THE VIETNAM WAR Chiến Tuyến Việt Nam, Từ Chủ Nghĩa Be-Bờ của Hoa Kỳ với Chiến Lược Cầm Chân, Không “Đánh Thực”, “Không-Cốt-Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN Việt Nam Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM |
Đêm 12
tháng 9, 2017 tại Kennedy Center, Washington, DC có
buổi trình chiếu tóm tắt phim [Screening of
clips] THE VIETNAM WAR, do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn
Novick bỏ ra [mười năm!?] thu thập tài
liệu để thực hiện cuốn phim 10 đoạn
[18 tiếng] này. Phim
đã được tŕnh chiếu kể từ
ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền H́nh WETA TV
26 & PBS của Hoa Kỳ, lúc 8 giờ tối
miền Đông Hoa Kỳ. Ngay
trong phần trình chiếu mở đầu
và những đoạn kế tiếp, hầu
như người làm phim tài liệu THE
VIETNAM WAR [sic] chỉ nhằm vào vài điểm
“tiền chế” để hướng dẫn
khán giả chấp nhận một thành kiến
sai lầm nhiều thiếu sót, với cố
định xoá nhoà lịch sử: 1.
Cái gọi là THE
VIETNAM WAR được dẫn giải như
sự tiếp nối của cuộc chiền chống
Thực Dân Pháp, với cái công to lớn,
độc nhất vô nhị của kép độc
muôn mặt Nguyễn Ái Quốc/Quắc/Hồ
Chí Minh, mà cố tình bỏ sót các
nhà cách mạng và các đoàn thể,
đảng phái chính trị Việt Nam khác
cũng một lòng yêu nước, chống
đô hộ Pháp. Chứng cớ khi nhắc
tới tổ chức chống Pháp dưới
danh xưng Việt Nam Độc lập Đồng Minh
Hội [gọi tắt là Việt Minh, trong đó
có nhiều “đồng minh” quốc gia Việt
Nam] cuốn phim tài liệu một chiều
chỉ coi đó là sản phẩm duy nhất
của nhóm đảng cộng sản, dưới
quyền lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc,
vốn là cán bộ Nga sô tại mặt trận
Đông Dương. 2.
Ngay cả trận cận
chiến [pitched battle] tại lòng chảo
Điện Biên Phủ, mà Quân Đội Viễn
Chinh Pháp muốn gài bẫy dụ bộ đội
Cộng Sản Việt Minh lộ diện để
tiêu diệt, đã bị trở cờ
thành thất bại. Cuốn phim không hề viện
dẫn hai lý do chính – [a] Hoa Kỳ và Anh quốc
quyết định bỏ “đồng minh” Pháp
vào giờ phút chót nên không cung cấp
phi vụ rải bom cần thiết và cũng từ
chối trực tiếp tham gia cuộc chiến
quyết liệt này như đã cam kết,
trong khi [b] Trung Cộng tăng cường tiếp
viện nhu liệu, vũ khí nặng và cử
tướng Vi Quốc Thanh đôn đốc
chỉ huy mặt trận. Trong màn ảnh
chỉ nhắc tới công lao vĩ đại
của Tướng Võ Nguyên Giáp, độc
diễn thắng trận. 3.
Hình ảnh chắp
nối các cuộc giao tranh tại Miền Nam từ
1963 cũng đưa ra những thành công lớp
lang, quy mô, đánh kính, đáng hãi
của quân đội chính quy Bắc Việt
và lực lượng “Giải Phóng Miền
Nam”, gọi chung là Việt Cộng, trong khi Quân
Đội Hoa Kỳ thường thất bại
vì đơn độc tác chiến, lúng
túng ngô nhận chiến trường xa lạ,
với hệ thống tình báo yếu
kém, thất thường. 4.
Bên
cạnh chênh lệch là chính thể Việt
Nam Cộng Hoà và quân đội quốc gia
đều bị cuốn phim xao nhãng, hay chớp
nhoáng tung hình ở mức độ
kém cỏi, thác loạn, cốt để “tiền
định” sự thất bại chẳng
đặng đừng của cái gọi
là THE VIETNAM WAR. 5.
