THỬ T̀M MỘT HƯỚNG ĐI CHO DÂN TỘC VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI

(Bài thứ hai)
Đại-Dương 

 

Bất cứ chế độ nào sản sinh từ Chủ nghĩa Cộng sản cũng độc tài đảng trị. Nhưng, guồng máy tuyên truyền đồ sộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản vẫn đánh tráo khái niệm độc lập, tự do, nhân quyền, dân chủ, khiến cho một số dân tộc phải chọn lầm sinh lộ dẫn tới chiến tranh triền miên, hận thù trùng điệp, đói nghèo muôn thuở, nói chi tới phát triển đồng bộ và hài hoà.

Dân tộc nào đă chọn đường hướng xây dựng chế độ dân chủ tự do làm tiền đề cho đời sống hài hoà, phát triển toàn diện nhờ đặt “con người” làm chủ thể phục vụ thay v́ “đảng phái” thống trị.

Một số học giả Tây Phương có xu hướng Xă hội Chủ nghĩa nên đồng cảm với Chủ nghĩa Cộng sản. Đặc biệt, Triết gia đầu đàn về Chủ nghĩa Hiện sinh, Jean Paul Sartre đă phán một câu để đời “Tất cả bọn chống-cộng đều là lũ chó, Tous les anti-communistes sont des chiens”. Năm 1941, vị triết gia hàng đầu của nước Pháp này đă thành lập nhóm kháng chiến chống Đức Quốc Xă mang tên “Chủ nghĩa Xă hội và Tự do”. Năm 1954, Sartre đă thăm Mạc Tư Khoa và ca tụng Liên Sô có toàn quyền tự do phê b́nh trong khi Hoa Kỳ rơi vào t́nh trạng tiền-phát-xít. Năm 1957 và 1958, viết nhiều bài báo ca tụng Lănh tụ Cộng sản Ba Lan. Năm 1960, đến thăm Cuba đă gặp Fidel Castro và Che Guevara rồi viết một loạt bài tán tụng cuộc cách mạng của Cuba. Cuối năm 1960, ca tụng Mao Trạch Đông “lănh tụ của quần chúng áp bức trong thế giới thứ ba”.

Jean Paul Sartre phản đối Liên Sô xâm lược Hung gia Lợi năm 1956 và Đảng Cộng sản Pháp luôn luôn tuân lệnh Mạc Tư Khoa nên không c̣n thiết lập mối quan hệ nào với giới lănh đạo v́ mọi lời nói và hành động của họ đều gian dối suốt 30 năm.

Trong bức thư từ chối Giải Nobel Văn chương năm 1964, Sartre muốn hoà giải hai khối Đông, Tây mà lại viết “bên tốt nhất sẽ thắng, tức là Chủ nghĩa Xă hội”.

Năm 1968, Sartre chính thức đoạn tuyệt Liên Sô v́ Mạc Tư Khoa đàn áp Phong trào Mùa Xuân Praha của Tiệp Khắc. Ông qua đời năm 1980 lúc Chủ nghĩa Cộng sản vẫn c̣n hoành hành trên trái đất.

Phần lớn giới tinh hoa Việt theo Tây-học nên rất tán thưởng Jean Paul Satre và xu hướng thiên tả mà dù có phê phán Chủ nghĩa Cộng sản vẫn ở mức dưới trung b́nh làm ô nhiễm môi trường chính trị của Việt Nam Cộng Hoà đệ nhất cũng như đệ nhị.

Họ tự dán nhăn hiệu “cấp tiến” để phê phán chính sách chống Cộng của Chính quyền Đệ nhất và Đệ nhị Việt Nam Cộng Hoà tạo điều kiện thuận lợi cho guồng máy tuyên truyền của Đệ tam Quốc tế. Hoặc rút vào tháp ngà “không làm chính trị”. Trốn vào tháp ngà cũng khó thoát khỏi sự trừng trị khi giới cầm quyền thấy cần.

Bản năng chính trị được Thượng Đế ban cho con người mà không bất cứ loài vật nào được hưởng. Do đó, loài người mới tổ chức thành cḥm xóm, xă hội, quốc gia với những quy luật bất-thành-văn hoặc hương ước, hiến pháp để điều hành cộng đồng, quốc gia có tôn ti, trật tự.

