 1962. -
Khinh Tốc Đĩnh PTF Tổng
cộng có ba loại PTF được dùng ở
Việt Nam: PTF cũ thời đệ nhị thế
chiến, PTF loại “Nasty” do Na Uy chế tạo và PTF
loại “Osprey” do Hoa Kỳ đóng. Điểm đặc
biệt là tất cả các ống phóng ngư lôi đều
được tháo gỡ v́ đối thủ Bắc
Việt chỉ có các loại tầu nhỏ, không
phải là mục tiêu của loại vũ khí này. Súng
ống trang bị trên các PTF cũng được
biến cải để phù hợp với nhiệm
vụ trao phó. Các
PTF được đặt dưới quyền điều
động của MST, vào tháng 3/64 do Đại Úy Burton
Knight chỉ huy. MST trực thuộc MACSOG tại Sài G̣n.
Về hệ thống chỉ huy, trên MACSOG là SACSA (Special
Assistant for Counterinsurgency and Special Activities) thuộc Ngũ
Giác Đài và Hội Đồng 303 (Committee 303)
thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National
Security Council - NSA). Tuy nhiên, những nhân viên Hoa Kỳ
ở Đà Nẵng thuộc Toán Yểm Trợ Hành Quân
Hải Quân (Naval Operation Support Group) đặt căn
cứ tại Coronado, California do Đại Tá Phil H.
Bucklew chỉ huy. Toán này chịu trách nhiệm về các
hoạt động đặc biệt của Hải Quân
Hoa Kỳ trong vùng Thái B́nh Dương cũng như
quản trị nhân viên do Toán cung cấp cho SOG để
xử dụng trong các hoạt động tại
Việt Nam.. +
PTF Loại Cũ Hai
PTF đầu tiên được dự trù trang bị
cho LLHT là loại cũ từ thời đệ nhị
thế chiến (giống PT 109 của TT Kennedy), dùng máy
Packard chạy bằng xăng máy bay nên c̣n được
gọi là “tầu xăng”. Ngay từ lúc đầu,
các giới chức quen thuộc với công tác Biệt
Hải tại Đà Nẵng cũng như Sài G̣n đă
không tán thành việc xử dụng loại PTF cũ này,
nhưng Hoa Thịnh Đốn ra lệnh cứ dùng
thử. Do đó, vào khoảng tháng Giêng năm 1963,
Hải Quân Hoa Kỳ tân trang 2 chiến đĩnh là các
PT-810 và PT-811 đang tồn trữ tại Hải Quân Công
Xưởng Philadelphia. Đây
là kiểu Ngư Lôi Đĩnh dùng trong đệ
nhị thế chiến nhưng được đóng vào
năm 1950. Vũ khí trang bị nguyên thủy gồm
ống phóng ngư lôi, 2 đại bác 40 ly một
ở trước mũi và một ở sân sau, 2 đại
bác 20 ly, 2 đại liên 50 bên hông. Khi sang Việt Nam,
khẩu đại bác 40 ly trước mũi được
cắt bỏ và thay bằng khẩu súng cối 81 ly
trực xạ gắn thêm đại liên 50. Hai PT này
được đổi tên là PTF-1 và PTF-2. Sau khi
chạy thử, cả 2 chiếc PTF gặp khá nhiều
trở ngại kỹ thuật nên được
giữ lại tại công xưởng Philadelphia để
sửa chữa. Vào khoảng thời gian này, Hải Quân
Hoa Kỳ cũng vừa nhận được 2
chiếc PTF mới loại “Nasty” đặt mua từ
Na Uy, đặt tên là PTF-3 và PTF-4. Ngày
19 tháng giêng năm 1964, các PTF-1và PTF-2 được
chiến hạm Pioneer Myth chở từ Norfolk đến
Subic Bay vào đầu tháng 2 và đến Việt Nam
khoảng tháng 3 năm 1964. Lúc này, các PTF-3 và PTF-4
loại “Nasty” cũng đă tới Việt Nam từ
trước, vào khoảng cuối tháng 2/64. Các PTF-1 và
PTF-2 được chạy thử tại Đà
Nẵng và nhận thấy rằng không được
an toàn và hữu hiệu v́ nhiều lư do. Thứ
nhất, tầu chạy bằng xăng nên có thể phát
nổ dễ dàng nếu bị trúng đạn trong lúc
công tác. Thứ hai máy nổ rất ồn ào, gây
nhiều tiếng động nên không thích hợp cho
việc thả và vớt toán v́ dễ bị lộ.
Thứ ba, máy rất khó tái khởi động sau khi
tắt v́ hơi bị kẹt trong ḷng máy. Điều
này rất nguy hiểm v́ sau khi thả toán, chiến
đĩnh có thể phải tắt máy để tránh
gây tiếng động, nhưng vẫn có thể
cần khởi động ngay trong trường hợp
khẩn cấp. Thứ tư, máy rất khó vào số lùi.
Tuy có khuyết điểm nhưng tầu xăng có
hỏa lực mạnh và vận tốc tương
đối cao nên rất hữu hiệu trong các công tác
pháo kích hay yểm trợ hải pháo. Ngoài
các vấn đề an toàn nêu trên, v́ các PTF này
thuộc loại cũ không dùng đă lâu nên khó
kiếm cơ phận. Hơn nữa, việc dùng
chiến đĩnh chế tạo tại Hoa Kỳ cũng
là một trở ngại v́ theo qui luật, các phương
tiện và vơ khí xử dụng trong các cuộc hành quân
biệt kích đều không được mang xuất
xứ từ Hoa Kỳ để tránh các rắc rối
về ngoại giao. Các
PTF loại cũ này tham dự một số công tác
đáng kể, nhưng sau này, trong những hoạt
động vào ngày 30 tháng 7 và 3 tháng 8 năm 1964,
cả 2 PTF-1 và PTF-2 đều bị trở ngại
về máy móc nên sau đó được thay thế
bằng các PTF tối tân hơn do Na Uy chế tạo. Tổng
cộng chỉ có 2 PTF loại cũ được
xử dụng trong LLHT. Một trong hai hạm trưởng
của loại “tầu xăng” này kể lại như
sau: “Máy
chạy để ở vị thế ngừng (idle) không
được đều, tiếng máy “gầm
gừ” nghe rất lạ. Sự khởi động
của máy rất khó khăn. Khi khởi động máy
thường phát ra tiếng nổ rất lớn và
thổi ra một cục lửa lớn bằng trái banh
xa chừng một thước rưỡi. Chân vịt
của tầu rất lớn nên quạt nước
thật mạnh, mỗi khi tầu cập cầu hay
rời bến đều làm cho vịnh nổi sóng.
Tầu chỉ chạy tốt với tốc độ
cao, chạy chậm dễ bị chết máy. Do đó cơ
khí viên rất mệt, phải luôn luôn trông chừng
cho máy khỏi bị tắt. Khi máy bị tắt th́
khởi động rất khó, đôi khi hết cả
b́nh gió ép! Vận tốc của tầu rất cao, khi
đi (lúc tầu nặng v́ c̣n nhiều dầu) có
thể tới 35-40 gút, khi về th́ 40-45 gút. Chẳng
chiếc tầu nào giám cập cạnh hoặc đối
diện với tụi tôi. Chúng tôi cũng không bao
giờ cập cạnh nhau. Hạm trưởng các
tầu khác thường gọi chúng tôi là 2 thằng
thủy quái. Tầu
được trang bị 1 đại bác 40 ly, 2 đại
bác 20 ly, 2 đại liên 50 và một súng cối 81 ly
gắn thêm đại liên 50. Công tác của tụi tôi
là chỉ có bắn phá chứ không thả hay vớt người,
thành ra rất nhàn hạ và luôn luôn thành công. Công tác
của những tầu khác là thả người và
vớt người nên đôi khi sai hẹn hay trở
ngại vớt không được, nhiều khi đi không
lại về không, có khi phải chờ dài cả
cổ mới gặp được”.
Khinh
tốc đĩnh Nasty do kiến trúc sư Jan H. Lingen
của Na Uy vẽ kiểu sau khi tham khảo ư kiến
với các sĩ quan thuộc hải quân Hoàng Gia Na Uy và
tổng hợp những ưu điểm của các
loại ngư lôi đĩnh PT của Hoa Kỳ và
Fairmile “D” của Anh. Loại tầu tuần tiễu
duyên hải này có thể mang theo thủy thủ đoàn
19 người. Chiếc Nasty đầu tiên được
chế tạo cho hải quân Na Uy mang tên KNM TJELT (P-343).
