NHÀ
LƯ LUẬN NGUYỄN GIA KIỂNG Đại-Dương
Sept 1-2001 |
Với
cương vị sáng lập Tổ chức chính
trị Thông Luận, với tham vọng qui tụ
quần hào trong Tập hợp Dân chủ Đa nguyên, ông
Nguyễn Gia Kiểng hẳn phải có tŕnh độ lư
luận sắc bén và chính xác. Tiếc thay, lập
luận trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn đă
phản lại lư thuyết gia Nguyễn Gia Kiểng. Những
chữ trong ngoặc <<..>> được trích
từ tác phẩm nêu trên. <<Tôi
nghĩ rằng trong thâm tâm không nhiều th́ ít ai cũng
yêu nước, và người cộng sản cũng
thế, tr 4>>. <<Tôi
đă nghiên cứu, quan sát và tâm t́nh với rất
nhiều người cộng sản ở mọi tŕnh
độ và đi đến kết luận quả
quyết rằng đại đa số những đảng
viên cộng sản đă theo đảng v́ chủ nghĩa
chứ không phải v́ ḷng yêu nước, tr
65>> Hai
trích đoạn trên đă thể hiện tính chất
mâu thuẫn trong lối lập luận của ông
Kiểng. Không biết hoặc thiên kiến đều là
kẻ thù của lư luận gia.
Trong lĩnh vực lịch sử: <<Cho
nên ḷng yêu nước của người Việt, mà
mọi người quả quyết là mạnh, có
thể chỉ là một sự hiểu lầm, tr 65>>. Nước
Việt nằm sát nách ông láng giềng khổng lồ
và đầy tham vọng mà không bị nuốt
chững lại vẫn hiên ngang tồn tại tất
phải nhờ vào ḷng yêu nước vô bờ và tinh
thần quật cường của ṇi giống. Cách
cai trị hà khắc của nhà Minh, chiến tranh man
rợ kiểu quân Mông Cổ đă không xóa sổ
hoặc đồng hóa được nhược
quốc phương Nam. Ḷng
yêu nước tiềm ẩn trong con người
Việt Nam. Nó trở nên mạnh hay yếu tùy thuộc
vào phương pháp vận động quần chúng
của nhà lănh đạo hoặc tổ chức chính
trị. Ông
Kiểng đă viện dẫn các dữ kiện
lịch sử (như việc tranh bá đồ vương
của thời kỳ bộ lạc, sứ quân, phong
kiến; như nạn bách hại Công giáo thời nhà
Nguyễn; như chuyện dân Sài G̣n <<đánh
Bắc kỳ>> năm 1946; như vụ Hồ Chí
Minh tiêu diệt các đảng phái quốc gia, thực
hiện chính sách Cải cách Ruộng đất) để
kết luận <<từ bốn thế kỷ qua,
đất nước Việt Nam ít khi là một, c̣n dân
tộc Việt Nam th́ chưa bao giờ là một,
tr 144..Nó chứng tỏ người Việt Nam độc
ác với nhau, và do đó không đáng với tên
gọi là một dân tộc,
tr 146>>. Dữ
kiện đưa ra đúng, nhưng, lập luận
sai. Tŕnh
độ văn minh của con người trong thời
kỳ bộ lạc và sứ quân thể hiện
bằng bạo lực để tồn tại. Loài người
trong giai đoạn đó ở bất cứ chỗ nào
trên trái đất đều hành xử giống nhau. Dân
tộc Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tranh
bá đồ vương là đặc tính của
thời đại phong kiến. Quốc gia được
h́nh thành từ tham vọng và sức mạnh của
một cá nhân hoặc ḍng họ. Do đó, vua đồng
nghĩa với đất nước và lê dân bá tánh
đều là thần dân (nôm na là nô lệ). Có nước
nào, xứ nào trên hành tinh của chúng ta đă thoát
khỏi tiến tŕnh lịch sử này? Đất
nước độc lập v́ không bị ngoại
bang thống trị nhưng lê dân vẫn là nô lệ
của vua chúa. Họ chém giết, độc ác với
nhau v́ mệnh vua chứ không v́ hận thù dân tộc.
