Những
bật mí
liên quan đển VNCH sụp đổ Trần Trung Chính |
– Hàng năm mỗi độ tháng tư
về, người Việt Hải Ngoại lại
nhớ đến những đau buồn, những
uất hận và luôn nhớ đến những
nhục nhằn mà con dân Việt đă phải cam
chịu. Suốt 46 năm qua, hầu như những tâm
sự, những chứng kiến mất mát,
những tham dự bi hùng của các quân nhân các
cấp của tất cả các quân binh chủng…đă
được tŕnh bày.
Tuy
nhiên những nhân vật trọng yếu đă từng
nắm giữ những vị trí tối thượng
của VNCH khi ra đến hải ngoại th́ không ai hé
lộ bất cứ điều khoản nào, dù
chỉ là biện minh hay bào chữa cho chính ḿnh.
Những nhân vật then chốt như Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng
Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn
Viên, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Đại
Tướng Dương Văn Minh, Thủ Tướng Vũ
Văn Mẫu…hầu hết đă qua đời
một cách lặng lẽ mà không hề có hồi kư
hay ghi chép một biến cố trọng đại
của lịch sử Việt Nam đương đại. Ghi
chú: hiện nay chỉ có Đại Tướng
Trần Thiện Khiêm (1926) sống tại San Diego và
Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh (1930) sống
tại San José, khổ nỗi 2 ông tướng này cũng
không nói, không viết nhật kư cũng như không
viết hồi kư… cho nên những “bật mí” mà người
viết nêu ra trong bài viết này đa số do luận
suy theo các diễn biến lịch sử có thật
đă xảy ra. Người viết không sử
dụng các tài liệu của bên phía VC dù tác giả
những tài liệu này là các “danh nhân” của bên
thắng cuộc, đơn giản v́ người
viết không tin vào những “sự kiện” mà
họ nêu ra, cũng như biết chắc chắn
sự diễn giải của phe thắng cuộc toàn là
“phịa sử”. Bật
Mí là cặp chữ nói lái của Bí Mật, đồng
thời cũng có nghĩa “hé mở” những bí
mật, v́ hé mở chứ không phải mở rộng
toác ra, nên độc giả tự suy diễn các
biến cố lịch sử này, chớ người
viết không thể có tài liệu bằng văn
bản hay vi film để đối chứng. Bật
mí thứ nhất: quân đội Pháp do tướng Leclerc cầm
đầu theo chân quân đội Anh – Ấn vào Sàig̣n
năm 1945 có thực sự là chiếm lại thuộc
địa Đông Dương như Việt Minh thường
rêu rao? Cuối thế chiến thứ II, các lănh tụ
các đại cường họp nhau tại Cairo, Teheran
và Yalta để phân chia thế giới là Roosevelt (Hoa
Kỳ), Stalin (Liên Sô), Churchill (Anh Quốc), Tưởng
Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc). Nước Pháp chính
phủ Vichy thân Đức nên không được coi là
Đồng Minh, Tướng Charles de Gaulle cầm đầu
phong trào Pháp Tự Do không được xem là đại
diện của nước Pháp v́ không có lănh thổ.
Hội nghị ở Postdam quy định quân đội
Anh giải giới quân đội Nhật từ vĩ
tuyến 16 xuống phía Nam, quân đội Trung Hoa
Quốc Gia sẽ giải giới quân đội
Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra.