Tổng cộng, Na Uy chỉ đóng 42 chiếc Nasty,
gồm 20 cho Na Uy, 6 cho Hy Lạp, 2 cho Thổ Nhĩ
Kỳ và 14 cho Hoa Kỳ dùng tại Việt Nam. Hai
chiếc Nasty đầu tiên được giao cho
Hải Quân Hoa Kỳ vào đầu năm 1963 tại
Little Creek, Virginia, sau khi chạy thử, được
đặt tên là PTF-3 và PTF-4 vào ngày 3 tháng 5 năm 1963,
rồi được đưa đi huấn luyện
tại San Diego. Ngày 17 tháng 9, hai chiến đĩnh
được chiến hạm Point Defiance (Landing Ship Dock
- LSĐ 31) chở đến Pearl Harbor, Hawaii rồi
tới Subic Bay một tháng sau đó. Tại Subic, các
PTF-3 và PTF-4 được biến cải để
gắn thêm thùng đựng nhiên liệu để nâng
cao tầm hoạt động, bằng cách gỡ bỏ
pháo tháp 40 trước mũi, thay vào đó bằng
ụ súng 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên
50. Ngày 22 tháng 2 năm 1964, cả hai PTF được
đưa lên chiến hạm Carter Hall để chở
qua Việt Nam. Nhưng trong lúc đưa lên chiến
hạm chuyên chở, PTF-3 bị sóng đập vào thành
tầu lớn khiến vỏ bị bể, v́ vậy
được để lại Subic Bay để
sửa chữa. Măi đến cuối tháng 2/64, PTF-3
mới đến Đà Nẵng. Trong
thời gian đó, vào ngày 1 tháng 2 năm 1964, Na Uy
lại giao thêm 4 chiếc Nasty mới là các PTF 5, 6, 7 và
8 tại hải cảng Bergen, Na Uy. Các tầu này
được đưa lên chiến hạm Point Barrow
(AKD-1) chở tới Subic Bay vào ngày 3 tháng 3. Sau khi
được biến cải và tân trang, các Nasty này
được đưa đến Việt Nam vài tháng
sau đó. Khinh
tốc đĩnh Nasty có vỏ bằng ván ép nhiều
lớp đặc biệt, trọng tải 75 tấn, dài
khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ, tầm nước
3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ chân vịt
sau lái, có thể mang 18 tấn hay 6,100 gallons dầu
cặn, tầm hoạt động lên đến 1,000
hải lư với tốc độ tiết kiệm. Máy
tầu loại Napier & Deltic của Anh, 18 xy lanh,
vận tốc đường trường khoảng 35
gút, vận tốc tác chiến tối đa có thể lên
đến 50 gút khi tầu không mang nhiều nhiên
liệu.. Về
vũ khí, Nasty được trang bị 1 súng cối 81
ly trực xạ gắn thêm đại liên 50 trước
mũi. Sân sau lái đặt khẩu đại bác 40 ly,
hai bên hông ngang đài chỉ huy gắn đại bác
20 ly. Dụng cụ hải hành gồm la bàn điện,
máy ḍ chiều sâu và radar loại Decca có tầm hữu
dụng 50 hải lư với màn ảnh chính đặt
trong trung tâm chiến báo và “repeater” trên đài
chỉ huy. Radar này thường được dùng
để hải hành hay hải thám, nhưng khi cần,
ăng ten có thể ngóc lên 15 độ để pḥng
không. Tuy radar thuộc loại tối tân thời bấy
giờ, nhưng các mạch điện c̣n dùng đèn
điện tử nên khi biển động, tàu
nhảy sóng và bị đập mạnh xuống
mắt nước, các đèn dễ bị lỏng
hoặc cháy. Máy truyền tin gồm các loại âm
thoại cũng như tín hiệu. Đặc
điểm của loại Nasty là vận chuyển
nhẹ nhàng, cần điều khiển máy nằm ngay
trên đài chỉ huy nên hạm trưởng có thể
tự ḿnh tăng hay giảm máy dễ dàng không
phải “truyền lệnh” trong lúc tác chiến hay trường
hợp khẩn cấp. Đài chỉ huy lộ thiên, không
có chỗ ngồi và tương đối thấp
để đỡ cản gió. Khi hải hành với
vận tốc cao, khoảng phân nửa thân tầu
về phía trước mũi hỏng lên khỏi
mặt nước, nếu gặp sóng ngược,
phần lớn thân tầu bị dở lên khỏi
mặt nước rồi đập xuống như phi
ngựa, những đứng người trên đài
chỉ huy đều phải “thủ thế” để
giảm bớt sức dội và đỡ bị sóng
biển tạt ướt. Tuy vậy, vỏ ván ép
của Nasty có sức chịu đựng rất bền
bỉ, không bị bể hay nứt. Với các đặc
tính này, khinh tốc đĩnh Nasty rất được
các hạm trưởng ưa chuộng và trở thành xương
sống của LLHT. +
PTF Osprey
Các
chiến đĩnh Osprey được đóng mô
phỏng theo loại Nasty của Na Uy, nhưng vỏ
bằng nhôm thay v́ bằng gỗ. Đặc biệt,
loại Osprey được trang bị máy điều ḥa
không khí nên rất tiện nghi khi đi công tác. Nghe nói
sườn và phần sau lái tầu được
nhập cảng “tiền chế” từ Na Uy. Khinh
tốc đĩnh Osprey tuy vỏ bằng nhôm nhưng
vẫn hơi nặng hơn loại Nasty nên vận
tốc kém hơn khoảng 5 gút và mức độ
nhảy sóng cũng kém hơn. Vũ khí trang bị tương
tự như Nasty. Tuy nhiên, vỏ nhôm của Osprey không
chịu được vận tốc cao khi hoạt
động trong thời tiết xấu, tầu bị sóng
nâng cao và đập mạnh xuống mặt biển nên
vỏ tàu bị nứt chỉ sau 6 tháng hoạt động.
V́ lư do này, có 4 chiến đĩnh được
đưa qua Việt Nam để thử nghiệm, nhưng
sau đó lại đưa về Hoa Kỳ và trở thành
các PTF 23, 24, 25 và 26 trong Hải Quân. d.
Nhân Viên Trước
khi đi sâu vào phần quan trọng và đặc
biệt nhất của LLHT là lănh vực nhân sự,
cần nhắc qua về nhân viên của toán xâm
nhập đường biển trước đây, có
thể coi là tiền thân của LLHT và SPVZH. Đối
với công luận Hoa Kỳ và thế giới tức là
về mặt nổi, những cuộc hành quân biệt
kích nhắm vào miền Bắc đều do chính
phủ Việt Nam Cộng Ḥa tự đứng ra
tổ chức, do đó nhân viên tham dự đều là
người Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, có
một số người Đài Loan và đệ tam
quốc gia do CIA tuyển mộ trong giai đoạn đầu.
Cũng giống như CIA đă thuê mướn nhân viên
người Đài Loan lái những máy bay C-47 thả dù
Biệt Kích ngoài Bắc, CIA cũng mướn những
người thuộc “quốc gia thứ ba” dự trù
xử dụng trong những cuộc hành quân Biệt
Hải xuất phát từ Đà Nẵng. Thoạt
kỳ thủy khi c̣n xử dụng ghe Nautilus, thủy
thủ đoàn đều là nhân viên dân chính Việt
Nam, đa số gốc người Nghệ An, Hà Tĩnh
hay gốc Nùng di cư vào miền Nam. Các ghe Nautilus
được ngụy trang trông rất giống các ghe
đánh cá ngoài Bắc để dễ trà trộn,
bởi vậy thủy thủ đoàn cũng phải là
người Việt giống như ngư phủ địa
phương. Toán đổ bộ phần lớn cũng
là người Việt. Tuy nhiên trong một vài công tác
đổ bộ đầu tiên tại vùng Móng Cái
gần biên giới Việt - Hoa, có một số người
nhái Trung Hoa Quốc Gia tham dự, nhưng có lẽ
họ chỉ nhân cơ hội để hoạt động
trên lănh thổ Trung Cộng. Về
sau, v́ nhu cầu công tác, CIA thay thế các ghe Nautilus
bằng ba duyên tốc đĩnh PCF là loại tầu
mới và tối tân nên các nhân viên dân sự Việt
Nam không đủ khả năng điều khiển. V́
vậy CIA đă mướn một số người
thuộc đệ tam quốc gia để làm thuyền
trưởng. Theo các tài liệu Hoa Kỳ và trong
cuộc phỏng vấn gần đây của phóng viên
Thụy Điển Sven Oste, thuyền trưởng
những chiếc Swift này đều là người
quốc tịch Na Uy (ông Oste đă phỏng vấn 2
trong số những người Na Uy từng làm
thuyền trưởng Swift tại Việt Nam). Ngoài
thuyền trưởng người Na Uy, mỗi chiếc
Swift thường có thêm 3 nhân viên dân chính Việt Nam:
một tài công, một xạ thủ và một thông
dịch viên. Ba thuyền trưởng người Na Uy này
thường được gọi đùa là “dân
Viking”. Họ được tuyển mộ từ Na Uy
vào tháng 7/63 và đi chuyến công tác cuối cùng vào
ngày 27/5/64, sau đó họ rời Việt Nam vào tháng
6/64 khi măn giao kèo. Nhận xét chung về người Na
Uy, họ là những thuyền trưởng tương
đối có khả năng và chu toàn nhiệm vụ
được trao phó. Vào
tháng 6/64, sau khi những người Na Uy măn giao kèo,
một số người quốc tịch Trung Hoa đuợc
tuyển mộ để thay thế, nhưng khi việc
huấn luyện hoàn tất th́ chiến đĩnh Swift
không c̣n được dùng trong những công tác vượt
Vĩ tuyến 17 Bắc nữa. Về
toán đổ bộ, thoạt tiên có một số người
thuộc quốc tịch thứ ba như Trung Hoa Quốc
Gia trong vài chuyến đầu gần biên giới Hoa -
Việt, nhưng sau đó, nhân viên đều là
Biệt Hải, đa số thuộc Liên Đoàn Người
Nhái HQVNCH. Đối
với các chiến đĩnh PTF, lúc đầu CIA mướn
những người Đức để huấn
luyện và dự tính dùng vào những chức vụ
then chốt, c̣n người Nùng và Việt Nam chỉ là
phụ tá. Nhưng sau đó, những người Đức
bị sa thải v́ thường uống rượu say
sưa. Nhóm người Đức dựa vào giao kèo
để phản đối, nhưng sau này CIA trả
cho họ một số tiền cho êm chuyện. Nhóm người
Đức này không đi một chuyến công tác nào trên
PTF. Những chuyến công tác đầu tiên của PTF
vào tháng 7 và 8/64 đều do các sĩ quan HQVNCH chỉ
huy. Toán đổ bộ dùng PTF đại đa số
là người Việt Nam với một số ít người
thuộc sắc tộc thiểu số Nùng. Kể
từ khi SPVZH và LLHT được chính thức thành
lập, thủy thủ đoàn của các PTF và Swift
đều là những quân nhân Hải Quân VNCH t́nh
nguyện. V́ số người t́nh nguyện bao giờ
cũng cao hơn số được thâu nhận nên
việc tuyển lựa rất kỹ càng, căn cứ
vào kinh nghiệm hải hành, tinh thần phục vụ,
sức khỏe và khả năng tác chiến. Việc
điều tra an ninh cũng rất gay go với mức
độ “mật” hay “tối mật”. Khi
được tuyển chọn mỗi người
phải kư một giao kèo có hiệu lực trong ṿng
một năm. Sau đó, cứ mỗi 6 tháng khi giao kèo
hết hạn, nhân viên có quyền kư thêm 6 tháng
nữa hoặc thuyên chuyển về Hải Quân.
Mỗi lần kư giao kèo, người t́nh nguyện, dù
sĩ quan hay đoàn viên, đều lănh một số
tiền bằng nhau. Ngoài ra, c̣n có tiền phụ
cấp cho mỗi chuyến công tác trên vĩ tuyến 17
và tiền phụ trội ẩm thực. Ngân khoản này
đều do chính phủ Hoa Kỳ cung cấp. Tiền lương
Hải Quân vẫn được lănh hàng tháng như
thường lệ. Về
việc tuyển mộ t́nh nguyện này, một sĩ
quan từng phục vụ lâu năm trong LLHT kể
lại như sau: “...