Tất cả cuốn
phim điển hình trên hoàn toàn dùng những
tài liệu cắt xén từ kho tài
liệu giải mật quân sự Hoa Kỳ, chắp
nối với những đoạn hình
ảnh [ma-dze in (North) Vietnam] sẵn sàng bắc
loa tuyên truyền, tô màu đánh bóng chế
độ CSVN và quân lực liên hệ, với
mục đích chính là chứng minh CSVN
đáng thắng và Quân Đội Hoa Kỳ
tương xứng đương đầu với
địch tài giỏi, để xứng đáng
bỏ cuộc, xứng đáng hoà hoãn
trong danh dự. No More Vietnams. Peace & Honor. Có
thể nhận xét một cách tổng
quát, công trình 10 năm thu thập tài liệu
đúc kết thành cuốn phim trên không gì
đặc biệt, không khác mấy những
tài liệu đã từng chiếu trên
màn ảnh nhỏ thập niên 60/70 tại Hoa kỳ
làm thối chi các gia đình có con em tham
chiến tại Việt Nam lúc đó.
Chỉ khác là bộ phim được uốn
nắn, với vài phần nhận định
cập nhật để làm vui lòng, hoà
giải công chúng Hoa Kỳ, đã từng
bị chia rẽ bởi cuộc chiến tại Việt
Nam. Đáng
lẽ bộ phim này nên mang tên là POST
VIETNAM SYNDROME thì đúng hơn,
vì người làm phim và cơ sở
tài trợ [Bank of America] không hề đặt
trọng tâm vào mục tiêu chấn hưng lịch
sử của cái gọi là THE VIETNAM WAR,
mà chỉ muốn thực hiện một công
trình dân vận tâm lý chiến [Civic Psycho War],
mong hoà giải công luận Hoa Kỳ khỏi căn
bệnh tâm lý Vietnam Syndrome còn day dứt
từ thế kỷ trước. Bank
of America proudly sponsors THE VIETNAM WAR, fostering dialogue through
different perspectives, in conversations, turning moments that could divide
us into opportunities, to unite us…it’s just
one way we are enabling social and economic progress to help build strong
local communities. Trong
những buổi trình chiếu phim trên, đa số
khán giả Mỹ chính gốc đều hể
hả, thoả mãn. Còn số nhỏ khán
giả người Mỹ gốc Việt đều
âm thầm, lạc lõng, vì không thấy “dấu
tích” họ và tầm vóc chính thực
của “Chiến Tranh Việt Nam” trong đó. Quả
thật, bộ phim THE VIETNAM WAR này không danh
chính ngôn thuận, vừa mạo danh cuộc
chiến, vừa phiến diện, thiếu
sót [biased/incompleted], không đủ tầm
vóc giải thích căn nguyên cuộc chiến,
xuất xứ từ những tranh chấp ư
thức hệ quốc tế giữa Tây Phương/Hoa
Kỳ và khối cộng sản Nga Hoa, và “được
viễn kiểm” bởi các chũ thế
giao tranh đó. Mạo
danh vì THE VIETNAM WAR không thực sự xuất
phát từ nhu cầu và quyền lợi
dân tộc Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc, nên
chỉ đáng gọi là THE VIETNAMESE
BATTLEFIELDS [“Những Bãi Chiến Trường
Việt”] hay CHIẾN TUYẾN VIỆT NAM
của cuộc tranh chấp quốc tế mà thôi,
như The KILLING FIELDS tại Kampuchia vậy. Hơn
một triệu binh sĩ Việt tử nạn
cả Nam lẫn Bắc, hơn hai triệu dân Việt
chết oan trong cuộc chiến viễn kiểm, với
hậu cảnh ba/bốn triệu dân, cán,
chính Việt, người tù đày
“cải tạo”, kẻ bỏ mạng trên rừng,
ngoài biển, kẻ vất vưởng nơi
đất khách quê người, tất cả
là những nạn nhân “âm thầm” của cuộc
giao tranh quốc tế, mà bộ phim THE VIETNAM
WAR chỉ lướt qua như những
kép phụ, những vai vế hậu cảnh
[figurants] chớp nhoáng tạm bợ,
những vai diễn nhất thời trong một
vở tuồng quốc tế, mà cốt truyện và chương
tŕnh diễn xuất đều ở ngoài tầm
hiểu biết và khả năng quyết định
“xuất hiện” của họ. The
Vietnam Syndrome, in US politics, is a non-medical conservative term
referring to public aversion to American overseas military involvements,
following the domestic controversy over the Vietnam War, which ended in
1975. Since the early 1980s, the combination of a public opinion apparently
biased against war, a less interventionist US foreign policy, and a relative
absence of American wars and military “Vietnam paralysis” are all the
perceived results of the syndrome.[Wikipedia] Chính
quyền Nixon năm 1969 đã xuất thần
phát sinh một từ ngữ “xiêu” chiến
lược vừa thực tế, vừa
phũ phàng mỉa mai: “The Vietnamization Strategy”
để minh thị trao cuộc chiến quốc tế/Hoa
Kỳ/ cho đồng minh Việt, vốn là
toán đá phụ từng bị “treo
giò”. President
Nixon announced his Vietnamization strategy to the American people in a
nationally televised speech on November 3, 1969. He emphasized how his
approach contrasted with the “Americanization” of the war that had taken
place under his predecessor, President Lyndon B. Johnson… In the previous