T́nh
báo Anh- Pháp biết chắc Hồ chí Minh là
cán bộ Cộng Sản (có hồ sơ lưu trữ)
và quân đội Anh- Ấn sẽ rút về nước
sau khi hoàn tất việc giải giới, nên chính
phủ Anh lo ngại Hồ chí Minh sẽ tung cán bộ
Cộng Sản sang các thuộc địa của
Anh, do đó chính phủ Anh đồng ư cho quân đội
Pháp vào Sàig̣n (trước là Thủ Tướng
Churchill của Đảng Bảo Thủ, sau đó là
Thủ Tướng Atlee của Đảng Lao Động):
cuộc đối đầu chắc chắn sẽ
xảy ra khiến Hồ chí Minh không thể tung cán
bộ Cộng Sản qua Thái Lan và Malaysia được. Bật
mí thứ hai: các chính trị gia Việt Nam thời 1945 không
biết một chút ǵ về t́nh h́nh thế giới,
Hoa Kỳ do Tổng Thống Truman đặt mục tiêu
chính là ngăn chận “xích hóa toàn cầu”
của Liên Sô (do Stalin lănh đạo). Chứng cớ là
từ năm 1947, chính phủ Hoa Kỳ và t́nh báo
của Hoa Kỳ đă đánh bại Đảng
Cộng Sản Hy Lạp và Đảng Cộng Sản
Thổ Nhĩ Kỳ. Ba ngày trước khi đại
diện Nhật kư văn kiện đầu hàng trên
chiến hạm Missouri, Liên Sô tuyên chiến với
Nhật Bản với 2 mục tiêu: giải giới
một triệu quân Quan Đông của Nhật đóng
tại Măn Châu đồng thời tịch thu vũ khí
đạn dược và lương thực của
đạo quân này để chuyển giao cho Mao
Trạch Động. Ngay sau khi tuyên chiến, quân đội
Liên Sô ồ ạt tiến vào Triều Tiên và chỉ
ngưng lại tại vĩ tuyến 38 khi quân đội
Mỹ từ phía nam đi lên phía Bắc. Giải
giới xong quân đội Mỹ trao quyền cho chính
phủ Lư Thừa Văn và chỉ lưu lại một
số đơn vị tượng trưng. Trong khi
đó, Kim Nhật Thành tuyển mộ binh lính được
Liên Sô huấn luyện, tổ chức và trang
bị vũ khí thành các đại đơn vị. Năm
1949, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra
Đài Loan, và Mao Trạch Đông kiểm soát hoàn toàn
lục địa Trung Hoa. Bật
mí thứ ba: năm 1950 Kim Nhật Thành thừa cơ chính
phủ Lư Thừa Văn c̣n non yếu (không có quân đội
Mỹ hiện diện tại Nam Hàn) nên xua quân xâm
chiếm Nam Hàn. Chính phủ Nam Hàn phải bỏ
chạy, chỉ c̣n 10 km là ra tới biển để vượt
biển sang Nhật tỵ nạn. Điều mà Kim
Nhật Thành không thể ngờ là Đại Tướng
Mac Arthur từ Nhật Bản đă đem Hải,
Lục, Không Quân đổ bộ Inchon đánh tan
130,000 quân Bắc Hàn, bắt giữ hơn 70,000 tù binh và
quân đội Mỹ đă rượt đuổi
quân Bắc Hàn tới tận sông Áp Lục (ranh
giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Triều Tiên). Kim
Nhật Thành không hề biết rằng Đại Tướng
Mac Arthur không phải là Tư Lệnh Quân Đội Hoa
Kỳ mà Tướng Mac Arthur là Toàn Quyền tại
Nhật Bản và Triều Tiên (xin xem phương cách hành
xử của Tướng Mac Arthur tại Nhật
Bản).
Rồi Mao Trạch Đông buộc
phải đem 01 triệu chí nguyện quân do Nguyên Soái
Bành Đức Hoài sang Triều Tiên cứu viện. Tướng
Mac Arthur bị Tổng Thống Truman cách chức v́
Tổng Thống Truman không muốn Hoa Kỳ sa lầy
trong cuộc chiến với Trung Hoa, khiến Hoa Kỳ
sẽ bị mất Tây Âu vào tay Liên Sô. Cuộc
chiến tranh phải ngưng lại tại vĩ
tuyến 38 là phù hợp với thực tế hồi
1945 khi quân đội Hoa Kỳ bắt tay với quân
đội Liên Sô như hôi nghị Postdam quy định. Thỏa
ước đ́nh chiến được kư tại Bàn
Môn Điếm giữa 3 tư lệnh chiến trường
của Hoa Kỳ – Trung Cộng và Bắc Hàn v́ Trung
Cộng và Bắc Hàn chưa phải là quốc gia (không
có quốc gia nào công nhận và cũng không phải là
hội viên của Liên Hiệp Quốc). Bật
mí thứ tư: trong trận chiến Triều Tiên, chính
phủ Hoa Kỳ yêu cầu Hội Đồng Bảo An
họp khẩn cấp để đem quân đội
Liên Hiệp Quốc đến Triều Tiên nhằm ngăn
chận quân xâm lược Trung Cộng và Bắc Hàn.