Tưởng cuộc đời ḿnh dính liền với
Hạm Đội th́ một hôm, HQ Trung Tá... xuống
gặp anh em chúng tôi, ngỏ ư tuyển mộ một
số sĩ quan trẻ có khả năng để
phục vụ trên các khinh tốc đĩnh trong các
nhiệm vụ đặc biệt. Với máu ưa
mạo hiểm sẵn có cũng như niềm ngưỡng
mộ đối với h́nh ảnh hào hùng của
cố Tổng Thống Kennedy lúc ông c̣n là Hạm Trưởng
PT 109 trong Đệ Nhị Thế Chiến, chúng tôi
chỉ cần có mấy ngày để rời bỏ
Hạm Đội để bước vào một
thử thách mới. Khóa chúng tôi gồm có 6 người,
cộng thêm 6 bạn khóa 11 trở thành nhóm Sĩ Quan
trẻ đầu tiên của LLHT”. Một
khi đă kư giao kèo gia nhập LLHT, người t́nh
nguyện không c̣n thuộc hệ thống chỉ huy
của Hải Quân nữa, mà trở thành nhân viên
của Lực Lượng Đặc Biệt nên không
cần mặc quân phục Hải Quân, ngoại trừ
sáng thứ hai khi làm lễ thượng kỳ hay khi có
thượng cấp thăm viếng. Trong doanh trại,
đa số thường bận quân phục Bộ Binh.
Khi đi công tác thường chỉ mặc bộ đồ
bà ba đen. Ngay cả lư lịch cũng thay đổi,
mỗi người lấy một tên giả, c̣n thư
từ th́ gửi về một hộp thư chung cho toàn
lực lượng. e.
Vũ Khí Xử Dụng Ngoài
những vũ khí trang bị trên chiến đĩnh, toán
đổ bộ lúc đầu c̣n xử dụng các
hỏa tiễn thới chỉnh để bắn phá các
mục tiêu, nhưng v́ hỏa tiễn không được
chính xác nên sau này họ xử dụng súng 57 ly không
giật để tăng cường hỏa lực.
Những ổ súng không giật di động này có
thể thiết trí ở bât cứ nơi nào trên
chiến đĩnh v́ không cần dùng chân súng. Các
ổ súng không giật thường được
đặt ở sân trước ngay dưới chân
khẩn súng cối 81 ly trên chiến đĩnh mỗi
khi bắn phá mục tiêu trên bờ. Toán đổ
bộ cũng thực tập bắn súng 57 ly bằng cách
mang trên vai để có thể xử dụng vũ khí
này trên xuồng cao su. Ngoài súng 57 ly, c̣n có các loại
90 ly hay 106 ly nhưng không được xử dụng
thường xuyên. Nhiều loại ḿn nổ chậm cũng
được Biệt Hải dùng trong công tác phá
hoại. Về vũ khí cá nhân, các nhân viên đổ
bộ dùng loại súng AK của khối CS hay tiểu liên
(K-gun) do Thụy Điển chế tạo. f.
Tin Tức T́nh Báo Và Không Ảnh Trước
khi lên đường hành quân, các Hạm Trưởng
và trưởng toán đổ bộ thường
được thuyết tŕnh về t́nh h́nh địch
cũng như xem không ảnh mới nhất của vùng
mục tiêu. Tin tức t́nh báo thường là cung
từ của các tù binh hay dân đánh cá bị tại
địa phương bị bắt về để
khai thác. Các không ảnh này đa số do phi cơ
“tối mật” U-2 chụp trên cao độ ngoài
tầm hỏa tiễn pḥng không cũng như phi cơ
của BV. Các phi cơ U-2 thường xuất phát
từ phi trường Biên Ḥa, đôi khi từ căn
cứ Clark Air Base bên Phi Luật Tân. Tại
phi trường Biên Ḥa thường có hai phi cơ U-2 túc
trực. Không ảnh của phi cơ U-2 là nguồn t́nh
báo chính cho các cuộc hành quân OPLAN 34A. Thông thường,
vào ngày có công tác, một phi cơ U-2 bay từ sáng
sớm để chụp h́nh mục tiêu. Đến trưa,
không ảnh đă có trong tay MACSOG tại Sài G̣n. Đôi
khi không ảnh cũng được chụp bằng các
phi cơ không người lái (drone) ở cao độ
thấp hơn hoặc bằng cách chụp h́nh trên màn
ảnh radar (radarscope photography) trên các phi cơ bay đêm. g.
Tinh Thần Chiến Đấu Dĩ
nhiên trong mỗi lần vượt vĩ tuyến 17 thi
hành công tác, bao giờ cũng có những nguy hiểm
chờ sẵn, nhưng thật ra những lo âu, hồi
hộp không phải v́ địch quân mà do cảm giác
thiếu an toàn khi hoạt động trong vùng địch
kiểm soát. Trong những chuyến công tác đầu
tiên, tuy vẫn hải hành ngoài biển, nhưng một
khi vượt qua lằn ranh tưởng tượng là
Vĩ tuyến 17 sang hải phận địch, ai cũng
cảm thấy tinh thần căng thẳng. Ngược
lại khi trở về vùng biển nhà, mọi người
đều thở phào nhẹ nhơm. Lâu
dần, đầu óc cũng quen đi, hơn nữa so
với các tầu tuần duyên Bắc Việt, các
chiến đĩnh LLHT có hỏa lực mạnh hơn,
vận tốc lại nhanh hơn nên lúc nào cũng
chiếm được thế thượng phong. V́
vậy, những cảm giác lo âu ban đầu không c̣n
nữa nhưng lúc nào cũng cần đề pḥng
cẩn mật và tập trung tâm trí chỉ vào việc
hoàn thành công tác. Đă từng phục vụ tại các
giang đoàn ở miền Nam, chúng tôi nhận thấy
rằng những chuyến công tác vượt tuyến c̣n
ít nguy hiểm hơn nhiều. Các giang đĩnh
hoạt động trong sông lạch chật hẹp là
mục tiêu bị động tốt cho địch quân
ẩn núp hai bên bờ nhắm bắn bất cứ lúc
nào; ngược lại, các chiến đĩnh tối
tân của LLHT ngoài biển cả luôn luôn nắm vai tṛ
chủ động. Mỗi
chuyến công tác vượt tuyến là một cuộc
phiêu lưu mạo hiểm rất hào hứng và cũng
là một thử thách. Ngoài ra, các chuyến công tác tương
đối ngắn, ít khi kéo dài quá 24 tiếng đồng
hồ, không mấy nguy hiểm lại được
đăi ngộ xứng đáng nên tinh thần của nhân
viên LLHT rất cao. Bằng cớ là có rất nhiều
người thuộc thủy thủ đoàn chưa
tới phiên, nhưng vẫn t́nh nguyện đi công tác
thay thế cho những người vắng mặt ở
thủy thủ đoàn khác cho đủ cấp số.
Lắm người t́nh nguyện này đi công tác
nhiều gấp đôi, gấp ba so với các bạn
đồng đội thuộc thủy thủ đoàn
chính của ḿnh. 2.
Lực Lượng Biệt Hải Ngay
từ tháng 11 năm 1962, một căn cứ đă
được thiết lập tại băi biển
Mỹ Khê do CIA điều khiển để các ngưới
nhái Hoa Kỳ (SEAL - Sea Air Land) huấn luyện các toán
đổ bộ. Tuy căn cứ này do CIA chịu trách
nhiệm cho tới năm 1964, nhưng việc huấn
luyện hoàn toàn do SEAL đảm trách. Băi
biển Mỹ Khê nằm về hướng đông
của bán đảo Tiên Sha, từ chân núi Khỉ (hay
núi Sơn Chà) chạy dài về hướng Nam tới
Ngũ Hành Sơn (Marble Mountain). Bán đảo Tiên Sha
thuộc khu phía đông của thành phố Đà
Nẵng. Tất cả các căn
cứ của toán Biệt Hải đều nằm
dọc theo băi biển Mỹ Khê. Các toán Biệt
Hải sống và huấn luyện trong những trại
riêng biệt, tương đối nhỏ chỉ đủ
cho vài ba chục người. Có trại dành riêng cho toán
Biệt Hải gốc Bộ Binh (Romulus?), có trại dành
cho Biệt Hải gốc người nhái Hải Quân
(Vega), có trại dành riêng cho toán xử dụng chất
nổ dưới nước. Ngoài ra, c̣n có trại riêng
cho những người Nùng chuyên việc canh pḥng các
doanh trại. Vào
khoảng năm 1964, toán người nhái Hải Quân Hoa
Kỳ đảm trách việc huấn luyện các toán
Biệt Hải, dưới quyền chỉ huy của
Đại Úy Cathal L. Flynn. Các toán Biệt Hải
được huấn luyện về kỹ thuật chèo
xuồng cao su, đổ bộ, bơi ngầm dưới
biển, xử dụng chất nổ v.v... Về vũ
khí, đầu tiên họ được huấn
luyện cách xử dụng hỏa tiễn loại 3.5
inch thời chỉnh (time- delay) do CIA cung cấp. Trên nguyên
tắc, một toán có thể đổ bộ gần
mục tiêu rồi đặt giàn phóng hỏa tiễn,
điều chỉnh thời gian khai hỏa rồi rút
về căn cứ trước khi hỏa tiễn khai
hỏa. Tuy nhiên, loại hỏa tiễn này không
được hiệu quả v́ kém chính xác, hệ
thống thời chỉnh hay bị sai và nhất là nguy
hiểm v́ hay phát nổ bất tử. Những hỏa
tiễn này đă được dùng vài lần trong các
cuộc đổ bộ ngoài Bắc nhưng sau bị
loại bỏ v́ không có hiệu quả và sau này
được thay thế bằng súng 57 ly không
giật. Đây là loại súng đại bác hạng
nhẹ với hơi nổ được đẩy ra
phía sau thay v́ theo ṇng súng tống ra phía trước nên
“không giật” do đó không cần chân hay đế
súng để triệt tiêu sức giật. Vào
tháng 3 năm 1964, Hải Quân Đại Úy Trịnh Ḥa
Hiệp thuộc Liên Đoàn Người Nhái HQVNCH
được thuyên chuyển ra làm Chỉ Huy Trưởng
toán LĐNN tại Mỹ Khê. Đây là toán hoạt
động hữu hiệu và đạt được
nhiều thành quả nhất. VIII.
Một Số Hoạt Động Trong
khoảng thời gian trên dưới 10 năm hoạt
động, các ghe Nautilus và chiến đĩnh LLHT cũng
như toán Biệt Hải đă thi hành hàng ngàn
chuyến công tác đủ loại. Sau đây là
những công tác đáng nhớ. 1.
