THỬ T̀M
MỘT HƯỚNG ĐI CHO DÂN TỘC VIỆT NAM
THỜI HIỆN ĐẠI (Bài thứ
nhất) |
Suốt
ḍng lịch sử, dân tộc Việt Nam đă trải
qua các thời kỳ chiến tranh đủ loại
nhiều hơn hoà b́nh, ổn định và phát
triển do: (1) Sống sát nách người láng giềng
to lớn, hung tợn, tham lam và ích kỷ mà bút mực
khó tả hết. (2) Có vị trí địa-chính-trị
vô cùng quan trọng tại Châu Á-Thái B́nh Dương nên
bị va lây trong các cuộc tranh chấp chiến lược
giữa các cường quốc. (3) Thù trong, giặc ngoài
khiến người Việt Nam khó phân biệt
bạn/thù. Do
đó, t́m một hướng đi hữu hiệu và
hợp pháp cho quyền lợi chính đáng của dân
tộc Việt Nam quả thật thiên nan, vạn nan. Nhưng,
bắt buộc chúng ta phải t́m bằng được
nếu muốn dân tộc phát triển, tiến bộ và
trường tồn. Thông
suốt t́nh h́nh thế giới, hiểu biết tường
tận ưu khuyết điểm của các giải pháp
từng được áp dụng sẽ giúp chúng ta
chọn giải pháp hợp lư cho nền độc
lập, tự chủ, tự cường, văn minh cho
ṇi giống Tiên Rồng. Ung
thư cộng sản đă thâm nhập vào cơ
thể Nguyễn Tất Thành từ năm 1924 rồi lây
lan trên đất Việt làm cạn kiệt tinh
thần độc lập, tự chủ của một
trong số “100 chi Việt tộc” không bị Hán-hoá. Kể
từ năm 1930, Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí
Minh) được Mạc Tư Khoa nuôi dưỡng
để dựng lên Đảng Cộng sản Đông
Dương nhằm nhuộm đỏ 3 nước
Việt, Miên, Lào tạo ra t́nh trạng “thù trong
giặc ngoài” làm hao ṃn và suy nhược ḷng yêu nước,
thương ṇi của chi Việt tộc duy nhất c̣n
tồn tại. Tác
hại của căn bệnh ung thư cộng sản trên
cơ thể Việt đă quá rơ ràng nên qua bao nhiêu
thế hệ Con Hồng, Cháu Lạc vẫn kiên tŕ
chiến đấu trên nhiều mặt trận khác nhau
với lắm phương thuốc. Sau
ngày 30/04/1975, căn bệnh ung thư cộng sản
đă bao trùm từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà
Mau buộc ṇi giống Lạc Hồng phải t́m cách
chữa trị bằng các liệu pháp quân sự, chính
trị, ngoại giao, văn hoá, chính trị. Cho đến
nay di căn cộng sản vẫn c̣n đó, đ̣i
hỏi người Việt Nam trong và ngoài nước
phải duyệt xét các sơ sót đă qua nhằm t́m
biện pháp hữu hiệu hơn. Giải pháp quân sự ở Quốc nội Hiệp
định Geneve 1954 được kư kết giữa Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà và Cộng hoà
Pháp vào ngày 20/07/1954 để Quân đội Viễn
chinh rút khỏi bán đảo Đông Dương sau hai
năm tập kết (1954-1956) tại Miền Nam vĩ
tuyến 17. Quốc
gia Việt Nam đại diện cho người Việt
chống Cộng, hoặc không muốn sống dưới
chế độ Hồ Chí Minh, chẳng được
trực tiếp đàm phán tại bàn hội nghị
Geneve nên từ chối kư vào Hiệp định làm
mất “quyền tự quyết dân tộc” được
quy định trong Hiến chương Liên Hiệp
Quốc. Từ
tháng 10-1955, Việt Nam Cộng Hoà (hậu thân của
Quốc gia Việt Nam) chính thức cai quản lănh
thổ phía Nam vĩ tuyến 17 được 87
quốc gia trên thế giới thiết lập bang giao so
với 49 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Không
cưỡng đoạt được lănh thổ phía
Nam Sông Bến Hải bằng Hiệp định Geneve
1954 nên Hồ Chí Minh quyết định tiến hành
giải pháp quân sự đă đẩy dân tộc
Việt Nam vào cảnh nồi da nấu thịt. Nhờ
Đệ tam Quốc tế Cộng sản và Trung
Quốc viện trợ, trang bị tận răng (đặc
biệt các phương tiện khủng bố, xách
động quần chúng) cho cuộc “chiến tranh nhân
dân” tại Miền Nam vĩ tuyến 17 mà Phe Cộng
thống trị toàn cỏi Việt Nam sau năm 1975. Hà
Nội thi hành chính sách và hành động dă man, tàn ác
nhất trong ḍng lịch sử dân tộc trên toàn lănh
thổ h́nh cong như chữ S. Do
đó, Phong trào Phục Quốc (tức Việt Nam
Cộng Hoà) tự phát khắp nơi với các hành
động quân sự do nhiều tầng lớp trong xă
hội vùng lên thề quyết diệt Cộng, đặc
biệt trong vụ Vinh Sơn. Nhưng, chỉ có
tiếng vang mà không đạt được mục