Ngoại Trưởng Molotov ra lệnh cho Đại
Sứ Liên Sô tại Hội Đồng Bảo An
vắng mặt v́ Liên Sô không thể bênh vực cho 2
thực thể Trung Cộng và Bắc Hàn là 2 thực
thể chưa được công nhận là 2 quốc
gia và cũng chưa phải là hội viên của LHQ. Quân
số của các quốc gia tham chiến là 280,000 người,
Hoa Kỳ chiếm 250,000 người nên Tướng Mac
Arthur kiêm nhiệm luôn Tư Lệnh quân Liên Hiệp
Quốc. Nước Pháp dù đang bị kẹt khi quân
Việt Minh tấn công vùng biên giới Hoa Việt cũng
gửi 2 tiểu đoàn Lê Dương đi Triều Tiên,
điều đó chứng tỏ rằng nước Pháp
tham chiến cùng Hoa Kỳ tại chiến trường
Triều Tiên là để ngăn chận sự xâm lăng
của Cộng Sản. Bật
mí thứ năm : Khi Thống Tướng De Lattre De Tassigni
đi Hoa Kỳ cầu viện với Tổng Thống
Eisenhower, những thực tế đă được bàn
thảo giữa 2 vị tướng nhưng không
thấy ghi lại trong văn bản chính thức: 5.1
Nước Pháp không có khả năng chiến thắng
quân cộng sản Việt Minh, thí dụ: người
Pháp thiếu lính nên phải lấy lính từ các
thuộc địa như Maroc, Algerie, Tunisie, Trung Phi, Sénégal..Nước
Pháp cũng không có đủ vũ khí quân trang quân
dụng…Khả năng kinh tế hạn hẹp nên không
đủ sức chi trả cho trận chiến kéo dài
tại Đông Dương.
5.2
Nước Pháp và quân đội Pháp hiển
nhiên là phải rút lui khỏi Đông Dương v́ không
đủ khả năng và ư chí. 5.3
Chiến lược chung của Hoa Kỳ và Pháp là ngăn
chặn be bờ quân cộng sản Trung Cộng và
Việt Minh nên thay v́ quân đội Pháp đơn phương
rút lui, Hoa Kỳ sẽ viện trợ quân trang, quân
dụng, nhiên liệu vũ khí đạn dược…cho
quân đội Pháp với mục đích Hoa Kỳ mượn
tay quân đội Pháp đánh tan tác quân Việt Minh
nhằm sau khi ngưng chiến, quân đội Việt
Minh không đủ sức chiếm toàn thế nước
Việt Nam. 5.4
Sau khi Thống Tướng De Lattre De Tassigni trở
lại Đông Dương (thời gian ngắn sau đó
ông phải trở về Pháp trị bệnh ung thư
rồi chết bên Pháp), Hoa Kỳ đă cử Đại
Tá Landsdale sang Việt Nam: ông này chỉ tiếp xúc
với các chính trị gia miền Nam và các chỉ huy quân
sự của các lực lượng giáo phái trong khi không
có tiếp xúc với các thủ lănh các đảng phái
chính trị tại miền Trung và miền Bắc. Như
vậy, chắc chắn Hoa Kỳ sẽ ủng hộ và
yểm trợ cho lực lượng chính trị và quân
sự tại miền Nam. Điều đó cũng phù
hợp với thực tế mà hội nghị Postdam
đă qui định hồi tháng 5/1945: Trung Cộng thay
thế Trung Hoa Dân Quốc cai quản vùng đất
từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, Hoa Kỳ thay
thế Anh Quốc cai quản vùng đất từ vĩ
tuyến 16 trở về phía Nam. 5.5