Công Tác Của Ghe Nautilus Tuy
các ghe Nautilus hoạt động bắt đầu
hoạt động từ năm 1956, nhưng những
chuyến công tác đầu tiên chỉ dể tiếp
tế cho những toán nằm vùng ngoài Bắc Việt và
rất bất thường, có khi mỗi năm chỉ
xảy ra một, vài lần. Sau này, vào khoảng các năm
1962, 1963, những chuyến công tác Nautilus trở nên thường
xuyên hơn và có mục đích tích cực hơn. Sau
đây là một số hoạt độngtiêu biểu
của Toán Công Tác Đường Biển trong thời
gian này: -
Chuyến Công Tác Nautilus I ngày 12/1/62 Ngày
12 tháng 2 năm 1962, vào khoảng 5 giờ sáng, ghe Nautilus
I rời Đà Nẵng lên đường ra miền
Bắc để thực hiện công tác liên lạc và
tiếp tế cho các công tác viên nằm vùng. Sau hai ngày
hải hành trong vịnh Bắc Việt không có ǵ
trở ngại, Nautilus I tới vùng điểm hẹn Ḥn
Gai. Trước đó ít lâu, điệp viên Ares đă
gửi điện văn yêu cầu tiếp tế
nhiều nhu yếu phẩm, trong đó có cả máy
truyền tin. Ngoại trừ thuyền trưởng,
đa số thủy thủ đoàn của Nautilus 1 c̣n
rất trẻ đều không biết rơ mục tiêu
của chuyến công tác. Trước đó không lâu, dưới
sự điều động của cơ quan xâm
nhập đường biển, Nautilus I đă đổ
một người tên Quang lên vùng biển Hà Tĩnh
gần Đèo Ngang an toàn. Thủy thủ đoàn cũng
đă nhiều lần lên bờ sống lẫn lộn
với dân đánh cá địa phương để
thu thập tin tức. Khi
tới Ḥn Gai, Nautilus I neo ở gần một ḥn đảo
nhỏ và giả dạng đang đánh cá để
chờ trời tối. Đến tối, Nautilus theo
mật hiệu của Ares vào đến điểm
trong bờ hẹn th́ bị phục kích. Chiếc ghe và
toàn thể thủy thủ đoàn bị rơi vào tay
địch. Điệp viên Ares cũng không thấy tăm
tích! -
Công Tác Nautilus II Ngày 28-6-62 Ngày
28 tháng 6 năm 1962, thủy thủ đoàn Nautilus II
rời Đà Nẵng lên đường vượt vĩ
tuyến 17 trong một công tác đặc biệt: đó
là thả bốn người nhái tại cửa sông
Gianh để đặt ḿn phá hoại những
chiếc tầu Swatow của Việt Cộng tại căn
cứ Hải Quân Quảng Khê gần đó. Bốn người
này là các anh Lê Văn Kinh, Nguyễn Hữu Thảo,
Nguyễn Văn Tâm và Lê Văn Chuyên. Họ thuộc toán
người nhái đầu tiên của Hải Quân VNCH
gồm 18 người được gửi đi
thụ huấn tại Đài Loan vào tháng 8 năm 1960. Tới
địa điểm hoạt động, những người
nhái thuộc toán phá hoại xuống nước và
chuẩn bị đặt ḿn. Nhưng rủi ro không
hiểu v́ lư do ǵ, một trái ḿn bị nổ trước
khi tới mục tiêu, khiến một người nhái
bị tử thương tại chỗ. V́ vậy,
lực lương duyên pḥng VC báo động và đuổi
bắt. Chiếc thuyền Nautilus xả hết tốc
lực chạy về vĩ tuyến 17 nhưng bị các
tầu tuần VC có tốc lực nhanh hơn đuổi
kịp và đánh ch́m gần vĩ tuyến 17. Nhân viên
CIA ở Đà Nẵng nghe được liên lạc âm
thoại của các tầu CS nhưng không làm ǵ
được để tiếp cứu Nautilus II. Kết
quả có hai người nhái bị bắt là anh trưởng
toán Lê Văn Kinh và Nguyễn Văn Tâm. Trongsố
thủy thủ đoàn Nautilus II, chỉ có một người
thoát nạn nhờ núp dưới lá buồm của
chiếc thuyền bị ch́m, và được một
lực lượng xuất phát từ Đà Nẵng
cứu thoát trên biển. -
Công Tác Vào Tháng 7 năm 1962 Trong
chuyến công tác này, một điệp viên tên
Nguyễn Châu Thanh đổ bộ thành công tại vùng
Hà Tĩnh. Theo kế
hoạch, thủy thủ đoàn Nautilus III đảm
nhiệm công tác này, nhưng đến phút chót, công tác
được giao cho một chiếc thuyền khác. Vào
tháng 7 năm 1963, toán Dragon gồm có 6 người Nùng
do Mộc A Tài chỉ huy đổ bộ lên vùng Móng Cái,
sát biên giới Việt Hoa với nhiệm vụ phá
hủy đài radar duyên hải tại địa phương.
Ngoài ra, toán Dragon cũng được lệnh hoạt
động vô hạn định trong khu vực quen
thuộc nhiều người Nùng này và liên lạc
với những người Nùng khác là lính cũ
của Đại Tá Woong A Sáng sư đoàn 22 BB để
lại nằm vùng tại miền Bắc trong cuộc di
cư vào Nam năm 1954. Sở Địa H́nh đă liên
lạc với Đại Tá Sáng để biết
về tung tích của những ngưới lính cũ
nằm cùng này. Nếu gặp được nắm
được, toán Dragon sẽ dùng họ để
chỉ điểm và cộng tác. Chiếc
ghe Nautilus 7 có nhiệm vụ chở Team Dragon tới
điểm đổ bộ. Thủy Thủ Đoàn
Nautilus cũng được dặn ḍ phải cẩn
thận đi theo một hải tŕnh đă vạch
sẵn để tránh các đài radar ở đảo
Hải Nam có thể phát hiện họ khi xâm nhập
hải phận miền Bắc. Chẳng
may, khi Nautilus 7 tới điểm đổ bộ th́
bị phát hiện, lúc đó toán đổ bộ đă
lên bờ. Nautilus 7 sau này về được đến
Đà Nẵng, nhưng một số thủy thủ và
toán đổ bộ bị bắt. Một trong số người
bị bắt cho biết như sau: “Những
chuyến xâm nhập bằng đường biển
đều rất thành công. Bằng cớ là tôi đă
hoàn tất 11 chuyến công tác trước khi bị
bắt. Công tác của chúng tôi chia làm 3 loại: thám sát
để thu thập tin tức t́nh báo, đổ
bộ biệt kích và phá hoại. Chúng tôi có cả
thảy 7 chiếc ghe, thủy thủ đoàn luôn luôn
được thay đổi. Thí dụ như tôi lúc
đầu thuộc toán Nautilus 2, sau đó qua Nautilus 4 và
cuối cùng tới Nautilus 7 khi bị bắt. Nautilus 4
đă xâm nhập Hải Pḥng 2 lần nhưng đều
trở về an toàn. Chúng tôi đă nhiều lần hoàn
tất công tác tại các vùng thật xa như Móng Cái
gần biên giới Hoa-Việt và vùng Đèo Ngang
thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Theo tôi biết, Nautilus II là
chiếc ghe độc nhất bị mất trong
chuyến công tác chở người nhái đặt ḿn
tại Quảng Khê vào tháng 6/62”. 2.
Công Tác Của PTF Không
có tài liệu nào cho biết về hoạt động
của các tầu Swift và PTF trước năm 64 khi c̣n
do CIA điều động với những ngưới
ngoại quốc như Đức, Na Uy hay Trung Hoa làm
thuyền trưởng, nhưng từ năm 64 là lúc
SPVZH được thành lập và các chiến
đĩnh do HQVNCH điều động th́ có rất
nhiều công tác thành công. Cũng cần nói thêm,
những công tác của MAGSOC đều có tính cách
chiến lược hơn là chiến thuật, v́
vậy không hẳn đặt nặng vào vấn đề
phá hoại mục tiêu hay giết được
nhiều địch mà nhằm vào việc thâu thập
tin tức t́nh báo cũng như khuấy rối hậu
tuyến địch hoặc chiến tranh tâm lư. Trong
suốt thời gian hoạt động khoảng 8 năm,
các PTF thuộc LLHT đă thực hiện trên dưới
1,000 chuyến công tác xâm nhập hải phận Bắc
Việt. Khoảng từ năm 1965 đến năm 1970
có nhiều công tác nhất. Đặc biệt trong
thời điểm phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc Bắc
Việt, có những thủy thủ đoàn đi 5, 6
chuyến công tác mỗi tháng. -
Ngày 12, hai toán chiến đĩnh đổ toán đổ
bộ lên hai mục tiêu khác nhau tại vùng biển
Bắc Việt. Một toán tại vùng Cửa Ron
thuộc tỉnh Hà Tĩnh và một toán xa hơn
về phía Bắc thuộc tỉnh Thanh Hóa. Toán đổ
bộ tại cửa Ron mang theo súng 57 ly không giật
đă bắn tan một đồn binh của Bắc
Việt tại Hải Khẩu. Toán đổ bộ
tại Thanh Hóa đặt ḿn phá nổ cầu sông Hàng.
Tất cả toán đổ bộ gồm 26 người
đều trở về chiến đĩnh vô sự. -
Trong đêm 26 rạng ngày 27, một toán chuyên viên đặt
chất nổ gồm 7 người hợp với toán
yểm trợ 24 người đă phá nổ một cây
cầu trên Quốc Lộ 1 gần Thanh Hóa, hạ sát 2
lính gác cầu và 4 lính Bắc Việt mà không bị
thiệt hại. -
Đêm 30 rạng 1 tháng 7, một toán đổ bộ
gồm khoảng 30 người đă dùng súng 57 ly không
giật bắn sập nhà máy nước tại cửa
sông Kiên gần Đồng Hới. Vào khoảng quá
nửa đêm, hai PTF 5 và 6 đổ bộ người
bằng bè cao su. Toán đổ bộ hoàn tất công tác
nhưng đụng độ nặng với lính
Bắc Việt. Hai PTF tiến lại gần bờ
bắn yểm trợ bằng súng 40 và 20 ly để
đưa toán đổ bộ về tầu. Kết
quả toán đổ bộ bị thiệt mất 2 người
nhưng cũng bắt sống được 2 địch
quân. Sau này, Bắc Việt cho biết bắt sống
được một Biệt Kích Quân và anh này cho
biết thuộc toán đổ bộ đă đánh
sập cầu sông Hàng tại Thanh Hóa trước đây.
Anh cũng cho biết những Biệt Kích Quân đều
được huấn luyện tinh thục và rất
quen thuộc với kỹ thuật đổ bộ, có
thể đánh phá các mục tiêu trên bộ rồi
trở về chiến đĩnh không mấy khó khăn.