Ai đó không làm chính trị th́ sẽ bị kẻ khác áp đặt các quy luật tuỳ thích nhằm buộc đa số làm nô lệ. Đế Chế, Đức Quốc Xă, Chủ nghĩa Xă hội, Quân phiệt Nhật, Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Tín ngưỡng phát triển và lộng hành đă gây vô vàn tội ác chống nhân loại chỉ v́ loài người từ chối món quà duy nhất của Thượng Đế.

Thiếu hiểu biết về chính trị dễ làm miếng mồi ngon cho các mưu đồ đen tối. Hiểu biết chính trị có nhiều tŕnh độ nên tác động tới dân tộc không giống nhau.

Học giả Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 tại Hà Nội, hơn 20 tuổi đă làm công chức ở Nam Kỳ rồi bước sang lĩnh vực thuần tuư văn học với các công tŕnh đồ sộ về khảo cứu, dịch thuật, trước tác hơn 120 quyển sách đủ loại. Ông từ chối lời mời tham gia sinh hoạt văn học sau 1975 và qua đời tại Sài G̣n năm 1984.

Học giả Nguyễn Hiến Lê hoàn tất Bộ Hồi kư “Đời Viết Văn Của Tôi” từ quốc nội vào năm 1981 gồm 3 tập được Nhà xuất bản Văn Học in năm 1993 sau khi cắt xén, biên tập. Trái lại, tập 1 và 2 được Nhà xuất bản Văn Nghệ ở hải ngoại phổ biến năm 1990, tập 3 năm 1998 hoàn toàn giữ đúng nguyên tác.

Nguyễn Hiến Lê viết “Cho tới năm 1974, tôi đă được biết ba xă hội: xă hội nông nghiệp truyền thống, xă hội tư bản Tây Phương, vài nét về xă hội tiêu thụ hậu-kỹ-nghệ kiểu Mỹ. Từ 1975, tôi được biết thêm Chủ nghĩa Xă hội. Tôi vốn có cảm t́nh với Việt Minh, với Cộng sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ nên tôi sẵn ḷng giúp anh em kháng chiến”.

Do đó, Ông bất-hợp-tác với Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nên đă từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 và Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm 1973 của Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa.

Ông Nguyễn Hiến Lê chưa từng sống dưới chế độ cộng sản ở Miền Bắc nên chẳng phân biệt được chân/giả trong tháp ngà văn chương thiên tả Tây Phương. Do đó, Ông bưng tai qua những lời kể về chế độ cộng sản ở miền Bắc của đồng bào di cư, bịt mắt trước cuộc chiến uỷ nhiệm do Cộng sản Quốc tế tạo ra cảnh nồi da nấu thịt ở Miền Nam vĩ tuyến 17. Có lẽ Học giả Nguyễn Hiến Lê và Triết gia Hiện sinh Jean Paul Sartre mang chung tâm trạng “việc người th́ sáng, việc ḿnh th́ quáng” cho tới cuối đời mới sáng mắt. Khi học giả Nguyễn Hiến Lê thoát ra khỏi tháp ngà văn chương đă chứng kiến xác thực đời sống gông cùm dưới chế độ cộng sản nên can đảm như một kẻ sĩ của dân tộc Việt Nam: dám nhận sai trái, dám nói, dám làm v́ đại nghĩa.

Bộ Hồi kư của Nguyễn Hiến Lê như một bản án nặng nề cho chế độ Cộng sản Việt Nam với những chứng cứ và số liệu không thể chối bỏ hoặc biện bác “Muốn thấy chế độ đó ra sao th́ phải sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người Miền Nam rút được từ 1975 tới nay”.

Thiếu hiểu biết về chính trị làm cho con người khó hiểu rơ chân tướng của cá nhân hoặc đảng phái, đoàn thể nên khi nhận ra bị lừa th́ đă quá muộn.

Nhiều người cả đời theo cộng sản như Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ khi chia tay đă viết “dẫu ĺa ngó ư c̣n vương tơ ḷng”. Hoặc, Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí nói “Thời trước ḿnh viết, ngụy nó bỏ tù ḿnh cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam ḿnh th́ kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”.

Do hiểu biết về chính trị nên kể từ năm 1954 gần phân nửa dân số đă quyết chọn con đường xây dựng một nước Việt Nam ở phía Nam vĩ tuyến 17 thành một quốc gia theo kịp đà văn minh của nhân loại, tạo điều kiện cho tài năng xuất chúng Nguyễn Hiến Lê thăng hoa, kết trái.