Về mặt biểu kiến, khi căn cứ Điện
Biên Phủ thất thủ,binh đội Pháp tử
trận khoảng 8,000 người, tướng De Castries
bị bắt làm tù binh, rồi nước Pháp phải
kư Hiệp Định Geneve 1954 và rút toàn bộ các
lực lượng vũ trang ra khỏi Đông Dương,
nhưng nước Pháp chưa thua hoàn toàn v́ Hoa Kỳ
viện trợ cho nước Pháp qua kế hoạch
Marshall tái thiết Âu Châu, chả thế mà 6 năm sau
(1960) nước Pháp phục hồi kinh tế nhanh chóng
và trở thành một trong Tứ Cường của
thế giới (Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh ,Pháp). Việt
Cộng đáng lẽ chiếm được toàn
thể nước Việt Nam nhưng Hiệp Định
Genève quy định VNDCCH chỉ có lănh địa
từ vĩ tuyến 17 trở về phía Bắc mà thôi. Bật
mí thứ sáu: t́nh h́nh chiến sự năm 1964 và 1965 tuy sôi
động nhưng chưa quá nguy hiểm để Hoa
Kỳ phải đem ½ số quân vào Việt Nam
(Hoa Kỳ có khoảng 01 triệu quân, mà Tổng
Thống Johnson đem qua Việt Nam tới 550,000 người).
Tại sao? Quân đội Indonesia bị Cộng Sản
xâm nhập rất nhiều, chính Trung Cộng mưu toan
đảo chánh cướp chính quyền tại
Indosesia, Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để
dự pḥng nếu quân Cộng Sản giành được
chính quyền ở Indonesia. Tuy nhiên, t́nh báo Hoa Kỳ
đă giúp Tướng Suharto đảo ngược t́nh
thế, kết quả: toàn thể các sĩ quan đảng
viên Đảng Cộng Sản Indonesia tham dự đảo
chánh bị binh sĩ của Tướng Suharto xử
bắn ngay tại chỗ rồi sau đó tất cả
các đảng viên Đảng Cộng Sản Indonesia
từ Tổng Bí Thư Aidit xuống tới đảng
bộ xă ấp đều bị giết hàng loạt hơn
½ triệu người bị giết trong tuần
lễ đầu tiên). Bật
mí thứ bảy: giải quyết xong t́nh h́nh chính trị
tại Indonesia mà không cần phải xuất quân, chính
phủ Hoa Kỳ phải t́m cách rút quân về nước.
T́nh báo Hoa Kỳ dàn dựng kịch bản Tết
Mậu Thân 1968 rồi cho phóng viên cánh tả thổi
phồng lên kêu gào phản chiến để có lư do
chính đáng rút quân về nước. Chính phủ và
t́nh báo của VNCH có biết kịch bản Tết
Mậu Thân 1968 không? Có, ít nhất Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng Thống Nguyễn
Cao Kỳ và Tướng Nguyễn Ngọc Loan là
biết rơ, chứng cớ số 1: Tổng Thống
Thiệu lánh mặt trong ngày mùng Một Tết lấy
cớ là về Mỹ Tho thăm gia đ́nh bên vợ.
Chứng cớ số 2 : trước giờ đặc
công VC tấn công Ṭa Đại Sứ Mỹ trên
đường Thống Nhất, đích thân Tướng
Nguyễn Ngọc Loan ra lệnh cho trung đội CSDC
canh gác bên ngoài Ṭa Đại Sứ Mỹ rút lui
về Ty Cảnh Sát quận nhất (cách Ṭa Đại
Sứ khoảng 200 mét). Thiếu Tá Nguyễn Hữu
Hải – Khối CSĐB hỏi tướng Loan tại
sao?
