Trận
mưa bom Giáng sinh Trọng Đạt |
Ḥa
đàm bế tắc. Sau
trận tổng công kích Tết Mậu Thân Tổng
thống Johnson quá mệt mọi v́ cuộc chiến
tranh Việt Nam, ngày 31-3-68,.ông tuyên bố không tái tranh
cử và tạm thời cho ngưng oanh tạc một
phần lớn lănh thổ Bắc Việt từ vĩ
tuyến thứ 20 trở lên, ông kêu gọi Hà Nội hăy
tỏ thiện chí ḥa đàm nếu không sẽ cho
nếm mùi sức mạnh. Một tháng sau Cộng
Sản Bắc Việt nhận lời đàm phán. Hội
nghị được tổ chức tại khách
sạn Majestic, thủ đô Ba Lê nước Pháp khai
mạc ngày 10-5-1968 ông W. Averell Harriman đại diện
phía Mỹ, Xuân Thủy phía Hà Nội. Đây là
một hội nghị được quốc tế chú
ư nhất từ trước tới nay có hơn 3,000 phóng
viên các nước tới theo dơi lấy tin. Hà
nội khăng khăng đ̣i Mỹ phải ngưng
oanh tạc toàn diện miền Bắc. Ngày 31-10-1968
Johnson nhượng bộ cho ngưng dội bom trên toàn
miền Bắc. Ḥa
đàm thực sự bắt đầu dưới
nhiệm kỳ chính phủ Cộng Ḥa Nixon, nhậm
chức đầu năm 1969. Hà Nội ngoan cố đ̣i
hai điều kiện tiên quyết: Mỹ phải rút
quân khỏi miền Nam ViệtNam, lật đổ chính
phủ Nguyễn Văn Thiệu để thay thế
bằng chính phủ lâm thời ba thành phần. Hoa
Kỳ rút quân dần dần mỗi năm, từ 530 ngàn
người Mỹ đóng ở miền Nam 1968 cho
tới 1972 chỉ c̣n vài chục ngh́n người,
Bắc Việt vẫn ngoan cố đói phải lật
đổ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Sở
dĩ BV ngoan cố không chịu đàm phán nghiêm
chỉnh v́ họ đă được phong trào
phản chiến và Quốc hội Mỹ gian tiếp
hoặc trực tiếp yểm trợ. Theo Nixon (trong No
More Vietnams trang 127) hành động của đám sinh viên
bạo động đă khuyến khích CSBV gây chiến
không chịu đàm phán nghiêm chỉnh. Bọn biểu
t́nh vô t́nh kéo dài chiến tranh làm lợi cho CS. Tại
cuộc ḥa đàm đại diện BV đă nhiều
lần hỗn hào chửi bới phái đoàn Mỹ,
họ nắm được cái tẩy của hành pháp
Mỹ đang gặp khó khăn v́ bị Quốc
hội và phản chiến chống đối. Cuối
tháng 3-1972, BV đem đại binh tấn công qui mô trên
toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa tổng cộng
10 sư đoàn chính qui có xe tăng, đại bác pḥng
không yểm trợ đánh ba tỉnh lớn B́nh Long,
Kontum, Quảng Trị cho tới giữa tháng 9-1972 quân
đội VNCH tái chiếm cổ thành Quảng Trị và
cuộc chiến được gọi Mùa hè đỏ
lửa chấm dứt. BV bị thiệt hại nặng
khoảng từ 70 cho tới 100 ngàn cán binh, phía VNCH vào
khoảng 30 ngàn người tử trận. Không quân và
Hải quân Mỹ yểm trợ tối đa, Hoa Kỳ
muốn VNCH phải thắng để lấy ưu
thế tại bàn hội nghị. Người Mỹ
đă mở lại các cuộc oanh kích miền Bắc
để trả đũa BV, họ gọi là Operation
Linebacker bombing, chiến dịch oanh tạc Linebacker I này
bắt đầu từ 10-5 đến 23-10-1972. Cuối
năm 1972 Hoa Kỳ mở chiến dịch Linebacker II
(Linebacker thứ hai) đây là chiến dịch oanh
tạc của không quân nhằm vào BV trong giai đoạn
chót của Mỹ trong chiến tranh VN từ 18-12 tới
29-12-1972, cũng được gọi vui là Christmas
bombing, Cuộc oanh tạc vào dịp Giáng sinh. Đây là
cuộc oanh tạc lớn nhất của không quân
Mỹ từ sau Thế chiến thứ hai, nó là sự