Anh cũng cho biết các Biệt Kích Quân thích đổ
bộ bằng đường biển hơn lối
thả dù bằng máy bay v́ an toàn và được
yểm trợ hữu hiệu hơn. Ngoài
những công tác đổ toán với mục tiêu phá
hoại hay bắt những cán bộ hay lính Bắc
Việt để khai thác tin tức t́nh báo. Các PTF c̣n
thực hiện nhiều công tác khác ngoài biển, không
cần dùng tới toán đổ bộ như: xét
những ghe đánh cá để thu thập tài liệu
hoặc bắt một vài dân đánh cá để khai
thác tin tức, bắn phá các mục tiêu trên bộ,
bắn truyền đơn vào vùng duyên hải đông
dân cư v.v... Các
công tác bắn truyền đơn thường
được thực hiện tại vùng bờ
biển đông dân cư, khoảng từ vĩ
tuyến 18 Bắc trở xuống. Các truyền
đơn đă được nạp sẵn vào đầu
đạn, 81 ly. Khi tới vùng hoạt động, các
PTF chạy rất gần bờ, khoảng từ 1,500
thuớc tớ 2,000 ngàn thước rồi bắn
những đầu đạn có truyền đơn vào
các xóm làng ven biển. Đầu đạn sẽ
nổ trên không như đạn trái sáng và tuyền
đơn tung ra như được rải từ trên
không. Đôi khi, các PTF cũng thả các máy thâu thanh
được bọc kỹ trong túi ny-lông không
thấm nước tại các làng dọc theo duyên
hải để dân chúng có thể nghe các đài phát
thanh miền Nam như Tiếng Nói Tự Do, Mẹ
Việt Nam, Gươm Thiêng Ái Quốc v.v... Công
tác bắt dân đánh cá để thực hiện
mục tiêu tuyên truyền được thực
hiện lần đầu vào ngày 27 tháng 5 năm 1964.
Trong chuyến công tác này gồm có một PTF và một
Swift bắt một ghe đánh cá tại vùng biển
Đồng Hới. Sáu ngư phủ cùng với
chiếc ghe được đưa về Cù Lao Chàm
gần Đà Nẵng. Tại đây, các ngư phủ
được đối xử và cho ăn uống
tử tế trong suốt thời gian lưu trú để
tuyên truyền. Tới ngày 2 tháng 6, các ngư phủ này
được trả về vùng biển trước
đây đă bị bắt cùng với thuyền dánh cá
của họ và một số quà như máy thu thanh mà
người miền Bắc gọi là “đài”,
vải vóc, thực phẩm, đồ dùng bằng
nhựa v.v... Ngày
7 tháng 7, các chiến đĩnh bắt thêm 3 ghe và ngày
20 tháng 7 thêm 2 ghe khác. Sau này, các Swift không c̣n đảm
nhận công tác phía Bắc của vĩ tuyến 17 nên
việc xét và bắt các ngư phủ đều do các
PTF thực hiện. Có lẽ v́ các PTF có vận tốc
nhanh và cũng cao hơn Swift nên việc kéo ghe đánh cá
không có người lái về Cù Lao Chàm thường
khiến ghe bị ch́m nên sau này chỉ chỉ bắt
người mà không kéo ghe. Khi thả các ngư phủ,
các chiến đĩnh mang theo các thuyền thúng và
thả họ tại vùng đă bị bắt trước
đây. Sau
này, có tài liệu của Hoa Kỳ nói rằng sau khi
bắt ngư phủ, các PTF không kéo theo ghe đánh cá
như trước mà để lại đặt
chất nổ rồi thả trôi để làm bẫy.
Điều này hoàn toàn vô căn cứ. Việc không kéo
theo ghe đánh cá thật ra v́ lư do thực tế
nhiều hơn v́ lư do phá hoại. Thông thường ngư
dân ngoài Bắc sống dưới chế độ
Cộng Sản đều rất nghèo đói, nên ghe
đánh cá của họ rất mong manh và sơ sài,
chỉ có thể hành nghề tương đối
gần bờ trong nhưng ngày biển êm. V́ vậy,
ngay cả với Swift là chiến đĩnh loại
nhỏ cũng phải kéo rất cẩn thận với
vận tóc thật chậm, khoảng dưới 10
hải lư một giờ để tránh ghe bị ch́m
hoặc bể. Đó là vùng gần vĩ tuyến 17 như
Đồng Hới, Quảng Khê dân c̣n có ghe tuy sơ sài
để đánh cá. Xa hơn về phía Bắc như
tại vùng Thanh Hóa, Nghệ An, các ngư phủ nghèo
đến độ không có c̣n có ghe mà họ phải
dùng “mảng” là một bè gồm nhiều thân cây
tre cột lại với nhau bằng “lạt” tức
là giây làm bằng tre chẻ nhỏ. Dĩ nhiên,
những “mảng” này không có máy mà chạy bằng
buồm và chèo. Buồm cũng không làm bằng vải
mà làm bằng lá gồi hoặc cói đan lại như
chiếc chiếu. Cột buồm cũng làm bằng thân
một cây tre lớn. Khi hành nghề trên các
“mảng” này, dân đánh cá lúc nào cũng bị
ướt v́ mảng tuy nổi nhưng luôn luôn sâm
sấp nước ngập tới cổ chân! V́
vậy, dù có muốn kéo những “mảng” hay “bè”
tre này cũng không được. Về y phục,
những người chủ ghe khá lắm mới có
được quần áo vá chằng chịt không
biết mấy lớp. Đa số người trên
mảng chỉ trùm một chiếc “áo tơi” cũng
làm làm bằng lá gồi cột lại. Dụng cụ
đánh cá của họ là những sợi dây câu
cuốn vào ống tre chứ không có lưới. Chúng
tôi c̣n nhớ một lần xét ghe ngoài khơi cửa
Lạch Trường tức cửa bể Sầm Sơn
gần Thanh Hóa. Hôm đó, vào khoảng tháng 12, trời
mưa phùn với gió Bấc thổi khá lạnh. Khi
chiến đĩnh lại gần thấy chiếc
mảng trên có 5, 6 ngư phủ đầu đội nón
lá, tay kéo chặt chiếc áo tơi lá gồi, ngồi
xổm co ro vào một góc như để tránh gió và
che chở lẫn cho nhau. Thấy có vẻ khả nghi, nhân
viên xét ghe trên chiến đĩnh dùng loa phóng thanh
cầm tay (megaphone) ra lệnh cho những người dưới
mảng “đứng dậy, dơ tay lên”. Các ngư
phủ trên mảng nh́n nhau có vẻ bối rối, nhưng
khi thấy toán xét ghe trên tầu chĩa súng xuống,
họ phải đứng lên và bỏ tay đang
giữ chiếc áo tơi để đưa lên
khỏi đầu. Lập tức, những chiếc áo
tơi lá không c̣n bị cầm giữ nữa tuột
khỏi thân người, rơi xuống mảng.
Tất cả mọi người trên chiến đĩnh
đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy các ngư
phủ đều trần truồng, bên trong không
mặc quần áo ǵ cả! Khi đưa họ lên
tầu, cho ăn uống no nê, hỏi ra mới biết
theo “chỉ số”, mỗi người dân chỉ
được mua 2 thước vải quốc doanh
một năm, mua vải chợ đen th́ không có
tiền. V́ vậy khi đi biển, người nào có
áo vá chằng vá đụp đă là loại sang, c̣n
đa số chỉ đánh chiếc áo tơi lá gồi
để che mưa nắng, c̣n quần áo để
đành cho các dịp trọng đại khác. Về
công tác tâm lư chiến, một hạm trưởng thâm
niên thuộc LLHT kể lại như sau: IX.
PTF và Biến Cố Vịnh Bắc Việt Trong
thời gian Khu Trục Hạm Mađox của Hải quân
Hoa Kỳ bị tấn công tại vịnh Bắc
Việt, công tác của chiến hạm có lắm trùng
hợp với những hoạt động của các
PTF thuộc LLHT. V́ có nhiều dư luận cho rằng
các PTF và chiến hạm Mađox đă phối hợp
để khiêu khích Bắc Việt phải nhảy vào
ṿng hải chiến để Hoa Kỳ có cớ oanh
tạc miền Bắc, chúng tôi tóm tắt một
số diễn tiến liên hệ để độc
giả có thể tự t́m câu trả lời. 1.
Hoạt Động Của Khu Trục hạm Maddox Sáng
sớm ngày 31 tháng 7 năm 1964, Khu Trục Hạm Maddox (Đ
731) của Hải Quân Hoa Kỳ tới bờ biển
Việt Nam, vùng ngang vĩ tuyến 17 để bắt
đầu cuộc tuần tiễu dọc bờ
biển Bắc Việt đặt tên là Desoto. Tới
trưa ngày 2/8, khi chiến hạm đang ở vị trí
cách bờ chừng 18 hải lư và cách Ḥn Mê chừng
10 hải lư th́ bị 3 ngư lôi đĩnh Bắc
Việt mang số T-333, T-336 và T-339 tấn công bằng
ngư lôi. Kết quả cả 3 tầu Bắc Việt
bị bắn hư hại nặng, Khu Trục Hạm Mađox
không bị thiệt hại. Sang
ngày 3/8, Khu Trục Hạm Maddox được lệnh
của Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ
Thất Hạm Đội tiếp tục cuộc
tuần tiểu Desoto, nhưng lần này có thêm Khu
Trục Hạm Turner Joy (Đ 971) tăng cường.
Theo phúc tŕnh của Hải Quân Hoa Kỳ, khoảng 2134G
ngày 4/8, hai chiến hạm báo lại bị tầu
Bắc Việt bị tấn công và bắt đầu
khai hỏa vào lúc 2139G, lúc đó mục tiêu cách
khoảng 8,000 yards. Sau này, có nhiều người cho
rằng cuộc đụng độ lần thứ hai
này không xảy ra. 2.
