Phát Biểu Của Lewis Sorley Tại Hội Thảo Về Bộ Phim “Chiến Tranh Việt Nam” Của Ken Burns và Lynn Novick Chấn Minh |
Phát Biểu Của Lewis Sorley Tại
Hội Thảo Về Bộ Phim “Chiến Tranh Việt
Nam” Của Ken Burns và Lynn Novick, DoTrung
Tâm Sách Lược Và Quốc Tế Học
Viện Đại Học Johns Hopkins Bảo Trợ. Lewis Sorley là một sĩ quan bộ binh
Hoa Kỳ (hồi hưu) đă từng chiến đấu
tại Việt Nam. Ông là tác giả nhiều cuốn sách
về chiến tranh Việt Nam. Dưới đây là phát biểu
của Lewis Sorley về bộ phim “Chiến Tranh
Việt Nam” kể trên. Bây giờ th́ chúng ta, – hay ít ra là
một số người trong chúng ta – đă xem qua thiên
hùng ca về Việt Nam của ông Burns – Thế th́, chúng
ta phải nghĩ ǵ về bộ phim này? Các ư chính chỉ đạo cho câu
chuyện không có ǵ quá phức tạp: Chiến tranh là địa ngục. Có lẽ sẽ không cần đến
18 giờ để kể hết câu chuyện trên. Nhưng
mà vẫn c̣n có thêm một vụ nổ để miêu
tả, một cái xác đẩm máu để xem xét,
một cuộc bạo loạn chống chiến tranh
để nhắc lại. Nếu không phí phạm thời gian khi
kể lại phiên bản của ông Burns về câu
chuyện này, có lẽ sẽ có cơ hội để
nhắc lại: -
Chính những người cọng sản
Bắc Việt khi tấn công và xăm lăng đă gây
nên mọi đổ máu và hấp hối. -
Chiến tranh theo kiểu Cọng sản có nghĩa là
cố ư đánh bom các sân trường và chùa
chiền, giết hại các thầy giáo và viên chức
nhà nước, bắt cóc và cưởng bách thường
dân, và nă rocket vào các thành phố một các không phân
biệt. -
Dưới chế độ cọng sản, Việt Nam
vào lúc này là một trong những xă hội có tính cách
áp chế và tham nhũng nhất thế giới. -
Các “thuyền nhân” và nhưng di dân khác nay đang
sống tại Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế
giới tự do đă xây dựng được đời
sống mới cho bản thân và gia đ́nh nhờ ḷng
can đảm và tính cần cù làm việc. -
Danh sách trên có thể kéo dài hơn nửa cho đến
mức vô tận. Nhà làm phim có quan điểm ǵ? Ông Burns và các cọng sự viên đă
xuất hiện tại nhiều buổi họp nhằm
giới thiệu bộ phim trước khi chính thức
phát hành. Trong một buổi họp như thế
tại Newseum (Viện Bảo Tàng Thông Tin Báo Chí) ở
Washington (được chính họ mô tả như là
một cuộc họp của “những người gây
ảnh hưởng”), ít ai không bị ấn tượng
bởi ḷng tự tôn và tự măn của họ. Điều
thấy được là vào lúc này, họ tự xem như
là những sử gia hàng đầu về cuộc
Chiến Tranh Việt Nam. Và họ đă vô tư khi phát
biểu các kết luận cơ bản nhất của
họ. Ông Burns đề xuất ư kiến là
“bạn sẽ không t́m ra được bất cứ
tính cứu rổi nào nổi cộm được lên
trong cuộc chiến tranh Việt Nam”. Tôi hy vọng tôi
sẽ được tha thứ khi nói lên niềm tin riêng
của tôi là ông ấy đă sai trái rất sâu
sắc, như khi ông ta nhạo báng cái mà ông gọi là
“chủ nghĩa đặc biệt đă được
thổi phồng lên” của người Mỹ. Rơ ràng
là ông Burns không yêu thương nước Mỹ
một chút nào cả, và đó là một cách nh́n đă
thấm sâu vào tác phẩm của ông ta. Về công tác khảo cứu? Chúng ta nghe nói nhóm ông Burns đă làm
việc mười năm trong dự án này và trong quá
tŕnh làm việc đó đă phỏng vấn trên 80 người.
Tôi biết nhiều nhà văn, làm việc một ḿnh,
đă phỏng vấn vài trăm người chỉ cho
một cuốn sách mà thôi. Nhóm ông Burns đổ đồng
phỏng vấn 8 người mổi năm, tức là làm
một phỏng vấn trong một tháng rưởi,
trong suốt một thập niên. Riêng đối với
tôi, con số kể trên không có ǵ để được
gọi là có ấn tượng, và chắc chắn là
không có ǵ để gọi là bao quát. Tác phẩm
để đời của ông Burns có một lỗ
hổng tai hại v́ đă bỏ sót nhiều chi
tiết chủ yếu. Những người hùng của
cuộc chiến, theo ư kiến của hấu hết
những ai đă từng chiến đấu tại
đó, là các phi công trực thăng đă đổ
hay bốc lính trong bụi mù chiến trường và các
y tá. Chúng ta không thấy ǵ nhiều về những người
này. Ngược lại, chúng ta được thấy
nhiều lần một cậu Mogi Crocker tội
nghiệp, một người mà chúng ta biết ngay là
trước sau ǵ cũng sẽ phải mất mạng.