tiếp tục của Chiến dịch Linebacker I kể
trên, điều khác biệt là Linebacker II oanh tạc
bằng B-52 chứ không bằng máy bay chiến thuật
như Linebacker. Trước
Giáng Sinh 1972 gần 3 tháng, vào ngày 8-10-1972 Kissinger và Lê
đức Thọ gặp nhau ở Ba Lê để
thảo luận về những đề nghị
mới của hai phía t́m kiếm ḥa b́nh. Lê Đức
Thọ đề nghị kế hoạch mới của
BV: Ngưng bắn tại chỗ, Mỹ rút quân, trao
đổi tù binh BV, VNCH, Chính phủ lâm thời của
Mặt trận giải phóng, giữ nguyên, BV không đ̣i
Thiệu từ chức, Mỹ vẫn tiếp tục
viện trợ cho VNCH, cả Hà Nội và Mỹ đều
được tiếp tục viện trợ cho đồng
minh trên căn bản đồng đều nhau, BV
sẽ không xâm nhập, Mỹ sẽ tái thiết BV, thành
lập Hội đồng quốc gia ḥa giải dân
tộc, thực hiện bầu cử tại miền Nam
VN, sẽ có ba quyền lực: Chính phủ Sài G̣n,
Mặt Trận giải phóng, Thành phần thứ ba
gồm đại diện cả hai bên. Cả ba
phải có sự nhất trí, mọi hành động
của hội đồng mới phải có sự đồng
ư của TT Thiệu. Ngày
11-10-1972 ṭa đại sứ Pháp tại Hà Nội
bị thiệt hại trong cuộc ném bom của Mỹ,
Đại sứ Pháp Pierre Susini bị thương
nặng Lê Đức Thọ phản đối với
Kissinger, Hoa kỳ ngưng oanh tạc 23-10-1972. Ngày
16-10-1972 Kissinger trở lạiParishọp với Xuân
Thủy trong khi Lê Đức Thọ đang về Hà
Nội. Hai bên lại họp ngày 17-10-1972, họ bất
đồng ư kiến hai điểm: Việc thay thế
định kỳ vũ khí của miền nam VN, thả
tù binh CS do VNCH giam giữ. BV muốn kư hiệp định
trước tháng 11-1972, họ tin rằng Nixon sẽ nhượng
bộ trước kỳ bầu cử Tổng thống
sắp tới hơn là sau bầu cử. Kissinger đồng
ư những điều khoản mới, ông cho Nixon
biết và được Nixon chấp thuận. Sơ
thảo Hiệp định sẽ được kư
tại Hà Nội ngày 31-10-1972. Kissinger bay đến Sài
G̣n ngày 18-10 để gặp TT Thiệu, VNCH không đồng
ư với bản hiệp định mới và không hài
ḷng với Kissinger cho là đă phản bội. TT
Thiệu đ̣i sửa 129 điều khoản trong đó
đ̣i khu phi quân sự phải coi như biên giới
quốc gia, không c̣n là ranh giới quân sự tạm
thời, VNCH phải được coi như một
quốc gia biệt lập, nếu được như
vậy th́ BV sẽ không c̣n lư do gây chiến tranh để
thống nhất đất nước như họ
đang làm. Về
điểm này sử gia Stanley Karnow trongVietnama History trang
665 đă chua chát nói. “Thật
là mỉa mai hết chỗ nói, người Mỹ đă
chiến đấu bao nhiêu năm để bảo
vệ nền độc lập của miền nam VN bây
giờ họ lại phủ nhận tính hợp pháp
của nó” Ngày
26-10 ông Thiệu tiến thêm một bước, công
bố bản dự thảo đă được
sửa khi ấy giới lănh đạo miền Bắc
cho rằng Kissinger đă đánh lừa họ, họ bèn
công bố một số phần của thỏa ước
cho người ta cảm tưởng rằng thỏa
ước phù hợp mục đích của Hoa Kỳ và
chính phủ Sài G̣n. Kissinger muốn tạo niềm tin
cho cả hai miền, ông quả quyết với BV
rằng ḿnh thật t́nh và với Sài G̣n rằng
Mỹ đă gây hiểu lầm. Kissinger họp báo
tại ṭa Bạch ốc lạc quan tuyên bố ta có
thể tin ḥa b́nh đang ở trong tầm tay (We believe
that peace is at hand). Ngày
20-11-1972 những điều khoản tu sửa của
VNCH và 44 điều khoản thay đổi do Nixon yêu