Hoạt động của PTF trong thời gian có
cuộc tuần tiễu Desoto -
Ngày 22/7/64, bốn chiến đĩnh gồm các PTF-3,
PTF-4, PTF-5, PTF-6 chuẩn bị công tác đổ biệt
kích đánh phá các trạm gác quân sự tại Ḥn
Mật và đài radar duyên pḥng Vinh Sơn (gần
hải cảng Bến Thủy, thành phố Vinh), nhưng
công tác phá hoại bị thay đổi vào giờ chót
v́ không ảnh do phi cơ U-2 chụp vào lúc sáng sớm
phát hiện 2 tầu Swatow của địch trong vùng Ḥn
Niếu và 3 chiếc khác tại vùng Ḥn Mê nằm
về phía Bắc của mục tiêu chừng 50 hải
lư. Tuy nhiên, các PTF vẫn lên đường với
nhiệm vụ tuần thám vùng duyên hải và chuẩn
bị hải chiến với các tầu Bắc Việt
thay v́ đổ biệt kích phá hoại. Nhưng không rơ
v́ tin tức t́nh báo không chính xác hay tầu địch
lẩn tránh, không thấy tầu địch nghênh
chiến. -
Ngày 27/7/64, hai PTF đang yểm trợ cho hai tầu Swift
xét ghe tại một địa điểm ngoài khơi
Vinh Sơn th́ tầu Swatow địch xuất hiện, có
lẽ xuất phát từ căn cứ Quảng Khê
ở cửa sông Giang. Đă được chỉ
thị đề pḥng tầu địch tấn công
bất ngờ từ trước, các PTF hộ tống
các tầu Swift tiến xa ra ngoài khơi rồi chuẩn
bị nghênh chiến nhưng các Swatow Bắc Việt không
giám đuổi theo. V́ mục đích chính của
chuyến công tác là xét ghe chứ không phải chận
đánh tầu địch nên các PTF cũng trở
về căn cứ mà không tham chiến. -
Ngày 30/7/64, một toán 4 chiến đĩnh gồm các
PTF-2, PTF-3, PTF-5 và PTF-6 lên đường công tác.
Mục tiêu là đổ toán đổ bộ lên các
đảo Ḥn Niếu và Ḥn Mê để đặt
chất nổ phá hoại các vị trí quân sự. Ḥn
Mê nằm cách bờ chừng 12 cây số, vào khoảng
vĩ độ 19 độ Bắc, ngoài khơi của
Lạch Tray (Sầm Sơn). Ḥn Niếu nằm xa hơn
về phía Nam, ngoài khơi hải cảng Bến
Thủy thuộc thành phố Vinh (tỉnh Nghệ An) cách
bờ chỉ chừng 4 cây số. Đây
là một chuyến công tác rất gay go, nhiều nguy
hiểm v́ phải đổ bộ biệt kích sâu trong
ḷng địch với tin tức t́nh báo và không
ảnh cho thấy tầu địch đang phục
sẵn tại vùng mục tiêu. Do đó, thủy thủ
đoàn các PTF tham dự chuyến công tác đều
được đặc biệt tuyển chọn trong
số những toán nhiều kinh nghiệm cũng như
thiện chiến nhất. Vào
khoảng gần nửa đêm 30/7, lúc 2315H, các PTF đến
điểm tập trung cuối cùng phía Đông Nam
của Ḥn Mê, tọa độ 19 độ Bắc,
106.16 độ Đông. Tại đây, toán chiến
đĩnh chia làm 2 phân đội: phân đội
Bắc gồm các PTF-3 và PTF-6 hướng về mục
tiêu Ḥn Mê và phân đội Nam gồm các PTF-5 và PTF-2
di chuyển tới mục tiêu Ḥn Niếu. Phân
đội Bắc vùng mục tiêu là một địa
điểm phía nam Ḥn Mê vào hồi 0021H ngày 31/7. Ḥn Mê
tuy gọi là một hải đảo nhưng thật
ra là một ḥn núi lớn giữa biển với cây
cối dầy đặc nên rất khó quan sát những
hoạt động trên đảo, nhất là vào ban
đêm. Trên đỉnh Ḥn Mê với cao độ
chừng 500 thước trên mặt biển, Bắc
Việt đặt một giàn hải pháo duyên pḥng có
thể bắn tới các mục tiêu trên biển cách xa
chừng 15 hải lư. Hai
chiến đĩnh thận trọng tiến vào mục
tiêu theo đúng đội h́nh đổ bộ, một
chiếc canh pḥng phía ngoài, chiếc kia chở toán
tới điểm đổ bộ cách bờ chừng
2,000 thước. Toán đổ bộ dự trù sẽ
đặt chất nổ phá hoại một tháp canh và
các cơ sở quân sự trên đảo. Trong lúc toán
đổ bộ đang chuẩn bị thả xuồng
cao su, thủy thủ đoàn dùng ống nḥm quan sát
thấy một chiếc Swatow của địch đang
nằm sát trong bờ. Cùng lúc đó, tầu địch
khai hỏa trước bằng đại bác 37 ly và thượng
liên. Tuy bị tấn công trước nhưng các PTF
phản pháo hữu hiệu làm im tiếng súng địch
chỉ sau vài phút giao tranh. Sự hiện diện
của tầu địch tại Ḥn Mê không làm
thủy thủ đoàn các PTF ngạc nhiên v́ điều
này chỉ xác nhận những tin tức t́nh báo từ
trước. V́
đă bị lộ nên cuộc đổ bộ bắt
buộc phải hủy bỏ, các PTF chuyển sang
kế hoạch dự pḥng là bắn phá các mục tiêu
trên bờ bằng hải pháo cơ hữu 40 ly, 20 ly, 81
ly trực xạ và súng 57 ly không giật của toán
đổ bộ tăng cường. Đây là cuộc
bắn phá các mục tiêu trên bộ lần đầu
tiên của các PTF trong khuôn khổ OPLAN 34A. Chỉ trong ṿng
khoảng 20 phút, hỏa lực dữ dội của hai
PTF-3 và PTF-6 đă hoàn toàn phá hủy các mục tiêu
chỉ định cùng nhiều ổ súng đại liên.
Hoàn tất công tác, hai chiến đĩnh rời vùng vào
hồi 0048H. Sau này, theo tin t́nh báo của Hoa Kỳ,
một tầu Swatow mang số T-142 đến tăng cường
toán pḥng thủ Ḥn Mê cố gắng theo dơi hoạt
động của toán PTF nhưng không giám tham
chiến. Tài liệu kiểm thính của Hoa Kỳ ghi
nhận thuyền trưởng chiếc T-142 báo cáo
về bộ chỉ huy viện cớ vận tốc
của các PTF quá cao nên theo không kịp nên phải
bỏ cuộc. Có lẽ v́ chiếc Swatow này ẩn
trốn trong bờ nên các PTF không phát hiện được. Phân
đội Bắc về tới căn cứ Đà
Nẵng vào khoảng 10 giờ sáng ngày 31/7. Phân đội
Nam về hơi trễ hơn, khoảng 11 giờ sáng v́
PTF-2 bị trục trặc máy móc sau một cuộc hành
tŕnh khá xa. -
Chiều ngày 3/7, bốn chiến đĩnh gồm PTF-1,
PTF-2, PTF-5 và PTF-6 rời căn cứ Đà Nẵng lên
đường công tác. Mục đích là bắn phá các
mục tiêu dọc duyên hải Bắc Việt tại Mũi
Vinh Sơn và Cửa Ron gần thành phố Vinh, phía
Bắc Vĩ tuyến 17 chừng 70 hải lư. PTF-2
v́ trục trặc máy móc giống như chuyến công
tác kỳ trước nên phải quay trở về.
Tới khoảng 2300G, các PTF-1 và PTF-5 dùng hải pháo
bắn vào mục tiêu là đài radar Vinh Sơn trong ṿng
20 phút. Chiếc PTF-6 c̣n lại một ḿnh hoạt động
tại cửa sông Gianh, bắn phá các mục tiêu trên
bờ và một nhóm ngư lôi đĩnh Bắc
Việt tại cầu tầu căn cứ Hải Quân
Quảng Khê. Một chiến đĩnh Bắc Việt
rời bến đuổi theo PTF-6 nhưng sau chừng 40
phút phải quay trở lại v́ không theo kịp. Sau khi
hoàn tất công tác, các PTF về Đà Nẵng an toàn. Trong
cuộc tấn công vào Ḥn Ngự và Ḥn Mê vào đêm
30 rạng 31/7, Bắc Việt không cho rằng chiến
hạm Mađox đă tham dự, nhưng trong cuộc
bắn phá đêm 3 rạng 4/8, Bắc Việt ghi rơ
rằng lực lượng tấn công gồm 4 PTF
từ Đà Nẵng và 2 Khu Trục Hạm Hoa Kỳ.
Một trong những lư do khiến Bắc Việt không
nắm vững được số chiến đĩnh
tham chiến v́ đài radar Vinh Sơn đă bị các
PTF bắn hư hại năng không c̣n hoạt động
được. X.
Khả Năng Pḥng Duyên Bắc Việt Hệ
thống pḥng duyên của Bắc Việt gồm các
tầu Hải Quân, ghe đặc công, các giàn radar và
đại bác đặt dọc theo duyên hải. Các
tầu của Hải Quân Bắc Việt chỉ có
khả năng hoạt động trong vùng “nước
nâu” dọc theo duyên hải. Theo tin tức t́nh báo, vào
thời đó, Hải Quân Bắc Việt có 4 Hộ
Tống Hạm loại SO1, 12 Ngư Lôi Đĩnh P4 và
mộ số Khinh Tốc Đĩnh loại Swatow. Hộ
Tống Hạm SO1, trọng tải chừng 250 tấn,
do Nga Sô viện trợ, 2 chiếc vào năm 60-61 và 2
chiếc nữa vào năm 64-65. Tầu dài 140 ft, rộng
20 ft, máy loại diesel, vận tốc tối đa 28 gút,
thủy thủ đoàn 30 người. Vũ khí gồm
2 giàn đại bác 25 ly đôi đặt trước
mũi và sau lái, ngoài ra c̣n có 4 giàn thủy lựu
đạn dùng để chống tầu ngầm. Vào ngày
1/2/66, một chiếc SO1 bị phi cơ Hoa Kỳ đánh
ch́m, 3 chiếc c̣n lại bị hư hại hay bất
khiển dụng nên không thấy xuất hiện. Đối
với các PTF nhẹ nhàng hơn, loại chiến
hạm cũ kỹ tuy có hỏa lực khá mạnh nhưng
với vận tốc tương đối kém này không
phải là mối lo ngại. Ngư
Lôi Đĩnh loại P4 có thể coi là lực lượng
chính đáng kể nhất của Hải Quân Bắc
Việt, có thể gây thiệt hại cho địch
thủ lớn hơn. Chính ngư lôi đĩnh loại
P4 này đă đụng độ với Khu Trục
Hạm Mađox vào ngày 2/8/64. Đây là loại tầu
nhỏ, trọng tải chừng 50 tấn, dài 85 ft, rông
20 ft máy Diesel, vận tốc tối đa 40 gút. Vũ khí
gồm 1 giàn thượng liên đôi đặt sau lái
và 2 ống phóng ngư lôi đôi đặt hai bên hông
tầu. Mỗi quả ngư lôi mang đầu nổ
550 lbs TNT có thể đánh ch́m chiến hạm lớn.