administration, we Americanized the war in Vietnam…” Mỉa
mai vì các “đồng minh” phụ [cả Nam lẫn
Bắc] và toàn dân Việt chỉ là những
tác viên dư thừa đã vụng về
đón quan khách Tây/Mỹ/Nga/Hoa tới đấu
đá, tiện việc “ăn ốc” Cửu
Long/Hồng Hà, rồi cả nhà “Hậu
Đại Việt” tranh nhau “đổ vỏ ốc”
cho đại khách quốc tế. Đôi khi
các kép phụ còn say sưa hơn các
kép độc dòng chính thống, dù tư
bản hay cộng sản. Trên
đây chỉ là phần bình luận có chứng
cứ về một bộ phìm tầm thường,
không đáng bỏ thì giờ xem và
“học hỏi” qua 10 đoạn [18 tiếng] tài
liệu phù phiếm, có chủ đích chữa
chạy, có thành kiến ăn có. Với
tầm nhìn chân thực, toàn diện
của những người trong cuộc,
của những ai từng là nạn nhân
và nhân chứng cuộc giao tranh quốc tế
trên mảnh đất Việt, thì bộ phim THE
VIETNAM WAR là một biểu lộ
sai lạc, một phương
trình xuyên tạc [false & misleading
statement, a misrepresentation] về một cuộc
chiến giả tạo, lừa gạt̀ [deceptive
war, under false pretenses] tại Việt Nam. Thật
vậy, cuộc chiến quốc tế tại chiến
tuyến Việt Nam, lấy danh nghĩa giả
mạo là xây dựng và bảo vệ Dân
Chủ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, nhưng
thực sự là để [a] giải quyết
các tranh chấp nội bộ giữa Hoa
Kỳ, Nga, Hoa [b] bằng Chiến lược
Be-Bờ [Containment Doctrine], trường
kỳ kháng chiến tới độ kiết
sức, cuối cùng [c] để xả hơi
[detente] rồi chia chác quyền lợi và
vị thế bá chủ hoàn cầu: nhất
Mỹ, nhì Tầu, v.v. Hậu
cảnh của cái gọi là THE VIETNAM WAR là
ba trạng thái thực tế đáng ái
ngại: 1.
Nhà
tù và chế độ độc tài phi nhân,
phản dân chủ tại Việt Nam độc lập,
nhưng sẵn sàng chấp nhận Tầu
đô hộ; 2.
Tại
Hoa Kỳ, bề chìm với hiện tượng
suy nhược tinh thần tập thể, dưới
dạng “Vietnam syndrome” trong khi thực tế
tại bề nổi thì Hoa Kỳ đã trở
thành Đệ Nhất Siêu Cường Quốc,
lâu lâu tái diễn màn xuống đường
động viên tự hoà tự thắng; 3.
Và
tại Chấu Á thì thời cuộc
Toàn-Cầu-Hoá và Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế đã tạo ra con Siêu Quỷ [thứ
"Frankenstein' s monster"] -- Khủng Long “made in
China”, mỗi lúc vùng vẫy tham vọng tân
đế quốc, vừa thực dân, vừa
xặc mùi xì dầu đồ nhái. Cuốn
phim và cuộc tranh hùng liên quan tới THE
VIETNAM WAR đã triệt để noi theo xấm
trạng Winston Churchill: “We have no permanent friends and we have
no permanent enemies; but we have permanent interests.” [Ta không
có bạn vĩnh viễn và không hề có
kẻ thù muôn thuở; mà chỉ có quyền
lợi hằng cửu]. Riêng
về quyền lợi hằng cửu Hoa
Kỳ và quyền lợi vĩnh viễn
các đối tác Nga Hoa, thì THE VIETNAM WAR
đã đóng góp hơn 5 triệu tử
vong người Việt Nam, cả Quốc gia lẫn
Cộng Sản; cả dân oan bom đạn, khủng bố,
bóc lột; cả tù đày trong nước,
xuất cảnh lao động; cả mất tích
trong rừng, ngoài biển, cả mất
mạng tại hải ngoại; chưa kể 58
ngàn binh sĩ Hoa Kỳ, đa số vừa
mãn trung học, còn ngơ ngác xa lạ với
cảnh quân dịch thời chiến. Vậy
người trong cuộc, có liên hệ trực tiếp hay
gian tiếp với cuộc chiến đó
tại Việt Nam nên sáng suốt t́m hiểu căn nguyên
và chủ đích chính của cuộc chiến. Cái
gọi là THE VIETNAM WAR — “Chiến Tranh
Việt Nam” có thực sự cổ xuư quyền
lợi đất nước, dân tộc Việt hay chỉ để
củng cố quyền lợi thắng thế
của Hoa Kỳ bên này, hay quyền lợi thắng
thế của Nga, Hoa bên kia. “Chiến
Tranh Việt Nam” /THE VIETNAM WAR /
cần đươc phơi bày đúng “chỉ
số” của nó, liên can tới Chủ Nghĩa
“Be Bờ” của Hoa Kỳ tại tiền đồn
Miền Nam Việt Nam, [a] một mặt để ngăn
chặn sự bành trướng của khối
cộng sản Nga Hoa, [b] mắt khác để đôn
đốc giải bá chủ
thế giới. Do
đó chúng ta cần xét kỹ chủ đề dưới
đây để thấy [a] lư do nào có cuộc
chiến tranh này? diễn tiến ra sao? và [c] kết
quả, ai thắng ai bại? THE
VIETNAM WAR– Chiến Tuyến Việt Nam, Từ
Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) của Hoa
Kỳ với Chiến Lược Không “Đánh
Thực”, “Không-Cốt-Thắng”
Tới Ngày QUỐC HẬN Việt Nam. I. Căn
Bản của Chủ Nghĩa Be-bờ
Chủ
Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1]
là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa
Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng
kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng
của chế độ Cộng sản trên thế
giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2]
ngăn cản việc lây nhiễm của một căn
bệnh hiểm nghèo. Chính sách này nhằm một
mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh
“hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3]
gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo
khi một quốc gia lân cận bị cộng sản
chiếm đoạt. Chủ nghĩa Be-bờ do nhà
ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4]
khơi thuật từ năm 1947[5]
và đă ảnh hưởng tới đường
lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ
thời Tổng Thống Harry S Truman.[6] Chủ
Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định
sau:[7]
Chủ
Nghĩa Be-bờ đă hội nhập thành Chủ Nghĩa
Truman [Truman Doctrine][8]
để khẳng định nguy cơ của nguyên
khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm
nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến
Tranh Lạnh” [Cold War].[9]
Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm
lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman
xếp đặt một loạt những biện pháp:
Về
mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú
trọng tới h́nh thức “ngăn chặn, đề
pḥng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”,
hoặc nếu có xung đột, th́ áp dụng sách lược
“Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy].
Điển h́nh, tuy đă cho phép Douglas MacArthur vượt
vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman
vẫn khiển trách danh tướng này đă chủ
động “quyết thắng” hơn là thi hành
thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân
sự, MacArthur chê là một giải pháp nh́ nhằng
“Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13]
1.
Khai mở Chủ Nghĩa
Be-bờ tại Việt Nam Chủ
Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được
áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa ky
tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn. TT
Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp
[đồng minh NATO] trong việc chống du kích
chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt
trận Đông Dương. TT
Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đă nhấn
mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ
về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa
cộng sản tại Đông Dương và cho rằng
nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng
sản chiếm cứ Việt Nam th́ Lào, Campuchia, Thái
Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân
bài domino và rơi vào khối cộng sản.[14]
Do đó, Chính phủ Eisenhower t́m cách giúp đỡ[15]
đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng
của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều
kiện: 1.
tăng cường quân
đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ,
Anh & Úc tham dự đồng đều; 2.
Chính quyền Pháp cam
kết trả lại độc lập cho các quốc
gia Đông Dương; 3.
Quốc Hội Hoa
Kỳ tuyên bố khai chiến. Trước
tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối
tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ
muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh
hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ
Thế chiến Thứ 3, nên cũng đă từ
chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp
tại Điện Biên Phủ. Hậu quả là
Chiến tranh Đông Dương đă chấm dứt,
và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954]
Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp
tục cuộc chiến ư thức hệ, giữa Phe
Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng
sản ở Miền Bắc.
2.
Việt Nam Thành Thí Điểm Chủ Nghĩa Be-Bờ TT
JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học
giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh
Quốc gia. Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ
bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16]
và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT
Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến
lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa
vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản
địa chặn đứng chủ nghĩa cộng
sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương.