đích lật đổ chế độ Cộng
sản. Sự
thất bại hiễn nhiên của Phong trào Phục
Quốc ở quốc nội dưới xét dưới
lăng kính quân sự. Thứ
nhất, dân Việt chán đến tận cổ
cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô luân, tàn ác, dai
dẵng xuất phát từ Chủ nghĩa Cộng
sản nên đa số dân chúng Miền Nam vĩ
tuyến 17 lơ là với giải pháp quân sự để
tránh cảnh đầu rơi máu đổ. Thứ
hai, tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Lực lượng quân sự và an ninh cộng sản
cả Bắc và Nam tràn ngập Miền Nam vĩ
tuyến 17 trong khi nhân sự của Việt Nam Cộng
Hoà liên quan đến hai lĩnh vực này đă di
tản, hoặc bị đày đoạ trong các
“trại súc vật” ở vùng đèo heo hút gió
từ Bắc chí Nam. Thứ
ba, thiếu kinh nghiệm và tổ chức chiến đấu.
Tham gia lực lượng Phục Quốc không phân
biệt tôn giáo, sắc tộc, thôn quê thành thị,
tuổi tác mà phần đông ở lứa tuổi
rất trẻ, thiếu kinh nghiệm. Họ sẵn sàng
đi theo tiếng gọi non sông nên dễ rơi vào
chiếc “bẫy Phục Quốc” do an ninh cộng
sản giăng ra. Từ năm 1977 đă có hàng
loạt thanh thiếu niên Việt Nam Cộng Hoà bị
đưa vào các “trại súc vật” cùng với quân
dân cán chính. Nhiều thanh thiếu niên phải gỡ 10
tờ lịch mới được trở về mái
ấm gia đ́nh. Thứ
tư, thiếu đồng minh. Cộng sản Việt
Nam được Đệ tam Quốc tế và Trung
Quốc viện trợ tối đa trên mọi phương
diện để củng cố và hợp-thức-hoá
quyền lực của Hà Nội trên toàn cơi Việt
Nam. Trong khi đó, cánh tả Châu Âu hả hê v́ làm
nhục được Hoa Kỳ nên chẳng ai trên
quả địa cầu lưu tâm đến khát
vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam. Giải pháp quân sự từ Hải ngoại Do
sự t́nh cờ lịch sử mà Cộng đồng
Người Việt hải ngoại với 4 triệu người
sống răi rác trên hơn 100 quốc gia khắp địa
cầu đă phơi bày bộ mặt tàn ác, dă man, vô
luân của Chủ nghĩa Cộng sản từng
được guồng máy tuyên truyền của Đệ
tam Quốc tế che đậy suốt thời gian dài. Sau
khi nhanh chóng tạm ổn định cuộc sống trên
xứ người, Cộng đồng Người
Việt hải ngoại bắt đầu quan tâm đến
kế hoạch giải thoát đồng bào c̣n rên
xiết dưới ách cai trị nghiệt ngă của
Đảng Cộng sản bằng biện pháp quân
sự. Trong
số những người Việt hải ngoại
muốn xă thân cứu quê hương thoát khỏi gông
cùm cộng sản phải kể đến ba nhân
vật có tinh thần yêu nước và đởm lược
đă tổ chức lực lượng xâm nhập
về quốc nội để vận động dân
chúng nổi dậy lật đổ chế độ
Cộng sản. Năm
1981, Vơ Đại Tôn bị bắt tại biên giới
Lào Việt năm 1981: Trần Văn Bá với hai cánh
quân xâm nhập đường bộ Thái Lan-Cambode
tới Châu Đốc và đường biển ở
làng Minh Hải, Cà Mau đều bị bắt năm
1985. Hoàng Cơ Minh đă tổ chức nhiều vụ
xâm nhập từ Thái Lan qua Biên giới Lào-Việt mà
lần chót đích thân chỉ huy nên tử trận lúc
tiến gần biên giới Lào-Việt năm 1987. Nhận
diện các sai lầm về giải pháp từ hải
ngoại: Thứ
nhất, chủ trương tổ chức kháng
chiến tại quốc nội mà không bảo vệ bí
mật quân sự, trái với nguyên tắc “hoạt
động trong ḷng địch”. Họ đă công khai
lực lượng và vận động trong cộng
đồng người Việt lẫn quốc gia
sở tại suốt nhiều năm trường nên cơ
quan phản gián của Khối Cộng và Hà Nội
thừa thời gian để điều nghiên và giăng
bẫy. Đang
làm trợ giảng tại Đại học Nante (Pháp),
Trần Văn Bá âm thầm về Việt Nam năm 1980
nhằm t́m cách lật đổ chế độ
cộng sản nên gia nhập Mặt trận Thống
nhất các Lực lượng Yêu nước Giải
phóng Việt Nam với chức vụ tham mưu do Lê
Quốc Tuư làm Chủ tịch. Mặt trận có người
đại diện ở Pháp lẫn Việt Nam. Năm
1984, Mặt trận đă phái một toán xâm nhập
qua ngả Thái-Miên-Châu Đốc và một toán do
Trần Văn Bá cùng 21 chiến sĩ đổ bộ
lên làng Minh Hải, Cà Mau để vào mật khu. Nhưng,
tất cả đều bị bắt lập tức.