Khi triều đại đổi thay, dân chúng chấm
dứt việc sát hại và sống chan ḥa với nhau
như từng diễn ra khi hết giai đoạn
Trịnh Nguyễn phân tranh ngoại
trừ một vài cuộc trả thù cá nhân. Hoặc
cuộc chiến ủy nhiệm 1954-75 ngoại trừ chính
sách hận thù giai cấp của đảng Cộng
sản Việt Nam. Bách
hại Công giáo là một vết nhơ dưới
triều Nguyễn. Tuy nhiên, các cuộc Thập tự
chinh của La Mă có qui mô to lớn bội phần. Trong
cuộc công du tại Trung Đông năm 2001,
đương kim Đức Giáo Hoàng đă chính
thức xin lỗi Hồi Giáo. Sự bách hại người
theo đạo Tin Lành đă tạo thành nhiều đợt
di dân sang Tân Thế Giới. Như thế, bách hại
tôn giáo là một đặc tính trong thời kỳ
tranh chấp thần quyền, giáo quyền. Hằn thù Công
Giáo chấm dứt khi triều Nguyễn băi bỏ
chủ trương “sát tả”. Chuyện
“đánh Bắc Kỳ” chỉ xảy ra một
thời gian ngắn ngũi do sự xách động
của một thế lực và mưu đồ chính
trị. Hai triệu người Bắc di cư năm
1954 chẳng những ḥa cùng nhịp sống của người
Nam mà c̣n chung lưng đấu cật trong cuộc
chiến dai dẳng, khốc liệt nhằm bảo
vệ tự do cho Việt Nam Cộng Ḥa. Hồ
Chí Minh tiêu diệt các đảng phái quốc gia,
tiến hành Cải cách Ruộng đất để
đưa đất nước vào quỷ đạo
quốc tế vô sản. Đảng viên cộng
sản thi hành chỉ thị với ḷng hận thù giai
cấp. Nó không mang màu sắc dân tộc khi họ
xuống tay hành quyết kẻ thù giai cấp. Không
lẽ Thiên Triều sai Tổng đốc Lưỡng
Quảng đem 20 vạn quân sang Việt Nam chỉ để
đặt Lê Chiêu Thống lên ngai vàng? Đội quân
đó có thể dùng chuẩn bị đối phó
với Nguyễn Huệ. Trước khi điều quân
chắc Thiên Triều đă biết rơ thực lực
của Tây Sơn. Tây
Sơn đă án binh bất động và chỉ gởi
một đội binh nhỏ “phải đánh thua”
để cho quân Tàu khinh thường và tự măn
đi vào cỏi chết. Ông
Kiểng chỉ là một sĩ quan văn pḥng nên không
thể hiểu được mưu mẹo của
một người quen với “cật ngựa thanh gươm”.
V́ thế, nên mới có can đảm đánh giá
khả năng Nguyễn Huệ <<c̣n về
kiến thức binh bị th́ nếu sống lại bây
giờ, tôi không chắc là ông ấy có được
một nữa kiến thức của một hạ sĩ
quan>>. Sáng
lập viên Thông Luận dè bỉu tiền nhân thích dùng
bạo lực và <<người Việt Nam có tâm
lư tôn thờ bạo lực rất mạnh. Bạo
lực càng nhiều, công đức càng cao, tr 96>>.
Khái
quát có 2 loại bạo lực: bạo lực thống
trị và bạo lực tự vệ. Dùng
bạo lực để xâm lăng nước khác, áp
đặt sự thống trị là việc làm đáng
chê trách, khinh bỉ. Tuy nhiên, sử dụng bạo
lực để tự vệ, thoát khỏi gông cùm áp
bức là hành động đáng ca ngợi. Liệu
Thiên triều có để yên khi nước ta thiếu
những người biết sử dụng bạo
lực tự vệ hay không? Ông
Kiểng tin rằng, nếu người Việt chịu
quỳ gối, khấu đầu với Bắc Phương
th́ sẽ có ḥa b́nh độc lập tự chủ? Chúng
ta giải thích như thế nào thời gian Bắc
thuộc hàng ngàn năm? Và những giai đoạn
tự chủ ngắn ngũi lại do kết quả
của bạo lực tự vệ?