Tướng Nguyễn Ngọc Loan cho
biết: “Bọn họ đang
đóng kịch với nhau, lính ḿnh ở đó
chết oan mạng không có ích lợi ǵ mà c̣n có
thể bị khiển trách v́ đặc công VC xâm
nhập vào Ṭa Đại Sứ không được”.
Sau năm 1993, tôi có gặp Trung Tá Nguyễn Hữu
Hải ở Anaheim được biết thêm : tất
cả các đặc công VC xâm nhập Ṭa Đại
Sứ Mỹ đều bị bắn hạ chết
tại khuôn viên và trong building của Ṭa Đại
Sứ, ngoại trừ tên cầm đầu c̣n
sống sót, nhưng người Mỹ đem tên này
đi mất biệt, Cảnh Sát của ta không biết
ǵ hơn. Chứng
cớ số 3: năm 1967, dưới thời chính
phủ của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung
Ương Nguyễn Cao Kỳ, Luật sư Đinh
Trịnh Chính – Ủy Viên Thông Tin được
lệnh tiếp xúc với bà Nguyễn Thị B́nh đại
diện của MTGP để mưu t́m giải pháp chính
trị cho cuộc chiến. Cuộc tiếp xúc thất
bại v́ BV chỉ muốn nói chuyện “tay đôi”
với Hoa Kỳ. Sau khi bầu cử Tổng Thống và
Phó Tổng Thống, Luật Sư Đinh Trịnh Chính
được bổ nhiệm làm Đại Sứ VNCH
tại Bangkok (Chú thích của người viết : gia
đ́nh họ Đinh có 3 anh em theo thứ tự là
Kỹ sư Canh Nông Đinh Phụng, Đinh Khang và
Luật sư Đinh Trịnh Chính. Sau Hiệp Định
Geneve 1954, ông Đinh Khang ở lại Hà Nội và
lập gia đ́nh với Phan Thị Châu Sa có bí danh là
Nguyễn Thị B́nh). Bật mí thứ tám: bọn VC
thổi phồng các thành tích của các điệp viên
nhị trùng như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân
Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn
Trọng, Mười Hương, Lê Hữu Thúy… Ngay
cả các nhà biên khảo của Hoa Kỳ cũng trách
móc các giới chức cao cấp của VNCH đă để
cho các điệp viên Cộng Sản len lỏi vào hàng
ngũ lănh đạo để nghe ngóng và ḍ la các tin
TỐI MẬT bất lợi cho VNCH. Tất
cả đều không để ư đến một chi
tiết quan trọng: tất cả những VC xâm
nhập chỉ tiếp cận trong KHỐI PHẢN GIÁN,
tuyệt nhiên không hề thấy KHỐI T̀NH BÁO bị
xâm nhập: thời đệ nhất cộng ḥa, bác sĩ
Trần Kim Tuyến phụ trách t́nh báo quốc gia, sau
1963 Trung Tá Lê Văn Nhiều, rồi Đại Tá
Nguyễn Ngọc Loan, tiếp theo là Trung Tướng
Linh Quang Viên, sau chót là Thiếu Tướng Nguyễn
Khắc B́nh. Không có bất cứ tài liệu nào liên
quan đến sự hoạt động của ngành T̀NH
BÁO được tiết lộ, ngay cả những hành
tung của các cấp chỉ huy các ngành T̀NH BÁO vừa
nêu, VC cũng không được biết. Suy ra
những ǵ mà VC rêu rao thu được thắng
lợi từ các điệp viên nhị trùng của
họ chính là những điều mà t́nh báo Hoa Kỳ
và t́nh báo VNCH muốn gửi cho cấp lănh đạo
của VC được biết. Bật
mí thứ chín: giới lănh đạo của VC huênh hoang là
chiến thắng “đế quốc Mỹ” nhưng
không để ư là HK “phỉnh quá thâm” nên thời