Chúng ta thấy đi thấy lại một ông tướng
không biết ǵ cả là Westmoreland, nhưng lại không
được nghe đến việc ông ta đă
từ chối cung cấp vũ khí hiện đại
cho miền Nam Việt Nam hay việc ông khinh bỉ và xem
thường chương tŕnh b́nh định. Chúng ta
hầu như không thấy ǵ về tướng Abrams,
người kế nhiệm tài ba của tướng
Westmoreland. Chúng ta hầu không thấy (và nghe) ǵ về
Wiliam Colby. Vâng vâng và vâng vâng. Các bỏ sót kể trên
là những thất bại tai hại đối với
một bộ phim tự cho là “một bộ phim tài
liệu có tầm cở bước ngoặt.” Người
ta nói rằng ông Burns và các cọng sự viên đă
quyết định không phỏng vấn các cựu viên
chức nhà nước cho bộ phim này. Làm như
thế có khác ǵ đi nghe một nhạc kịch nhưng
chỉ nghe các ca sĩ trong ban hợp ca hát một ḿnh
người này tiếp theo người kia, và không
đếm xỉa ǵ đến các danh ca hay các ca sĩ
hát giọng cao. Nếu làm như thế th́ làm sao có
thể góp phần vào việc t́m hiểu ư nghĩa
của một cuộc chiến có một tầm vóc bao
la hơn nhiều so với một nhạc kịch? Ông Burns nói
đi nói lại như một thần chú là “Không Có
Một Sự Thật Độc Nhất Trong Chiến
Tranh” khi bàn về các tư liệu ông phân phát ra. Nhưng
mà, có một cái gọi là sự thật khách quan, cho dù
sự thật khách quan đó rất khó ḷng nắm
bắt được. Qua lăng kính của ông Burns,
ở đây chúng ta chỉ có một sự thật “được
ưa thích” mà thôi. Sau cùng, ư
kiến theo đó phiên bản đầy sai trái này
về cuộc chiến và những người đă
tham chiến có thể giúp “ḥa hợp ḥa giải”
bằng cách này hay cách khác, như ông Burns đă rêu
rao, chỉ có thể đánh giá được là ngu
dại. Không có một trung vị và bộ phim của
Burns, nếu chỉ làm được một việc,
đó chính là chứng minh sự tồn tại cho đến
ngày hôm nay của một khoảng cách quá sâu và không
thể nào vượt qua được. Chấn
Minh Chuyển ngữ CSIS REMARKS By Lewis Stone “Bob”
Sorley III: The Vietnam War Now we have seen the Burns Vietnam epic,
or at least some of us have. What are we to think of it? The story line is not very complicated: War is hell. Probably didn’t need 18 hours to tell
that story. But there was always one more explosion to feature, one more
bloody body to examine, one more anti-war riot to recall. Had there been somewhat greater economy
in telling the Burns version of the story, there might have been room to
recall that: -
It
was aggression by the North Vietnamese communists that led to all this
bloodshed and agony. -
The communist way of war deliberately featured bombs in schoolyards and
pagodas, murder of schoolteachers and village officials, kidnapping and
impressment of civilians, indiscriminate rocketing of cities. -
Under communist rule today Vietnam is one of the world’s most repressive
and corrupt societies. -
The “boat people” and other émigrés now living in America and
elsewhere in the free world have with great courage and industry made new
lives for themselves and their families. -
This list could be extended almost indefinitely. What of the filmmaker’s outlook? Burns and his associates have appeared at
a large number of preview events. At one such session at the Newseum here in
Washington (billed by them as an “influencer event”) one could not help
but be impressed by their self-regard and self-satisfaction. They apparently
now view themselves as the premier historians of the Vietnam War. And they
are candid in stating their most basic conclusions. “You can find no overtly redeeming qualities of the Vietnam War,” Burns opined. I hope I may be forgiven for stating my own conviction that he is in that profoundly wrong, as he was in referring disparagingly to what he called Americans’ “puffed-up sense of exceptionalism.” Clearly Burns does not much like America, an outlook that permeates his work. What of the research? We are told the Burns team spent ten
years on this project, and that in the course of it they interviewed more
than 80 people. I know writers, working alone, who have interviewed several
hundred people for a single book. The Burns team averaged 8 interviews a
year, an interview every month and a half, over the decade. Not impressive,
at least to me, certainly not comprehensive. Crucial omissions are a damaging flaw in
the Burns opus. The great heroes of the war, in the view of almost all who
fought there (on our side), were the Dustoff pilots and the nurses. We
don’t see much of them. Instead we see repeatedly poor Mogie Crocker, who
we know right away is destined to get whacked. We see over and over again
the clueless General Westmoreland, but learn nothing of his refusal to
provide modern weaponry to the South Vietnamese or disdain for pacification.
We see precious little of his able successor, General Abrams. We see (and
hear) almost nothing of William Colby. And so on. These are serious failings
in a film that bills itself as “a landmark documentary event.” Burns and company are said to have made a
decision not to interview former government officials for the film. That’s
like going to an opera and listening only to the chorus, and them one at a
time, with the diva and the tenor silenced and ignored. How does that
contribute to an understanding of the war writ large? Burns repeats in all the materials he
distributes the mantra “There Is No Single Truth in War.” But there is
such a thing as objective truth, elusive though it may be. What we have here
is preferred “truth” as seen through the Burns prism. Finally, the idea that this deeply flawed
version of the war and those who fought it might somehow facilitate
“recon-ciliation,” as claimed by Burns, can only be viewed as fatuous.
There is no middle ground, and the Burns film demonstrates, if nothing else,
how deep and unbridgeable the divide remains. Lewis Stone “Bob” Sorley III, PhD |