Trong lĩnh vực văn hóa Ông
Kiểng kết án Nho giáo là nguyên nhân gây ra t́nh
trạng tụt hậu chậm tiến của đất
nước ta. Khổng Tử là nhân vật trung tâm
để ông Kiểng châm chọc. Nhận
xét của ông Kiểng đối với Nho giáo,
Khổng Tử chứa đầy thiên kiến nên
lập luận mang tính vơ đoán. Một
học thuyết, triết lư do một cá nhân đưa
ra thường được người đồng
thời hoặc hậu bối sửa đổi và phát
triển nhưng vẫn mang danh nghĩa của tác
giả ban đầu. Khổng Giáo cũng không ngoại
lệ. Khái
niệm dân chủ xuất hiện hàng ngàn năm trước
đă biến thiên theo thời gian và thích ứng
với từng thời đại. Không ai thóa mạ
nguyên ủy thô sơ của dân chủ. <<có
thể với thời gian ư nghĩa của danh từ
tiểu nhân, quân tử đă biến đổi … thường
coi sĩ và quân tử là những giá trị tinh
thần , biểu tượng một nhân cách, một
đạo đức và họ hay đồng hóa sĩ
và quân tử với sự cao thượng>>.
Ngày
nay, có ai c̣n coi khái niệm dân chủ ban sơ như là
khuôn vàng thước ngọc? Người Á Đông cũng
chắc lọc tinh túy của Khổng Giáo và giữ
lại ư nghĩa cao thượng để mô tả sĩ
và quân tử. Giá trị đó có cần bài xích hay không? <<Nếu
hiểu “hiếu” là kính trọng và tận tụy
với cha mẹ, “nhân” là thương yêu người,
“lễ” là giữ lời hứa và tôn trọng
mọi cam kết, “trí” là cố gắng để
đạt tới sự hiểu biết rộng th́ dĩ
nhiên đó là những giá trị của mọi xă
hội và mọi nền văn minh chứ không phải
là của riêng Khổng Giáo, tr 294>>. Những
giá trị được Khổng Giáo dạy dỗ
mang tính phổ cập của mọi xă hội, mọi
nền văn minh th́ tại sao lại phải bác
bỏ? Ông
Kiểng lên án óc thủ cựu của Khổng Giáo <<Tôn
chỉ “thuật như bất tác” chỉ lập
lại mà không sáng tạo … không t́m cái mới mà thù
ghét cái mới, tr 300>>.
Nhận
xét đó lại bị phản bác bởi chính ông <<Nhờ
trường tư mà Khổng Tử đă đào
tạo ra hàng ngàn sĩ tử … Các nhà trí thức
lỗi lạc sau này dù vượt xa Khổng Tử và
bài bác Khổng Tử cũng đều là những
hậu bối tinh thần của Khổng Tử, tr
284>> Những
nhà tư tưởng sau Khổng Tử
như Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi, Công Tôn
Long, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Vương
Thông … đều xuất thân từ ḷ Khổng Giáo nên
không thể kết tội trường phái này gây nên
sự tŕ trệ của tư tưởng. Văn
hóa là một tiến tŕnh thẩm thấu, biến
cải và thích ứng với cuộc sống. Áp đặt
và bài xích đều là thái độ cực đoan
dễ dẫn tới những hậu quả khốc
liệt đối với đất nước dân
tộc như “cách
mạng Đại văn hóa của Mao Trạch Đông”,
“cách mạng văn hóa tư tưởng của
Cộng sản Việt Nam. Những
tưởng quan điểm mác xít đă bị vùi chôn
trong đống gạch vụn của chiếc nôi xă
hội chủ nghĩa. Bổng dưng lại xuất
hiện trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của
ông Nguyễn Gia Kiểng <<Công lao giữ nước
như vậy không phải do các vua chúa, các anh hùng, các
công hầu khanh tướng, cũng không do giới sĩ
phu mà hoàn toàn do những người nông dân Việt
Nam, tr 249>>. Chính
trị là lĩnh vực chuyên tâm của ông Kiểng.
Nhưng, phương pháp lư luận h́nh như chẳng
thông.