cầu đă được Kissinger trao cho phái đoàn
CSVN. Những khoản yêu cầu gồm: Khu phi quân
sự được coi như ranh giới quốc
tế giữa hai nước, quân đội CSBV rút
về Bắc, BV bảo đảm ngưng bắn lâu dài
tại Đông Dương, một lực lượng
quốc tế giữ ǵn ḥa b́nh sẽ được
thành lập để quan sát ngưng bắn. Khi
đọc xong, phía BV rút những nhượng bộ và
mặc cả thêm khiến Kissinger bèn nói dậm chân
tại chỗ rồi. Cuộc nói chuyện dự trù 10
ngày chấm dứt ngày 13-12 với thỏa thuận
của hai bên bắt đầu thương thảo,
cuộc đối thoại tan vở hôm ấy, phái
đoàn Hà Nội từ chối không chịu tiếp
tục đàm phán. Nixon
đang định kỳ hạn cho ngày kư Hiệp Định
tháng 1-1973, lời tuyên bố của Kissinger khiến dân
Mỹ tin tưởng, kỳ vọng ở thỏa
hiệp. TT Nixon lo phiên họp Quốc hội thứ 93
sẽ bắt đầu ngày 3-1-1973, ông sợ các nhà
lập pháp Dân chủ sẽ ban hành luật chấm
dứt chiến tranh trước khi ông thực hiện
cam kết ḥa b́nh trong danh dự của ḿnh.Phía BVđánh
hơi thấy phiên họp Quốc hội trong tháng
1-1973 có thể ban hành luật chấm dứt chiến
tranh Đông Dương đến lúc ấy th́
khỏe re, bất chiến tự nhiên thành, khỏi
phải họp hành kư kết. Đó là một lỗi
lầm tai hại của họ đưa tới
trận đ̣n tàn khốc nhất trong toàn bộ
cuộc chiến tranh VN. Tổng
thống Nixon quan tâm trước hết chi phí chiến
dịch Linebacker, máy bay, nhân lực gửi tới Đông
Nam Á đè nặng lên ngân sách Ngũ giác đài,
tổng cộng 4 tỷ vào giữa mùa thu và Bộ trưởng
quốc pḥng Melvin Lair đă khẩn khoản đề
nghị Nixon xin Quốc hội một ngân khoản để
trang trải. Kissinger và Nixon được biết
lập pháp sẽ có thể nắm cơ hội để
đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến. Quyết
định và thảo kế hoạch. Kissinger
từ Paris về ngày 14-12-1972 ông bàn với Nixon sau
đó gửi tối hậu thư cho Hà Nội đe
dọa nếu BV không trở lại bàn hội nghị
trong 72 giờ đồng hồ (3 ngày) sẽ đưa
tới hậu quả nghiêm trọng. Cũng trong ngày
Nixon ra lệnh phong tỏa cảng Hải Pḥng bằng máy
bay thả ḿn và cho Bộ tư lệnh không quân nghiên
cứu kế hoạch oanh tạc trong giới hạn 72
giờ. Nixon bác bỏ lời Kissinger khuyên Tổng
thống lên truyền h́nh thông báo chiến dịch, ông
lệnh cho Kissinger mở cuộc họp báo ngày 16-12
để nói cho dư luận biết ḥa đàm bế
tắc v́ BV ngoan cố. Kissinger ám chỉ cho biết chính
phủ sẽ có biện pháp mạnh. Một
trong những phương châm của Nixon là nếu
đă dùng vũ lực th́ phải tận dụng
sức mạnh vô giới hạn, một khi đă áp
dụng sức mạnh quân sự th́ tốt nhất là
phải đánh xả láng, once a decision had been made to apply
military muscle, it was best to go all out (Walter Isaacson – Kisinger A
Biography trang 468). Trước ngày mở oanh tạc, Nixon
chỉ thị cho Đô đốc Moorer: “Đây là cơ
hội để ông xử dụng hỏa lực quân
sự hữu hiệu để thắng địch,
nếu không ông sẽ chịu trách nhiệm”. Nixon
lấy Linebacker II để gấy thiệt hại
tối đa về vật chất cho BV, trong khi Linebacker
I tháng 5-1972 để phá hoại bộ máy quân sự
BV, Nixon xử dụng Linebacker II để tiêu diệt
tinh thần chiến đấu của địch cũng
như để chứng tỏ cho chính phủ Việt