gian sau này biết được th́ lại không dám
thừa nhận. Thí dụ HK khen tướng Giáp không
học trường vơ bị nào hết, năm 1944
chỉ huy một trung đội mà tới năm 1968
chỉ huy một số quân đứng hạng ba trên
thế giới… VNCH tổn thất khoảng 300,00 nhân
mạng (căn cứ trên báo cáo của Nha Quân Phí khi
trả tiền tử tuất cho gia đ́nh quân nhân
tử trận, VNCH có khoảng 500,000 thương
phế binh (căn cứ theo báo cáo của Bộ
Cựu Chiến Binh), phía Việt Cộng tổn
thất nhân mạng lên tới 800,000 v́ không thấy có
thương phế binh. Sau 1975, tuy không chính thức
đưa ra con số cụ thể, nhưng mọi người
đều biết BV tổn thất 3 triệu tinh binh,
như vậy 800,000 là tổn thất do trực tiếp
giao chiến, số sai biệt 2.2 triệu là bị
giết bởi máy bay B-52. Dẫn chứng, thân nhân
của các binh sĩ BV không thể t́m ra hài cốt v́
khi trúng bom thân xác tan ra thành tro bụi đâu c̣n xương
cốt để mà t́m. Hoa
Kỳ không bao giờ công bố số tổn thất
của quân BV v́ lư do nhân đạo : tiêu diệt 3
triệu tinh binh của BV trên tống số 25 triệu
dân (125 dân số) không phải là hay ho ǵ cho cả 2 bên
lâm chiến.
Bật
mí thứ mười: những tin tức được cố ư
tiết lộ như kế hoạch lui quân của Đại
Tướng Cao Văn Viên qua “điệp
viên” Ba Minh, những tin tức HK sẽ bỏ rơi
VNCH hay những tin tức HK cắt viện trợ cho
VNCH…qua thu thập và lư giải của Phạm Xuân
Ẩn tức là cố ư khuyến khích BV (qua Lê
Duẩn và Lê Đức Thọ) mau mau đem đại
quân (14 sư đoàn/16 sư đoàn) vào Sài G̣n cướp
chính quyền, bắt Đại Tướng Dương
Văn Minh đầu hàng để Hoa Kỳ viện
cớ BV vi phạm Hiệp Định Paris 1973 nên Hoa
Kỳ không viện trợ 3 tỷ dollars tái thiết. Năm
1976, khi c̣n đang trong trại tù Cộng Sản, tôi
đọc báo trên tờ Nhân Dân cho hay, khi thống
nhất đất nước, Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam có 45 triệu dân và GOP =
Tổng Sản Lượng Quốc Gia được 4
tỷ dollars. Trong khi đó Hoa Kỳ vào năm 1976 có
2,000 tỷ dollars GOP, gia đ́nh Morgan 170 tỷ, gia đ́nh
Rockefeller 127 tỷ, những con số này chứng tỏ
rằng cả nước Việt Nam cũng không
bằng số lẻ của gia đ́nh đứng
hạng nh́ của Hoa Kỳ. Tuy
nhiên , chúng ta là những con người bị thua
thiệt nên bên cạnh sự mất mát chúng ta c̣n có
cảm giác đau đớn. Điều an ủi cho người
viết là chúng ta c̣n có cơ hội thổ lộ
tâm t́nh của chúng ta với những người
tri kỷ tri âm, mỗi năm đến tháng tư chúng
ta lại có dịp thổ lộ với những người
tâm đầu ư hợp. Chớ c̣n với bọn VC chúng
có nỗi khổ không nói ra được mới là
khổ thực sự nhất là chính bọn chúng không
tin vào “đỉnh cao trí tuệ” như chúng mà
bị bọn “tư bản dăy chết” xí gạt./. Mùa
Quốc Hận 26 tháng 4 năm 2021 Trần Trung Chính |