Trong lĩnh
vực chính trị Công
cuộc giữ nước là một hành động
tập thể, toàn diện. Mọi thành phần dân chúng,
tầng lớp xă hội đều trực tiếp tham
gia và có công như nhau. Thông thường, người
nông dân chỉ giữ vai tṛ thừa hành tích cực và
cần thiết. Đám mác xít cố t́nh nhét vai tṛ lănh
đạo cho công, nông. Thực tế, những nhà lănh
đạo Cộng sản Việt Nam như Hồ Chí
Minh, Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp không phải
xuất thân từ nông dân. Những thập niên
1950-60-70 quan điểm mác xít tràn ngập xă hội
cộng sản. Kể từ giữa thập niên 1980,
kiểu nói như trên không c̣n ăn khách nên đảng
Cộng sản Việt Nam cũng chẳng dám huyênh
hoang. <<Thái
độ châu chấu đá voi của triều
Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố
bịch bằng thái độ của những người
đă thảm bại và thua chạy nhưng
vẫn nhất định đ̣i những người
cộng sản phải tỉnh ngộ quay về với
chính nghĩa quốc gia>>. Bằng
giọng điệu miệt thị kẻ khác, ông
Kiểng cũng không che dấu được lối lư
luận hàm hồ. Triều
Nguyễn có quân đội, vũ khí, dân chúng và danh
nghĩa quốc gia độc lập để chống
xâm lược. Họ thua v́ khiếm khuyết về lănh
đạo, sai lầm về chiến lược,
chiến thuật chứ không do thái độ châu
chấu đá voi. Khi triều Nguyễn hàng giặc th́
lập tức họ mất dân và đất nước
chịu sự thống trị của thực dân Pháp
suốt 2/3 thế kỷ. Trong thời gian đó, người
Việt yêu nước, hết lớp này tới
lớp khác vẫn tiếp tục chống lại
sự đô hộ của giặc Pháp. Tinh thần kháng
Pháp được nuôi dưỡng và bùng nổ mănh
liệt vào Mùa Thu năm 1945. Tổ
chức Thông Luận rồi Tập Hợp Dân Chủ
Đa Nguyên của ông Kiểng cũng có tham vọng
thay thế sự thống trị độc tài của
đảng Cộng sản Việt Nam bằng hoạt
động đối lập nghị trường. Tổ
chức của ông Kiểng c̣n thua xa Nguyễn triều
về thế, lực, danh nghĩa và địa lợi.
Phải chăng ông Kiểng cũng thuộc loại châu
chấu đá xe? Bất
cứ hoạt động chống chính quyền nào cũng
manh nha từ một nhóm người. Nó từ từ
lớn mạnh khi lănh đạo biết tổ chức
quần chúng và có đường lối chỉ đạo
đúng cùng với quyết tâm sắt đá. Nếu không,
sẽ bị đối phương lũng đoạn
hoặc biến thành công cụ chiến lược. V́
thế, tổ tiên ta đă nói “Nực cười châu
chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngă ai
ngờ xe nghiêng”. Đảng
viên Cộng sản bỏ Tổ quốc để
phục vụ Quốc tế Vô sản. Bây giờ
họ thức tỉnh quay về với dân tộc
tức là chính nghĩa quốc gia. Nếu không từ
bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin sao gọi là thức
tỉnh? Chính nghĩa quốc gia không phải là ông
Kiểng, ông A, bà B mà là dân tộc Việt Nam. Thời
Đệ nhị Thế chiến, nhiều người
Pháp như tướng Charles De Gaulle đă thảm
bại v́ quân Đức đành phải bỏ chạy
sang Anh Quốc lập chính phủ lưu vong. Trong khi
đó, một số khác hợp tác hoặc phục
vụ cho Đức quốc xă. Chính phủ lưu vong
vẫn kêu gọi người Pháp đang phục
vụ cho Đức phải trở về với dân
Gaulois. Lời
kêu gọi đảng viên Cộng sản trở về
với chính nghĩa quốc gia của những kẻ
chiến bại chẳng có ǵ sai trái. Ông
Kiểng cũng thuộc loại thảm bại đang
sống lưu vong và mang tham vọng
lật đổ chế độ cộng sản
bằng phương pháp bất-bạo-động.