Dân số Miền Nam Việt Nam vào khoảng hơn 14 triệu người sau Hiệp định Geneve 1954 có hiệu lực thuộc 3 thành phần: (1) Có kinh nghiệm với cộng sản gồm gần 2 triệu người Bắc di cư và dân số 4 tỉnh Nam-Ngăi-B́nh-Phú. (2) Khoảng 10 triệu người từ Nha Trang tới Cà Mau biết rất ít hoặc mù tịt về cộng sản. (3) Du kích hoặc cảm t́nh viên Cộng sản chịu sự kiểm soát của Ban Lănh đạo do Lê Duẩn, lén trốn lại ở Miền Nam trên chuyến tàu tập kết ra Bắc năm 1954, điều khiển.

Thành phần 1 và 2 vui mừng v́ hoà b́nh đă được tái lập khi Quân đội Viễn chinh Pháp tuần tự hồi hương nên mọi người Việt từ già đến trẻ, không phân biệt vùng miền, tôn giáo, niềm tin đảng phái đều dốc ḷng góp sức xây dựng lại cuộc sống gia đ́nh và quốc gia, cộng thêm viện trợ Mỹ hợp lư đă làm thay đổi bộ mặt ảm đạm v́ chiến tranh. Khoảng đầu thập niên 1960, Việt Nam Cộng Hoà chỉ thua Nhật Bản ở Châu Á, trở thành giấc mơ cho các nhược tiểu Đông Nam Á.

Thành phần 3, lợi dụng thể chế chính trị dân chủ và sinh hoạt tự do của Việt Nam Cộng Hoà mà Lê Duẩn lănh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ (1954-1957) và năm 1956 đă hoàn thành bản dự thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”. Năm 1957, Hồ Chí Minh gọi Duẩn ra Bắc và 1960, Lê Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhất của Ban Chấp hành Đảng Lao Động Việt Nam, thay mặt Hồ Chí Minh giải quyết mọi vấn đề, đặc biệt thi hành chiến lược nhuộm đỏ Bán đảo Đông Dương và tiến xuống Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.

Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của phóng viên quốc tế “Dù cho có phải đốt cháy Dăy Trường Sơn, hy sinh tới người cuối cùng vẫn phải giải phóng Miền Nam Việt Nam”. Đền thờ Lê Duẩn có khắc câu “Ta đánh Pháp, đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, cho Trung Quốc”. Chẳng lẽ máu xương của người Việt Nam chỉ được đảng cộng sản dùng để hoàn thành chiến lược của Quốc tế Cộng sản? Chữ “yêu nước” mà đảng Cộng sản thường hô hào sao mà cay đắng và đần độn đến thế!

Vậy mà, một số trí thức tại Việt Nam Cộng Hoà, dù trên thông thiên văn, dưới đạt địa lư, vẫn trùm chăn, không thông báo và giải thích cặn kẽ cho dân đen biết để Chống Cộng tới thành công?

Tội ác của Đế chế, Đức Quốc xă, Quân Phiệt Nhật, Chủ nghĩa Xă hội, Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Tín ngưỡng được ghi lại rơ ràng suốt ḍng lịch sử loài người. Các chế độ đó không sụp đổ v́ chiến tranh mà do tinh thần Tự Quyết Dân Tộc.

Một người dân th́ yếu, nhưng, toàn dân đồng ḷng quyết bảo vệ quyền Tự quyết Dân tộc sẽ trở thành sức mạnh vô biên mà chẳng giới cầm quyền nào có thể chống cự được lâu dài.

Đế Chế, Đức Quốc Xă, Chủ nghĩa Xă hội, Quân phiệt Nhật, Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Tín ngưỡng với bao nhiêu hứa hẹn “hái sao trên trời” và áp dụng vô số biện pháp cai trị khắc nghiệt, phi-nhân cũng chẳng thắng được làn sóng Tự quyết Dân tộc dù trong tay họ không một tấc sắt.

Các dân tộc Đông Âu, Nga, Trung Á, Caucasus, Trung Đông đă chứng minh một chân lư không bao giờ thay đổi trong sinh hoạt cộng đồng nhân loại.

Độc lập, Tự do, Dân chủ, Nhân quyền, Nhân Bản, ư thức tự chủ, yêu công bằng và không bao giờ là bữa ăn miễn phí mà phải đổi bằng niềm tự hào dân tộc, ḷng khao khát tự do, t́nh nhân ái, lấy con người làm mục tiêu phục vụ.

Không ai có thể làm thay cho dân tộc Việt Nam. Vùng lên là giải pháp đúng nhất.

Đại-Dương 

Trở lại