Đó là tiền đề để giải thích cho
sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào
Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến
sự tham chiến trực tiếp của Quân đội
Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương
thời TT Lyndon Johnson. Do
đó, chính phủ Kennedy để lại một
số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam
Việt Nam: Từ
năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược
“chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam
Việt Nam, đôn đốc một lực lượng
tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa
Kỳ, với ư định rút quân khỏi mặt
trận Việt Nam càng sớm càng tốt. Trong
khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ
sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà
Việt Nam dưới sự lănh đạo của TT Ngô
Đ́nh Diệm, th́ chính quyền Kennedy bắt đầu
có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đ́nh
Diệm v́ chính thể của Ông lúc đó hạn
chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam
Việt Nam vào trọng tâm ưu đăi của một
thiểu số gồm có gia đ́nh họ Ngô, các
cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính
thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.
Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam
Việt Nam, gồm một số đảng phái như
Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân
Xă Đảng v.v., các nhà trí thức độc
lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà
Hảo v.v. đă mất cơ hội tham dự vào
Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa
hẹn đối với toàn dân của Chiến
Tuyến này. Hậu quả của chính sách
“biệt đăi/cô lập” dân chủ hoá trên đă
tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam
Việt Nam, một cách rất đáng tiếc. Chúng
ta đă mất một cơ hội hy hữu dựng nước
toàn vẹn trong tay của rất nhiều người
Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân
chủ tự do.
Sau
hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống
đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh
đấu Phật giáo, TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố
Vấn Ngô Đ́nh Nhu đă bị bắt và hạ
thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng
Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh
trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.
Nhiều tài liệu lịch sử [mới được
“giải mật”] đă xác định biến
cố này có hậu thuẫn của CIA Lucien Conein, Đại
sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17]
dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố
vấn Bundy đă khôn khéo “vắng mặt” nơi
nhiệm sở. Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh
Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi
nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc
đảo chính và ám hại TT Ngô Đ́nh Diệm
và Ô. Ngô Đ́nh Nhu.[18] Từ
góc nh́n của Hoa Kỳ, vấn đề loại
bỏ TT Ngô Đ́nh Diệm và Ô. Ngô Đ́nh Nhu là do
[a] t́nh trạng khiếm khuyết dân chủ thực
sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai
hại của vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu về chính
sách tôn giáo, và [c] phần nào v́ Ngô Đ́nh Nhu “hù
doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT.
Ngô Đ́nh Diệm v.v. với ư định làm giảm
sức ép của Hoa Kỳ.[19]
3.
Biến Hoá Chủ Nghĩa
Be-bờ tại Việt Nam TT
Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng
biến hoá đường lối đối ngoại
“Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài
tuần sau Anh Em họ Ngô. Năm 1964, khi ứng
cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT
đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ
tới chiến thắng?”[20]
th́ TT Johnson lại trả lời một cách nước
đôi: “Chỉ vào can thiệp tới mức
đó thôi”.[21]
Thật vậy, đường lối “Can thiệp
giới hạn” này vừa tăng, vừa hăm, qua
nhiều h́nh thức: — Thông qua
Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of
Tonkin Resolution][22]
để lấy cớ trừng phạt vụ các
phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ
với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney; —
Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác
Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà
Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ
tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa
phận thuộc lănh thổ Bắc Việt, cốt gây
áp lực hao ṃn địch vận để đưa
tới thảo luận ngưng chiến; —
Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân
lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột
nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân
lực địa phương của Giải Phóng
Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đă gia tăng quân lực
từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy]
tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm
1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy
nhất là canh pḥng chung quanh các phi trường và các
địa điểm “pḥng thủ” trong lănh thổ
miền Nam Việt Nam. TT
Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đ̣i hoà
b́nh của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không
liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như
các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều
Hâu” đ̣i hỏi, chỉ v́ “sợ rằng”
đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia
chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng] phản
ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên
tử. Đó là lư do tại sao TT Lyndon Johnson từ
chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân
sang Lào cắt đứt đường tiếp
liệu của Bắc Việt. Đó cũng là
ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung
Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa
thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam
mà không sợ ai dám phương hại nội
tuyến. Về
phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ
Nhất Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân
quản” với 10 biến cố chính trị gồm
những cuộc đảo chính hụt và những
cuộc “chính lư” thay quyền, đổi thế
giữa các tướng lănh, thuộc Hội Đồng
Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lănh Đạo Lâm
thời, Thượng Hội đồng Quốc gia,
Hội Đồng quân Lực và cuối cùng là Ủy
Ban Lănh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập
Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà với Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó.
Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở
ngại trong việc xây dựng dân chủ và thực
thi b́nh định tại các nơi sôi động. Đặc
biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu Thân
1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và
tâm lư chiến:
4
Chấm Dứt Chủ
nghĩa Be-bờ tại Việt Nam Khi
thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969, TT Richard Nixon bắt
đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách
thực tế hơn, không nhất thiết nhằm
chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ.
Với con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa
Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm từ 1963
tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger
đếu thấy rơ cuộc chiến không thể
thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng
không thể kéo dài t́nh trạng cầm cự này lâu dài
thêm.
Do
đó, theo “đường lối đối ngoại
xả hơi” [“Détente”][24],
Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương
thuyết với Nga Xô về “Chiến Lược
Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms
Limitation Talks],[25]
mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung
cộng để hứa hẹn những điều
kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến
tranh “trong danh dự”[26]
tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ. Trong
tinh thần đó, Nixon quyết định giảm
thiểu quân số tác chiến từ 537,000
xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm 1972 để
chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc
chiến [Vietnamization], cũng gọi là “Chủ
thuyết Nixon”,[27]
bằng cách rút quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt
và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho Quân Đội
VNCH. Trong giai đoạn này đă xẩy ra
những chiến cuộc ác liệt như sau:
Sau
nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau lưng
đồng minh và nhiều điều cam kết với
ư định lừa lọc, Hiệp Định Paris
được kư kết vào năm 1973, giữa Hoa
Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam
Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành
lập năm 1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ
tịch]. Năm
1973, Tổng trưởng Quốc Pḥng Schlesinger đề
nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc
Việt nếu HàNội vi phạm Hiệp Định
Paris trong trường hợp họ đem quân đánh
lớn tại Miền Nam. Thượng Viện
lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment
để cấm việc thả bom này.[28]
Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa
hẹn ngon ngọt của TT Nixon đối với TT
NVThiệu đều phải coi là hư ảo, nếu
không muốn gọi là lừa đảo. Trong
khi đó, QBV thao túng dùng đường ṃn Hồ
Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác
chiến, thêm súng ống, đạn dược đủ
loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng
tiếp viện để chuẩn bị cho một
cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới
1976. Nhưng cuộc Hành Quân 275 dưới
quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà
đă đem lại những kết quả nhanh chóng hơn
dự tính của Hà Nội. Sau khi Ban Mê Thuột
bị bao vây, TT NVThiệu ra lệnh Tướng Phú rút
quân khỏi Pleiku và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975.
Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào
cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài G̣n thất thủ ngày
30 tháng 4 năm 1975, chấm dứt một cuộc
chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.[29]
II.
Phản Diện Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt
Nam: Ai Thắng, Ai Thua? 1.
Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt
Nam như một vở tuồng bốn màn:
[A] Khai mở với sáng kiến của TT Truman & TT
Eisenhower, [B] xác định vị trí “be-bờ“ do TT
JK Kennedy & Co Vấn Bundy, [C] biến hoá cao độ
với TT Lyndon Johnson, [D] để lần lượt
tụt hậu và chấm dứt trong “danh dự”,[30]
với TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger. Sự
thực cả bốn cảnh đó gom lại vẫn
chỉ là “bề diện ngoài” của một ư đồ
bền bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa
Be-bờ: quyền lợi của Tư bản.
Căn cứ vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa
Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều
mặt trận trên thế giới và tại Việt Nam
nhằm :
Cái tiềm
lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi mang tai ách
của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại:
trí tuệ, thiện tâm đôi khi bị chi phối và
tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập
Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial
Complex].[32]
Cái phương thức đấu tranh cho
lẽ phải và hoà b́nh đôi khi quá đắt, quá
đáng: “This conjunction of an immense military establishment and
a large arms industry is new in the American experience…In the councils of
government, we must guard against the acquisition of unwarranted influence,
whether sought or unsought, by the military-industrial complex. The
potential for the disastrous rise of misplaced power exists and will
persist. We must never let the weight of this combination endanger our
liberties or democratic process.” — President Dwight Eisenhower.[33] Quyền
lợi của các tài phiệt sản xuất nhu
liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng,
mỗi lúc mỗi phân hoá, biến thể làm hao hụt
công quỹ và tài lực của dân chúng. Tổng
kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam lên
tới 111 Tỷ Mỹ Kim [tương đương
900 tỷ Mỹ Kim theo vật giá năm 2016], dù hạn
chế vừa đủ để nuối dưỡng
cái ḷ cơ khí đạn dược siêu đẳng này,
một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá
mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ.
Dân sẽ chống đối, v́ thuế cao, đời
sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa
Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu
tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu
thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một. 2.