Đừng v́ thế, mà miệt thị những kẻ
không chịu đứng dưới cây gậy chỉ
huy của ḿnh. Muốn ḥa hợp với người khác,
tốt nhất ông Kiểng nên tránh thái độ độc
quyền chân lư. <<Không
lẽ trong cả mấy chục năm trường
những trí thức xuất sắc như thế
lại không nhận ra thực chất tồi tệ
của những người lănh đạo cộng
sản ... những trí thức không cộng sản cũng
đă từng phục tùng những công cụ chẳng
ra ǵ của ngoại bang … đă đem hết tâm
huyết hô hào biết bao thanh niên bỏ ḿnh cho một
lư tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông
Diệm, ông Nhu, hay một “chính nghĩa quốc gia”
không hề có trong đầu óc các ông Big Minh,
Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, tr 311>>. Trước
thập niên 1980, thiên tả là thời trang của trí
thức khắp toàn cầu. Trí thức dưới
chế độ khắc nghiệt của cộng
sản đă tự giác hoặc bị bắt buộc
phải cuồng tín. Họ không nhận chân được
tính chất tồi tệ và không tưởng của
chủ nghĩa cộng sản; hoặc biết mà
chẳng dám nói như lời thú nhận cuối đời
của Nguyễn Tuân “Tớ sống con nhờ biết
sợ”. Lănh
tụ cộng sản từ Hồ Chí Minh trở
xuống đều là công cụ của Đệ tam
Quốc tế bằng vào các văn kiện căn
bản trong lịch sử đảng Cộng sản
Việt Nam. Ngược lại, các nhà lănh đạo
Việt Nam Cộng Ḥa có thể vụng về, yếu
thế trước đồng minh nhưng chưa có văn
kiện căn bản nào chứng tỏ vai tṛ tay sai
của họ. Tại miền Nam vĩ tuyến 17,
bất cứ ai lên nắm chính quyền cũng đều
bị gán cho nhăn hiệu tay sai Mỹ hoặc làm
việc cho CIA. Đây là loại tâm lư bệnh hoạn
cần xét lại hoặc bị tiêm nhiễm bởi
lối tuyên truyền xám của Cộng sản.
Trong
t́nh trạng chiến tranh, dân chủ có thể bị
hạn chế để đổi lấy an ninh
quốc gia. Hoa
Kỳ đă áp dụng biện pháp kiểm soát
chặt chẽ người Mỹ gốc Nhật trong
Đệ nhị Thế chiến. Tổng
thống Đại Hàn Chung Đô Hoan từng đàn áp
thẳng tay cuộc nổi dậy của thành phần
thiên tả tại Đại học Quang Du làm thiệt
mạng 2,400 sinh viên. Phong trào thiên tả xẹp
xuống và quân đội Bắc Triều Tiên chỉ có
thể đe dọa hoặc xách động từ bên
kia giới tuyến. Ngược lại, sự
thiếu-quyết-đoán của chính quyền Ngô Đ́nh
Diệm đă tạo điều kiện thuận
lợi cho Hà Nội lũng đoạn chính trường
và xă hội miền Nam. Các
ông Minh, Khánh, Thiệu ... tuy yếu kém về lănh đạo;
thiếu tầm nh́n chiến lược; sai lầm
về chiến thuật, nhưng họ chưa kư
một văn kiện nào có tính chất bán nước. Ngược
lại, Thủ tướng nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa, Phạm Văn Đồng đă
gởi văn kiện thừa nhận chủ quyền
của Trung Cộng trên quần đảo Hoàng Sa trong
khi Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa đang ra sức
bảo vệ. Tổng bí thư Lê Duẩn nhượng
đứt cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam
Ranh mà không trả xu nào từ năm 1976 cho đến
2002 khi Tổng thống Vladimir Putin chẳng cần
nữa. Đền thờ của Lê Duẩn vẫn
khắc câu “Ta đánh Pháp, đánh Mỹ là đánh
cho Liên Sô, là đánh cho Trung Quốc”. <<vấn
đề đối lập của Việt Nam sau năm
1975 là phải tận dụng sự thức tỉnh
của những người
cộng sản tiến bộ để ḥa giải
với họ và cùng họ h́nh thành một kết
hợp dân chủ mới, tr 203>> Ông
Kiểng đề cập nhiều đến dự án
tương lai chung như một điều kiện
để h́nh thành Tập Họp Dân Chủ Đa Nguyên.