Nam Cộng Ḥa thấy ông là con người thép (Larry
Berman – No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,
trang 215). Thời
hạn tối hậu thư đă qua, hai hôm sau vào ngày
18-12, Mỹ mở cuộc oanh tạc Hà Nội. Về
sau các sử gia nghiên cứu về cuộc chiến
Đông Nam Á đồng ư với quan điểm
của Nixon cho rằng BV ngoan cố không chịu trở
lại pḥng họp. Hai bên đă muốn thương
thảo nhưng BV lại từ chối trở lại,
họ chờ phiên họp sắp tới của Quốc
Hội. Mục đích của TT Nixon không phải để
thuyết phục BV mà để thuyết phục ông
Thiệu, Nixon cho biết dù điều khoản của
hiệp định ngưng bắn như thế nào,
VNCH có thể tin vào lời hứa của ông sẵn sàng
yểm trợ cho miền Nam khi BV vi phạm hiệp
định. Sau
chiến dịch Linebacker I, Hoa Kỳ có 207 B-52 dành cho
chiến trường Đông Nam Á, gồm 54 chiếc
(mẫu B-52-D) đóng tại phi trường U-Tapao
Thailan và 153 chiếc khác tại căn cứ Andersen,
đảo Guam (gồm 55 chiếc B-52 D và 98 B-52G). Chiến
dịch coi như xử dụng một nửa tổng
số máy bay B-52 của Không đoàn oanh tạc cơ
Mỹ, các vị chỉ huy của Bộ chỉ huy
chiến thuật không quân miễn cưởng chấp
nhận sự xử dụng những máy bay đắt
giá và những phi hành đoàn huấn luyện tốn kém.
Sự huy động một lực lượng máy bay
B-52 lớn chưa từng thấy trong cuộc chiến
và dự án tấn công đại qui mô quanh Hà Nội
20 km cho thấy thể hiện sự thay đổi
lớn trong việc huy động lực lượng không
quân. Nhiều
vị trong Bộ chỉ huy cũng đồng ư với
chiến dịch bay vào màng lưới pḥng không
dầy đặc của BV hy vọng chứng tỏ các
oanh tạc cơ có khả năng vượt qua hệ
thống hỏa tiễn tinh khôn địa không SAM
(surface-to-air missiles) do Nga chế tạo cũng như súng
pḥng không và máy bay nghênh chiến MIG. Lư do chính phải
dùng B-52 cho chiến dịch thay v́ phi cơ chiến
thuật v́ tháng 12 thuộc mùa mưa tại miền
Bắc VN, thời tiết xấu gây khó khăn cho các
phi cơ chiến thuật v́ các máy bay này cần quan sát
bằng mắt. B-52 có khả năng tham chiến dù
thời tiết xấu cũng như tốt nên đă
được chọn giữ vai tṛ then chốt cho
chiến dịch này. B-52 đă được trang
bị hệ thống bom vận hành theo radar và các máy
bay yểm trợ. Các pháo đài bay này có thể
tấn công mục tiêu hoặc với những bom có tia
laser hướng dẫn khi thời tiết tốt
hoặc dùng hệ thống oanh tạc do radar hướng
dẫn. Chiến
dịch này lấy tên Linebacker II được phác
họa tại Bộ chỉ huy không quân tại Omaha,
Nebraska, v́ giới hạn thời gian chỉ có ba ngày và
qua kinh nghiệm của chiến dịch trước
Linebacker I theo đó máy bay MIG nghênh chiến sẽ là
mối đe dọa cho oanh tạc cơ Mỹ. Các
vị chỉ huy ban kế hoạch cho máy bay tới Hà
Nội làm ba đợt vào ban đêm, mỗi đợt
cùng đi một đường, cùng cao độ, các
oanh tạc cơ bay theo đội h́nh ba chiếc (cells)
để tăng hiệu quả. Mỗi
khi ném bom xong các máy bay sẽ quay về phía tây mà
Bộ tham mưu gọi là chuyển hướng sau
mục tiêu (post-target turns, gọi tắt PTT), sự
chuyển hướng này sẽ có hai hiệu quả không
thuận lợi cho các oanh tạc cơ B-52 có thể hướng
vào cơn gió mạnh ngược chiều, nó sẽ làm