Tuy nhiên, tầm hữu hiệu của ngư lôi rất
ngắn khiến ngư lôi đĩnh phải vào các
mục tiêu không quá 1 cây số. Radar thuộc loại
253 c̣n có tên là “Skinhead”, tầm rất ngắn
chừng 15 hải lư trong thời tiết tốt. Thông
thường, P4 phải chạy với vận tốc
cao để phóng ngư lôi nên ăng ten radar phải
hạ xuống để bớt cản gió và cũng
để khỏi bị hư hại khi tầu nhảy
sóng. Tuy P4 có vận tốc khá cao nhưng vẫn c̣n kém
xa PTF; hơn nữa vũ khí chính là ngư lôi coi như
không có hiệu quả đối với khinh tốc
đĩnh vừa nhỏ vừa nhanh, radar lại có
tầm hoạt động ngắn hơn, hỏa
lực chỉ có thượng liên, v́ vậy P4 không
phải là đối thủ của PTF. Đa số các
P4 đề đă bị phi cơ Hoa Kỳ đánh ch́m
trong các cuộc oanh tạc. Khinh
Tốc Đĩnh Swatow trọng tải 67 tấn, dài
83.5 ft, rộng 20 ft, vận tốc tối đa 40 gút. Vũ
khí trang bị gồm 2 khẩu đại bác 37 ly đôi.
Đây là một đối thủ khá ngang tay với
PTF, nhưng PTF có vận tốc cao hơn nên Swatow khó ḷng
theo kịp. Một số khá lớn Swatow cũng đă
bị phi cơ Hoa Kỳ đánh ch́m. Trong
những năm hoạt động, các vụ đụng
độ giữa PTF và tầu pḥng duyên Bắc
Việt rất hiếm, nghe đâu chỉ có vài vụ.
Một phần v́ tiểu đĩnh Bắc Việt không
giám ra xa bờ v́ sợ bị phi cơ oanh tạc,
phần khác v́ thấy yếu thế. Một Hạm Trưởng
PTF kể lại một vụ đụng độ
hiếm có như sau: “Trong
suốt 5 năm hoạt động, chúng tôi chỉ
chạm trán với các chiến đĩnh BV một
lần vào đầu năm 1968. trong một chuyến công
tác do anh X. khóa 9 làm Phân đội trưởng, tôi
đi vị trí 2, Y. khóa tôi đi vị trí 3. Trên
đường về đến Mũi Đào phía
bắc Đồng Hới khoảng 3 giờ sáng, radar phát
hiện 3 đối vật từ trong bờ đang
tiến đến gần chúng tôi với vận
tốc cao. Lập tức, anh X. báo cáo ra Đệ
Thất Hạm Đội, cho phân đội vào đội
h́nh chiến đấu và tăng vận tốc lên 55 gút.
Theo đúng chiến thuật hải Quân, chúng tôi
cố gắng vận chuyển vào đầu chữ T
để các khẩu trọng pháo có thể đồng
loạt khai hỏa về phía hữu hạm. Địch
cũng cố gắng chiếm thế thượng phong.
Cuối cùng, hai bên ở thế cài răng lược.
Địch khai hỏa trước, c̣n chúng tôi chỉ
tác xạ khi c̣n cách độ 1000 yards. Trong
cuộc giao tranh ngắn ngủi, chiến đĩnh
của anh X. bị trúng đạn hư hại nhẹ,
một số nhân viên bị thương. Hai chiếc chúng
tôi hộ tống chiến đĩnh bạn về
hậu cứ an toàn, Trong những ngày sau đó, tin t́nh
báo cho biết lực lượng địch bị
thiệt hại khá nặng v́ họ khai hỏa quá
sớm, lại tập trung hỏa lực vào chiếc
anh anh X. nên bị hai chiến đĩnh của tôi và
Y. bắn trúng.” Ghe
đặc công: V́ thấy các PTF thường xuyên xét
và bắt người trên các ghe đánh cá, Việt
Cộng lợi dụng cơ hội này dùng các loại
ghe đặc công, bố trí sẵn vũ khí và
chất nổ trà trộn trong đám ghe đánh cá
để phục sẵn. Khi PTF đến gần, địch
bất thần bắn B40 hay liệng chất nổ lên
PTF. Tuy chiến thuật này đă vài lần gây
thiệt hại cho PTF, nhưng các tên đặc công
đều bị bắn chết và thuyền bị
đánh ch́m ngay tại chỗ. -
Radar Duyên Pḥng: Bắc Việt đặt một
số các đài radar dọc theo duyên hải để
theo dơi các PTF hoạt động ngoài biển. Nhưng
về sau, các đài radar này đều bị phá
hủy hoặc bị phi cơ oanh tạc thường
xuyên nên không c̣n hoạt động hữu hiệu. XI.
Thiệt Hại Trong
suốt khoảng 8 năm hoạt động, thiệt
hại của LLHT do địch gây ra coi như không
đáng kể. Về
mặt chiến đĩnh, không có chiếc nào bị
ch́m v́ trúng đạn địch quân, chỉ có
một số bị hư hại nhẹ. Tuy nhiên, có
một số bị mắc cạn. Điều này cũng
dễ hiểu v́ đa số những chuyến công tác
đều được thực hiện vào ban đêm,
khá gần bờ trong một vùng duyên hải không
mấy quen thuộc. Tất cả những PTF mắc
cạn sau đó đều bị phi cơ Hoa Kỳ
dội bom phá hủy để khỏi rơi vào tay
địch quân. Cũng có trường hợp một
PTF bị ch́m v́ trúng hỏa tiễn của phi cơ Hoa
Kỳ bắn lầm. XII.
Một Số Ngộ Nhận Và Nghi Vấn Về
Lực Lượng Hải Thuyền (LLHT) V́
là một đơn vị Biệt Kích được
ngụy trang rất khéo léo, nên rất ít người
biết rơ về tông tích nhân viên LLHT. Nhiều khi ngay
cả các bạn đồng đội phục vụ
trong các đơn vị Hải Quân thông thường cũng
không rơ họ ở đâu, ngoại trừ có dịp
đi công tác tại vùng Đà Nẵng. Các chiến
đĩnh thuộc LLHT cũng là nguồn gốc
của nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi,
nhất là đối với những tác giả và người
không quen thuộc với Hải Quân. V́
vậy, cho tới bây giờ, sau khi chiến tranh
chấm dứt đă gần 30 năm, cũng vẫn c̣n
nhiều ngộ nhận và nghi vấn liên quan tới
LLHT. Ngay cả những nhân viên từng phục trong
MACSOG cũng như các tác giả Hoa Kỳ vẫn
kể và viết lại lắm điều thiếu rơ
ràng hoặc không đúng sự thật. Đây không
phải v́ họ cố t́nh xuyên tạc, nhưng theo
nguyên tắc t́nh báo, mỗi người chỉ
biết được phần nhiệm của ḿnh nên
ít ai có được cái nh́n toàn bộ và trung
thực. Sau
đây là những “sự thật” mà chúng tôi
biết được về một số nghi vấn và
ngộ nhận trong các sách vở Hoa Kỳ cũng như
Việt Nam. -
Về Nhân Viên Tác
giả Anthony Austin, trong cuốn sách President's war nói
rằng tuy có người Việt Nam trên các chiến
đĩnh, nhưng không có ai thuộc HQVN hoặc
mặc quân phục Hải Quân. Tất cả thủy
thủ đoàn chiến đĩnh đều là dân “đánh
mướn”. Trong
tài liệu “Maritime Operation” của MACSOG cũng nói cho
tới đầu năm 1964, v́ không tuyển mộ
được nhân viên thuộc HQVN nên phải mướn
nhân viên dân sự. Trong
cuốn sách “Tonkin Gulf and the Escalation of Việt Nam War, tác
giả là “Sử gia” Edwin Moise của Trường
Đại Học Clemson viết rằng: “có nhiều
bằng chứng xác thực cho thấy thủy thủ
đoàn các chiến đĩnh Nasty thuộc HQVN và
họ mặc quân phục trong khi thi hành công tác” (There
is good evidence that the Nasty boat crews belonged to the South Vietnammese
Navy and wore uniform while on operation” (trang 15). Giáo Sư Moise
cũng nói: “Hải Quân VNCH cho biết đă tuyển
lựa những nhân viên xuất sắc nhất để
xung vào LLHT và đặc biệt các sĩ quan đă
chứng tỏ họ là những người xuất
sắc... (trang
15) - (The RVN Navy had said it was assigning the cream of its men to this
program, and the officers in particular were convinced they were the
cream”. Sự
thật: Kể
từ khi LLHT được thành lập, thủy
thủ đoàn của các chiến đĩnh đều
thuộc HQVN, tuy nhiên, họ KHÔNG mặc quân phục HQ
trong lúc đi công tác. Giáo Sư Moise đă nói đúng
về nhân viên đều là những người
xuất sắc. -
Về Trang Bị Và Công Tác Tác
giả Điệp Mỹ Linh trong cuốn “Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa Ra Khơi” viết: “Các khinh
tốc đĩnh (PT - Motor Torpedo Boat) dài độ 80
feet, vỏ bằng nhựa, máy chạy bằng dầu
cặn, được đóng tại Na Uy, vận
tốc trên 50 hải lư một giờ. Các PT thuộc
Sở Pḥng Vệ Duyên Hải có biệt danh là
“Nasty” và “Swift”. Mỗi PT thường được
trang bị: một súng cối 130 hoặc 81 ly, quay và
nhắm được, đặt sau đài chỉ huy;
hai đại liên 50 đôi đặt hai bên và một
trọng pháo pḥng không 40 ly, hai ṇng, bắn tự động.”