Với cái “tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên,
chúng ta thấy rơ là lư do tại sao chính thể và quân
đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được
phép “thi hành” một trận chiến pḥng thủ,
vừa tiêu ṃn, vừa luộm thuộm, v́ không ai
[kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến
“đánh thực/thắng thực”,
nhất là khi “đồng minh” Việt Nam không hề
“thực sự” được giao quyền sở
hữu cuộc chiến lẫn định mệnh
sống c̣n. Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu
không khác ǵ những “con cờ người” đem
nhiệt t́nh máu mủ vào một “bàn cờ chính
trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí
tuệ và quyền lợi tài phiệt vô cảm. Chúng
ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đă
tới Miền Nam bảo vệ tính mạng dân chúng và
những chính khách, chuyên viên có thiện chí thực
sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân
chủ non nớt. Nhưng chúng ta vẫn ai oán khi
“chính trị thực tế” [Real Politics] cho
thấy chúng ta thực sự không có chủ quyền
quyết định về vận mệnh của chúng
ta, ngoài việc nhận lấy những việc đă
rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta, không một chút
liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ
đồng hành, đồng minh kém vế. Trong cuộc
“Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính
thể Quốc gia lẫn nhân dân Miền Nam đều
thất bại. 3.
Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt cũng
lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa ǵ hơn,
nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân
đội và Nhân dân Bắc Việt đă thắng
nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện
trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.
Quân đội CS Băc Việt thực sự đánh
cho Nga, đánh cho Tầu. Họ là kẻ thắng
trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ
đă chiếm được Sài G̣n, nhưng ngay sau
1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn
quốc Việt Nam v́ đối nội thiếu khả
năng quản trị Đất Nước trong “hoà
b́nh”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với
chiến tranh, và nhất là về mặt đối
ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm
viện trợ Trung Cộng bằng cách xoá bỏ ranh
giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán
biển, bán đảo, bán dân. VẬY AI
LÀ LÀ PHE THẮNG TRONG (QUA) CHIẾN TRANH VIỆT NAM? “Đồng
Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất thành
cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết
Be Bờ/Chiến tranh lạnh/” đă tháo chặy
với hội chứng “Vietnam Syndrome” trên
đài truyền h́nh và tại hậu phương Hoa
Kỳ, nhưng thực sự đă “thắng
cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch]
thế giới, tạm cho tới ngày nay. Tuy
nhiên, Hoa Kỳ v́ đảm nhận vai vế
“hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối
với nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận
qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác trên
thế giớ, nhất là tại Trung Đông, Bắc
phi, phần nào để duy tŕ kho bạc “petro
dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ
đại) phát triển kỹ nghệ chiến cụ
–“Military Industrial Complex”, cánh tay phải của uy
lực tư bản Hoa Kỳ. Song
song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung Cộng.
Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư
ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi Tây,
đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu
“ping pong/coca cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War]
với các chính thể Nixon-Kissinger và kế nhiệm,
đế quốc cộng sản này đă trở thành
“phó chủ” toàn cầu [với kỳ vọng
trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt
chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam,
Biển Đông, và bất cứ nơi nào thèm
“tiền x́ dâu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay
thấy bắt buộc [chẳng đặng đừng]
phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc
“made in China”. Phải
chăng Trung Cộng đang trở thành con khủng long
thế kỷ 21, và Việt Nam là cái
đuôi xă hội mafia của nó? TẠM
KẾT: Cuộc
chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng
là bài học chung cho những thế hệ sau.
Đất nước là của chung, phải định
đoạt với nhau, không thể nhờ vả
ngoại nhân, v́ họ có mục tiêu và quyền
lợi của họ. Cái khôn là biết hợp tác
để trao đổi thế lực, trí tuệ và
phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân
loại mở, nhưng việc sống chết vẫn là
quyết định của từng dân tộc, từng
thể chế tác động nhân danh dân tộc họ,
chứ không phải theo quyền lợi của đảng
phiệt, của quân phiệt, của tài phiệt.
Không ai sống hộ chúng ta và cũng không ai
chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu
chúng ta. Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng
cùng chịu, khi theo đuổi, thực hiện trên căn
bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương
tự. Chúng
ta, con cháu chúng ta hăy tránh là nạn nhân lẫn ṭng
phạm của những cảnh khốn đốn luân
phiên, luẩn quẩn bao vây, hủy hoại từng
thế hệ này sang thế hệ khác. Hăy lật
ngược những trang bi sử đó và nhất
quyết trở thành sáng lập viên chung của một
vận nước cao đẹp, cởi mở, tử
tế, vững bền, tích cực, trọng sinh,
trọng nghĩa mà con người toàn diện
được bảo trọng, thân thương.