Nhưng,
những người cộng sản thức tỉnh như
Hà Sĩ Phu, Trần Độ.. có cùng dự án tương
lai chung với Thông Luận hay không? Trong
các bài tiểu luận, Hà Sĩ Phu chủ trương
đảng cộng sản tiếp tục cầm
quyền. Nếu cần tách làm hai thành lưỡng
đảng. Người quốc gia chỉ có quyền
phụ họa. Trần
Độ nói thẳng “Chúng ta xây dựng một
nền dân chủ xă hội chủ nghĩa”. Ông
Kiểng tính họp với họ để chống
đảng cộng sản đương quyền. Sau
đó lại quay sang chống nhau v́ không cùng chung con
đường tương lai. Chuyện
này đă diễn ra trong thời kỳ Quốc-Cộng
hè nhau chống Pháp. Lịch sử sẽ trừng
phạt những kẻ cố t́nh quên đi bài học
thực tiễn! Có
lẽ mục đích chính của cuốn Tổ
Quốc Ăn Năn nhằm biện minh cho chủ trương
Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân tộc cũng như phương
pháp đấu tranh bất-bạo-động của ông
Kiểng và nhóm Thông Luận, Tập Họp Dân Chủ
Đa Nguyên. <<Khi
nhóm Thông Luận đề xướng ra lập trường
Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân Tộc, cái nh́n của chúng
tôi không phải chỉ hạn hẹp trong khuôn khổ
cuộc tranh chấp quốc gia-cộng sản, mà là cái
nh́n bao quát cho cả một ḍng lịch sử đau thương
của dân tộc này … Chúng ta cần ư thức
được rằng Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân
Tộc là một vấn đề vô cùng nặng
nề và gai góc, cho nên cần được thực
hiện với tất cả quyết tâm, với
tất cả tâm hồn và với tất cả kiên
nhẫn, tr 147>>. Sở
dĩ lập trường Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân
Tộc của nhóm Thông Luận không thu hút được
sự ủng hộ của quảng đại quần
chúng v́ sai lầm trên căn bản lư luận lẫn
thực tế khách quan. Nhóm
Thông Luận cố t́nh lầm lẫn sự kỳ
thị chủng tộc, địa phương, tôn giáo,
giai cấp với hận thù dân tộc. Không
một quốc gia nào trên thế giới từ cổ
chí kim có thể thoát khỏi các căn bệnh chung
của nhân loại được nêu bên trên. Tại
các quốc gia có truyền thống dân chủ lâu đời
như Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Đức ... vẫn diễn
ra t́nh trạng kỳ thị triền miên. Tệ
nạn đó bị giới hạn tối đa nhờ
hệ thống luật pháp cưỡng hành hữu
hiệu chứ không nhờ vào lư thuyết ḥa giải
ḥa hợp dân tộc. Mọi sai phạm đều
bị luật pháp chế tài đúng mức. Bằng
chủ trương hận thù giai cấp, đảng
Cộng sản Việt Nam chia dân tộc thành 2 bộ
phận thống trị và bị trị. Nguyên nhân
của thù hận xuất phát và được bảo
vệ từ đảng Cộng sản. Nhưng, ở
trong nước, nhóm Thông Luận không chủ trương
ḥa giải với đảng Cộng sản; tại
hải ngoại lại không dung ḥa với các quan điểm
đối nghịch. Chủ
trương Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân Tộc của
nhóm Thông Luận xuất phát từ một tiền
đề ngộ nhận và bằng phương pháp
bất dung nên không có tương lai. Ḥa
Giải Dân Tộc từng là một trong những
lực lượng của giải pháp chấm dứt
chiến tranh Việt Nam theo Hiệp Định Ba Lê năm
1973. Khi Cộng sản chiếm trọn Việt Nam,
nhiều người trong lực lượng này đă
phải bỏ của chạy lấy người ra
ngoại quốc. Số c̣n lại giống như
những con gà nuốt dây thun. Họ không ḥa giải
được hận thù quốc-cộng như
từng huênh hoang mà c̣n tạo điều kiện
thuận lợi cho hằn thù giai cấp. Tổng
thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ
Văn Mẫu chủ trương đuổi Mỹ
để tạo điều kiện thuận tiện
cho việc ḥa giải và chung sống với người
anh phía bên kia. Hà Nội thương t́nh cho lưu vong
để gặm nhấm nỗi ngây thơ chính trị
và chịu sự miệt thị của đồng hương
nơi xứ người. Chả
lẽ, cứ cắm đầu giải một bài toán
từng có đáp số sai như một tên cuồng tín
hay sao? Ông
Nguyễn Gia Kiểng dè bỉu những người,
tổ chức chủ trương sử dụng bạo
lực nhằm lật đổ chế độ
Cộng sản tại Việt Nam <<Tôi không bao
giờ tán thành bạo lực, và hoàn toàn không tán thành
đường lối đấu tranh của
họ, tr 98>>. Nhưng,
chủ trương đấu tranh bất-bạo-động
của nhóm Thông Luận có hợp với lư luận và
điều kiện thực tế hay không? Người
từng áp dụng phương pháp đấu tranh
bất-bạo-động nổi tiếng nhất
thế giới và đă thành công rực rỡ là thánh
Gandhi. Hai
yếu tố quan trọng giúp cho thuyết đấu
tranh bất-bạo-động thành công tại Ấn
Độ dưới sự lănh đạo của thánh
Gandhi: bất-hợp-tác và chịu đựng. Ông
luật sư trẻ Gandhi tốt nghiệp ở Anh
Quốc muốn biến thành một nhà quí phái để
hoạt động nghị trường hầu đấu
tranh cho Ấn Độ. Nhưng, khi nhận ra sự
hợp tác với thực dân Anh bị phản bội,
ông liền chuyển hướng. Thánh Gandhi trở
về với truyền thống Ấn Độ,
bất-hợp-tác với chính quyền, kể cả
việc tẩy chay hàng hóa của người Anh. H́nh
ảnh một ông già gầy nhom, chịu đựng
những trận đ̣n hội chợ của nhà
đương cuộc đă là ngọn đuốc soi
đường cho toàn dân Ấn. Chịu đ̣n
chẳng than van nhưng quyết không xa rời yêu sách. Nhóm
Thông Luận áp dụng thể thức đối
lập nghị trường và trú sở ở Ba Lê nên
khó làm ngọn đuốc dẫn đường. Ông
Kiểng say mê mô h́nh Ḥa Lan nhưng thiếu phân tích chính
xác. Ḥa
Lan đă thực hiện cuộc cách mạng lật
đổ trước khi xây dựng nền dân chủ
phồn thịnh như ngày nay. Như thế, chứng
tỏ dân chúng Ḥa Lan đă phải sử dụng
bạo lực tự vệ là việc làm chính đáng.
Dân chúng Ḥa Lan đă không chơi tṛ đối lập
chính trị kiểu nghị trường với bọn
thống trị Tây Ban Nha. Ông
Kiểng ca tụng tinh thần thương mại
của người Ḥa Lan. Nhưng, cũng chính đầu
óc con buôn đă khiến người Hoa Lan xâm chiếm
và đô hộ Nam Dương suốt nữa thế
kỷ. Chính
bọn con buôn đă dọn đường cho chủ
nghĩa thực dân xâm chiếm thuộc địa và nô
lệ dân tộc khác. Phần
lớn con buôn thường yêu tiền trước yêu
nước và có xu hướng câu kết với chính
quyền bất chấp quyền lợi của quảng
đại quần chúng, nếu không có luật pháp
chế tài nghiêm ngặt. Thời
Pháp thuộc, con buôn nhận đặc quyền của
nhà đương cuộc để thao túng thị trường. Thời
Việt Nam Cộng Ḥa, v́ quyền lợi cá nhân, thương
gia sẵn sàng đóng thuế và lén lút buôn bán với
cộng sản trong khi bao nhiêu thanh niên phải hy sinh
mạng sống trong các hoạt động cắt đứt
binh lương của kẻ thù. Tinh
thần kinh doanh là yếu tố góp phần phồn
thịnh cho xứ sở. Nhưng, không phải là
yếu tố duy nhất trong công cuộc bảo vệ
tổ quốc, dân tộc. Xin
mượn lời của ông Nguyễn Gia Kiểng để
kết luận về cuốn Tổ Quốc Ăn Năn
<<Tôi nghĩ nên cố gắng để nói ra
những điều mới và nếu trong mười
điều mới nói ra có tới chín điều sai và
chỉ một điều đúng th́ cũng c̣n có ích
hơn là nói mười điều đúng cả mười
nhưng đều là những điều đă
biết>>.
Đại-Dương |