Tổng cộng 119 chiến sĩ bị bắt giam
hoặc giết chết. Trần Văn Bá và 4 đồng
chí đă bị án tử h́nh. Trần Văn Bá bị
xử bắn ngày 8 tháng 1 năm 1985. Thứ
hai, coi thường khả năng phản gián của
Khối Cộng. Liên Sô và Trung Quốc cung cấp đầy
đủ tin tức t́nh báo cho Việt Nam. Yung Krall (Đặng
Mỹ Dung) quê Cần Thơ sống cùng mẹ (trong vùng
giải phóng) trong khi Cha Tập kết ra Bắc năm
1954 và làm tới chức Đại sứ của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, Yung làm điệp
viên cho CIA đă phá huỷ nhiều ổ gián điệp
của Hà Nội ở New
York, Washington DC, San Francisco hoặc Paris. Mỹ Dung đă
phá vỡ các ổ CSVN nằm vùng nấp dưới
danh nghĩa các Hội Liên Hiệp Việt Kiều,
Hội Việt Kiều Yêu Nước. Điển h́nh
vụ phá ổ gián điệp CSVN ở Hoa Kỳ
của Đại sứ Đinh Bá Thi, Trương Đ́nh
Hùng (con Luật sư Trương Đ́nh Dzu bồ câu),
Ronald Humphrey (viên chức cao cấp Bộ Ngoại giao
Mỹ). Sau khi Trần Văn Bá bị tử h́nh,
Mặt trận và Lê Quốc Túy biến mất. Lê
Quốc Tuư thường về Việt Nam trước
khi thành lập Mặt trận và không đi cùng
Trần Văn Bá theo đúng kế hoạch hành quân? Thứ
ba, chọn tử lộ. Sau năm 1975, Việt, Miên, Lào
đều do cộng sản cai quản nên phối
hợp chặt chẽ trên phương diện an ninh. Do
đó, băng qua Miên, Lào cũng như đi vào băi ḿn
hoặc dấn thân vào các chiếc bẫy. Thật quá
ngây thơ khi tin vào đám thổ phỉ dẫn
đường nên bị phục kích. Các “tàu không
số” của Bắc Việt thường đổ vũ
khí vào khu vực Cà Mau v́ có cơ sở vững
chắc nên cánh quân Trần Văn Bá bị sa lưới.
Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đă hai lần đánh
ch́m tàu tiếp tế vũ khí của Hà Nội
tại khu vực này. Thứ
tư, thiếu nội ứng, chiến tranh du kích
cần nhất là lực lượng ṇng cốt ở
trong nước sẵn sàng tiếp tế thực
phẩm vũ khí thuốc men, che dấu, cung cấp t́nh
báo, dẫn đường … mà chưa có tổ
chức nào ở hải ngoại đă chuẩn bị
tốt. Chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, Chính phủ
Đào Minh Quân không thể trang bị vũ khí thực
sự trên đất Mỹ và khó mang chất nổ lên
phi cơ mà trót lọt. Mua ở Việt Nam chẳng khác
nào “lạy ông tôi ở bụi này”. FBI tuyệt
đối không cho phép các nhóm vũ trang trên đất
Mỹ. Thiếu
tướng Charles de Gaulle lập Chính phủ lưu vong
được Anh Quốc cho phép để đưa người
Pháp lưu vong cùng vũ khí về chiến đấu
trên quê hương và được lực lượng
chống quân xâm lăng Đức Quốc Xă hậu
thuẫn. Người
Việt hải ngoại thiếu các điều kiện
căn bản đó nên hăy t́m giải pháp khác. Đại-Dương |