Việt Nam phải là của dân, do dân, v́ dân một cách
thực sự, nếu không muốn bị vĩnh
viễn xoá bỏ. Để
tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến
ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương
lai, toàn thể nhân dân Việt Nam, toàn thể Người
Việt trong và ngoài nước, tất cả những
Người Việt thực sự yêu Nước
phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay
từ bây giờ và tiếp nối trong tương
lai một Xă hội Chân chính Nhân bản,
tự chủ, tự quyết và một Chính thể Cộng
Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh,
đa nguyên đa đảng, không chuyên chế độc
tài. Dù
là cộng sản hay không cộng sản, dù là phát xít,
hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và
quyền lợi của một đảng không bao hàm đủ
quyền lợi và nhu cầu của cả một dân
tộc. Do đó, cứu cánh của quyền
lực phải thuộc về dân. Xây
dựng và bảo trọng một Xă Hội Nhân bản Pháp
trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự
do Tự chủ, không bị ngoại xâm là giải
pháp vậy. Lưu
Nguyễn Đạt,
PhD, LLB/JD, LLM Cập
nhật Sep 26, 2017 CHÚ
THÍCH [1]
“Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S.
Department of State [2]
In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon
sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians.
Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a
“quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease. [3]
Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put
the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you
have broader considerations that might follow what you would call the
“falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock
over the first one, and what will happen to the last one is the certainty
that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a
disintegration that would have the most profound influences. [4]
“Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S.
Department of State [5]
Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word
telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to
Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle
diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the
Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the
traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the
Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist
ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet
behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the
internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan,
Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic
rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the
Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the
dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they
did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…
Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and
intellectual respectability.” [6]
Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal
of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727 [7]
At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”,
Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of
insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity
became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and
conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan,
depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime;
according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize
his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a
“justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside
world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for
cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to
demand… [8]
Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real
Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402 [9]
Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia
University Press [10]
Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and
the Triumph of Democracy. (1993). Gimbel, John, The origins of the
Marshall plan (Stanford University Press, 1976). [11]
Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International
perspectives [12]
Amy B. Zegart, Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS,
and NSC [13]
MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy [14]
Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put
the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally,
you have broader considerations that might follow what you would call the
“falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock
over the first one, and what will happen to the last one is the certainty
that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a
disintegration that would have the most profound influences.” [15]
Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for
Change (1963) [16]
Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs.
Potomac Books Dulles Virginia [17]
Assistant Secretary of State Roger Hilsman had written in August 1963 that
“Under no circumstances should the Nhus be permitted to remain in
Southeast Asia in close proximity to Vietnam because of the plots they will
mount to try to regain power. If the generals decide to exile Diem, he
should also be sent outside Southeast Asia.” He further went on to
anticipate what he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should
encourage the coup group to fight the battle to the end and destroy the
palace if necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the
terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver both
the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the Nhus should
be banished to France or any other country willing to receive them. Diem
should be treated as the generals wish.” Hammer, Ellen J.(1987). A
Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4. [18]
According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of
Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware
of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were
responsible for the plight in which the South Vietnamese found
themselves.” [19]
Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions
on a Major World Crisis. [20]
Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964,
challenged containment and asked, “Why not victory?” [21]
President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked
nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible:
“Hitherto shalt thou come, but not further.” [22]
“Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in 1964”, The
New York Times, 1970-06-25 [23]
Television brought the brutality of war into the comfort of the living room.
Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of
Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975. [24]
Suri, Jeremi. Power and Protest: Global Revolution and the Rise of Détente.
Harvard University Press (2003). [25]
SALT [Strategic Arms Limitation Talk] [26]
With honor [27]
Vietnamization or Nixon Doctrine [28]
Senate passed the Case-Church
Amendment
to prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam
Syndrome. Karnow,
Stanley
(1991) [29]
Battlefield:Vietnam | Timeline 20
Years After Victory, April 1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection:
Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech
University. R.J.
Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources &
Calculations”. web site. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF.
Retrieved 2010-01-01. Tran
Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997). “North Vietnamese
Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site. http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm.
Retrieved
2010-02-01. http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF Kevin
Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972. [30]
Nixon, Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon
& Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television
broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending the
War and Restoring Peace in Vietnam’ [31]
Effect of the containment: The solution, Kennan
suggested, was to strengthen Western institutions in order to render them
invulnerable to the Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing
of the Soviet regime. [32]
Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row
Publishers, New York, New York. [33]
President Dwight Eisenhower, farewell speech to the
nation, January 17, 1961 |