(trang 69). Cũng tại trang 69: “Sau khi thi hành công tác
từ Bắc về, tinh thần và thể chất quân
ta mệt mỏi, ră rời, PT Hải Quân Việt Nam
Cộng Ḥa thường bị PT Việt Cộng
chận đánh, khoảng Ḥn Cọp. PT
Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa cũng thường
bị MiG Bắc Việt (bay từng cặp) phát giác
bằng radar và dùng hỏa tiễn tầm nhiệt
tấn công. Việt Cộng thường dùng loại tàu
Kronstad, vận tốc độ 35 hải lư một
giờ và loại P4, vận tốc 65 hải lư một
giờ và trang bị 6 giàn đại liên 50 đôi
để tấn công PT Nam Việt Nam”. -
Các PTF vỏ bằng ván ép hoặc bằng nhôm, không
phải bằng nhựa. -
Chỉ có PTF do Na Uy đóng có biệt danh là “Nasty”, c̣n
“Swift” là biệt danh của PCF. -
PTF chỉ có súng cối 81 ly đặt TRƯỚC
đài chỉ huy, không có súng cối 130 ly; c̣n PCF súng
cối 81 ly mới đặt sau đài chỉ huy. PTF
không có đại liên 50, chỉ có đại bác 20
đặt bên hông. Đại bác 40 ly một ṇng, không
phải loại hai ṇng. Quân ta khi đi công tác về
tuy hơi mệt mỏi sau một đêm thức
trắng, nhưng không đến độ “ră
rời”. PTF
không “thường” bị PT Việt Cộng chận
đánh khoảng Ḥn Cọp. Lư do v́ đa số PT
Việt Cộng đă bị đánh ch́m; chiếc nào c̣n
lại chỉ lẩn trốn trong bờ, không giám nghênh
chiến với các PTF trội hơn về hỏa
lực cũng như tốc độ, ngoài ra các PTF c̣n
có thể gọi phi cơ Hoa Kỳ trợ chiến khi
cần. Chúng tôi c̣n nhớ trong chiến dịch “Double
Tango”, các PTF phong tỏa và pháo kích Ḥn Cọp liên
tiếp cả tháng trời, không thấy có PT Bắc
Việt nào chận đánh. Trong suốt 5 năm ở
LLHT với trên 100 chuyến công tác, chúng tôi cũng chưa
hề nh́n thấy một PT Việt Cộng nào bằng
mắt thường. Ban đêm cũng chưa từng
“phát hiện” (track) được chiếc nào
bằng radar. Theo chúng tôi được biết, trong hàng
ngàn chuyến công tác, chỉ có vài ba cuộc đụng
độ giữa PTF và các PT Bắc Việt. Bắc
Việt gọi Ḥn Cọp là Cồn Cỏ. Nói đến
ḥn đảo này, môt Hạm Trưởng PTF cho
biết: -
Tầu Kronstad tốc độ tối đa lư
thuyết chỉ lên đến khoảng 28 hải lư
một giờ; Việt Cộng chưa chắc đă có
loại tầu này. C̣n P-4 vận tốc tối đa 45
hải lư một giờ. -
Trang Bị Và Huấn Luyện Tác
giả Vương Hồng Anh trong bài “Biệt Hải
và Hải Tuần: Trận chiến với CQ ở Duyên
Hải” đăng trong Việt báo Kinh Tế ngày
3/12/99, viết: “... Các cố vấn Hải Quân SOG
đă biến cải 12 giang tốc đĩnh Swift để
xử dụng trong các cuộc hành quân bí mật.
Với vận tốc 80 km/giờ, các giang tốc
đĩnh được vơ trang với đại bác
40 ly và các vũ khí nhẹ. SOG đă đưa thủy
thủ đoàn giang tốc đĩnh và các biệt kích
từ Long Thành đi huấn luyện xâm nhập bờ
biển và oanh kích vùng cận duyên, các toán này
được huấn luyện tại môt căn cứ
bí mật ở phía nam gần Sài G̣n. Các giang tốc
đĩnh đă tập dượt chạy ngoài khơi
miền Nam Việt Nam xa bờ từ 100 đến 110 km
để có thể tiến gần từ ngoài biển
vào Bắc Việt v́ con đường biển sát
bờ rất đông thuyền bè qua lại khó ḷng mà
lọt và không bị theo dơi phát hiện”. Sự
Thật: Swift
không phải là GIANG Tốc Đĩnh mà là DUYÊN
Tốc Đĩnh. Giang Tốc Đĩnh (Patrol, Boat River
- PBR) là loại tầu nhỏ, vỏ bằng Fiberglass.
Chiến đĩnh ngoài biển có thể hoạt động
trong sông, nhưng ngược lại, các giang đĩnh
khi ra biển rất dễ bị sóng đánh ch́m,
nhất là khi chạy xa bờ từ 100 đến 110
km. Các thủy thủ đoàn PTF và Swift đều
được huấn luyện tại vùng biển
Đà Nẵng. Hải tŕnh các chuyến công tác cũng
thường song song với bờ biển Bắc
Việt, rất ít khi xa bờ tới 100 km. -
Căn Cứ Hải Quân Việt cộng Tác
giả Vương Hồng Anh cũng viết về
“Chuyến đột kích phá tàu CSBV ở Ḥn
Cọp” như sau: “Chuyến công tác đầu tiên là
toán Người Nhái bí mật đột kích phá
hoại tàu của quân CSBV ở Ḥn Cọp...” Sự
Thật: Việt
Cộng không có căn cứ Hải Quân tại Ḥn
Cọp và tại đây cũng không có băi ủi hay
chổ neo tầu. Căn cứ Hải Quân của VC
gần Vĩ tuyến 17 nhất là Đồng Hới.
Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là
chuyến công tác nhắm vào căn cứ Quảng Khê
nằm ở cửa sông Gianh. -
Thủy Thủ Đoàn Những
nhân viên Hoa Kỳ phụ trách việc huấn luyện
có thực sự đi theo những chuyến công tác vượt
vĩ tuyến 17 không? Mặc dù bị chính sách Hoa
Kỳ nghiêm cấm, nhưng điều này có được
tuyệt đối tôn trọng không? Theo Đại Tá
Bucklew, Chỉ Huy Trưởng Toán Yểm Trợ Hành Quân
Hải Quân chịu trách nhiệm về các nhân viên Hoa
Kỳ hoạt động cho MACSOG, th́ điều
luật này thường hay bị vi phạm (habitually
violated the prohibition). Sử gia Moise cũng phỏng
vấn Đại Tá Bucklew về vấn đề này và
viết trong cuốn sách của ông như sau: “Thực
ra, Đại Tá Bucklew biết rằng không có trường
hợp nào các PTF ở Đà Nẵng đi công tác mà
không có nhân viên Hoa Kỳ đi theo. Ông nhớ ràng chính
người Mỹ điều hành chiến đĩnh,
trong khi nhân viên Việt Nam đi đóng vai tṛ phụ
việc. Ông cũng nói là vào khoảng năm 1964, đă
có đề nghị để sĩ quan và thủy
thủ đoàn Việt Nam điều hành chiến
đĩnh trong những chuyến công tác, nhưng đề
nghị này đă bị bác bỏ v́ người
Việt Nam không đủ khả năng” (trang 16) -
(Indeed, he is not aware of any cases in which the PTFs from Danang went on
combat operation without American personnel aboard. His
recollection is that the Americans were running the boat, with the
Vietnamese along in what was essentially an apprenticeship role. He states
that there were suggestions during 1964 that Vietnamese officers and men be
given actual responsibility for handling the boats on combat missions, but
that these suggestions had been opposed on the grounds that the Vietnamese
did not have the skills”. Cũng
theo sử gia Moise, trong cuộc phỏng vấn ngày
10/3/88, “Đô Đốc Roy L. Johnson, Tư Lệnh
Đệ Thất Hạm Đội kể từ tháng
6/64, nhớ lại rằng thủy thủ đoàn
Việt Nam đă chứng tỏ rằng không tin tưởng
được. Khi đi công tác ngoài Bắc, đôi khi
họ chỉ chạy ḷng ṿng vài tiếng đồng
hồ ngoài biển rồi khai gian là đă hoàn thành công
tác giao phó. Do đó, thủy thủ đoàn người
Hoa Kỳ đă phải được dùng để
thay thế người Việt Nam. Đô Đốc
Johnson cũng “khá chắc chắn” rằng vào
khoảng tháng 8/64, thủy thủ đoàn Hoa Kỳ
đă được dùng trong các công tác đột kích
duyên hải Bắc Việt. Nếu sự thay đổi
không phải là vào lúc này th́ cũng chỉ ít lâu sau
đó” (trang 16) - (Vice Admiral Roy L. Johnson, commander of the U.S.
Seventh Fleet starting in June 1964, recalls that the Vietnamese crews had
proved unreliable. When sent out to an operation against the North, they
sometimes just cruised around in circles for a few hours off shore, and then
filed a false report claiming that they had conducted the assigned
operation. Admiral Johnson is “pretty sure” that American crews were
used on raods against the Nort Vietnamese coasts by August 1964; if the
change had not come by this time, it come soon after”. Sự
Thật: Trong
những chuyến công tác vượt vĩ tuyến 17
qua hải phận Bắc Việt, KHÔNG hề có người
Mỹ đi theo. Việc thủy thủ đoàn người
Hoa Kỳ đưa PTF ra Bắc công tác chỉ có trong
trí tưởng tượng của ông Tư Lệnh
Đệ Thất Hạm Đội, v́ lúc nào ông cũng
nghĩ rằng chỉ có những thủy thủ
của ông mới tin tưởng được. Trong
nhiều trường hợp, thực tế đă
chứng tỏ một hạm trưởng PTF thâm niên
biết nhiều về chiến đĩnh và đáng
tin tưởng hơn những “cố vấn” chân
ướt chân ráo mới tới rất nhiều. Ngoài
ra, các PTF khi đi công tác phải theo hải tŕnh
vạch sẵn tới những “check point” vào đúng
giờ giấc ấn định để lực lượng
bạn không ngộ nhận với tầu địch, v́
vậy không hề có chuyện chạy ḷng ṿng. Về
vấn đề “người Mỹ” này, một
hạm trưởng phục vụ lâu năm tại LLHT
cho biết như sau: “LLHT
có lẽ là đơn vị độc nhất của
QLVNCH mà trong 8 năm chiến đấu trong ḷng địch
không có một cố vấn Mỹ nào đi theo, các
cố vấn NAD chỉ có nhiệm vụ yểm
trợ, t́nh báo, tiếp vận và sửa chữa
tầu. T́nh cảm của họ đối với chúng
tôi tất là sâu đậm. Đôi khi một vài Sĩ
Quan hay Hạ Sĩ Quan Mỹ nói đùa thế nào
họ cũng đi công tác với chúng tôi một
lần. Không ngờ nói chơi mà hóa thật. Trong
một chuyến công tác do anh H. làm Phân Đội Trưởng,
tôi đi vị trí hai. Vừa qua khỏi vĩ tuyến
17 th́ đột nhiên có hai anh chàng Hạ Sĩ Quan
Trọng Pháo Mỹ từ hầm tầu bước lên,
mặt mày hớn hở t́nh nguyện đặt dưới
quyền chỉ huy của tôi trong chuyến công tác này.
Tá hỏa, tôi báo cáo cho anh H. xin quyết định.
Anh H. báo cáo ngay về pḥng hành quân; chỉ 10 phút sau,
lệnh khẩn cấp yêu cầu phân đội quay
về hậu cứ ngay lập tức. Vừa
đến cầu tầu là đă thấy xe bít bùng
chở hai ông bạn Mỹ thích phiêu lưu lên phi trường
về nước ngay lập tức. Cũng vui là
chuyện này chỉ xảy ra có một lần”. Trần Đỗ Cẩm |