giảm tốc độ c̣n 185 km/giờ và sẽ kéo dài
thêm thời gian ở tại mục tiêu có thể làm
giảm hiệu quả đội h́nh cũng như
trở thành bia cho radar của hỏa tiễn SAM dưới
đất. Trận
mở đầu Trong
ba nhiệm vụ của chiến dịch như Bộ
chỉ huy chiến dịch đă đề ra trong ba
đêm liên tiếp bắt đầu từ 18-12-1972,
đêm đầu tiên 129 máy bay được tung vào
chiến dịch, trong đó 87 chiếc từ Guam, 39
chiếc yểm trợ thuộc Bộ tư lệnh không
lực 7 (The seven air force), Lực lượng đặc
nhiệm 77 Hải quân và Thủy quân lục chiến
yểm trợ các oanh tạc cơ B-52 qua sự cung
cấp các máy bay F-4 hộ tống, F-105 Wild Weasel để
tiêu diệt hỏa tiễn SAM của BV, máy bay EB-66
thuộc không quân và EA-6 thuộc hải quân, máy bay
chaff plane, loại máy bay thả những miếng kim
loại dát mỏng (chaff) để gây rối loạn
radar đối phương, (chaff = tiny strips of metal foil
that are dropped to confused radar), KC-135 tiếp tế nhiên
liệu trên không, và các máy bay giải cứu phi hành
đoàn. Mục
tiêu của đợt thứ nhất là phi trường
Kép, Phúc Yên và Ḥa Lạc, một nhà kho tại Yên Viên
trong khi đợt thứ hai và thứ ba tấn công các
mục tiêu quanh Hà Nội. Ba máy bay bị rớt do
khoảng 220 hỏa tiễn SAM của BV, trong số này
hai chiếc B-52G từ Guam và một B-52D từ U-Tapao Thái
lan, ngoài ra hai B-52 D từ Guam bị thương nặng
cố lết về U-Tapao sửa chữa, chỉ có
một phi hành đoàn của ba máy bay bị hạ
được giải cứu, cũng tối hôm ấy
một F-111 của không quân bị bắn hạ trong khi
ném bom đài phát thanh Hà Nội. Đêm
thứ hai (19-12) có 97 phi vụ do oanh tạc cơ B-52
tham dự, mục tiêu gồm sở Hỏa xa Kinh Nỗ
và kho hàng lân cận, nhà máy nhiệt điện Thái
Nguyên cũng như nhà ga Yên Viên. Mặc dù có
khoảng 185 hỏa tiễn SAM do BV phóng lên và một
số oanh tạc cơ bị hư hại v́ trúng đạn
nhưng không cái nào bị rớt. Bộ chỉ huy hy
vọng đêm thứ ba, tức đêm cuối của
chiến dịch cũng sẽ tốt đẹp như
lần trước. Mục
tiêu thứ ba ngày 20-12 do 99 oanh tạc cơ thực
hiện gồm ga xe lửa Yên Viên, nhà kho Yên Mỗ, nhà
máy điện Thái Nguyên, địa điểm bốc
rở hàng tại Bắc Giang, nhà ga Kinh Nỗ, kho nhiên
liệu săng dầu tại cũng như gần Hà
Nội. V́
thấy đợt hai bị thiệt hại nhẹ,
đợt ba được tiến hành y như trước
đó là một lỗi lầm tai hại, phía Mỹ ra
chiều tự măn với phương thức trước.
Trong đêm thứ ba BV cũng học được
kinh nghiệm qua phương thức ấy, pháo đài
bay B-52 khi tiến vào Hà Nội thấy MIG ở xa xa nhưng
chúng không nghênh chiến mà chỉ để báo cáo cho
dưới đất biết cao độ và tốc
độ của máy bay Mỹ. Thế là BV cho bắn
xả láng hỏa tiễn địa không và đại
bác pḥng không lên các máy bay Mỹ. Lộ tŕnh tái
diễn, ngựa quen đường cũ đă
đưa tới thảm bại cho Mỹ, 6 B-52 bị
bắn rơi trong đêm thứ ba (gồm hai B-52D và
bốn B-52G), sự thiệt hại nặng của
những B-52 trị giá 8 triệu đô la khiến
Quốc Hội và người dân phẫn nộ, họ
yêu cầu chấm dứt oanh tạc. V́
đợt ba tái diễn như hai lần trước
khiến pḥng không BV đă có kinh nghiệm và phóng 300
quả lên mục tiêu, sáu B-52G và ba B-52D bị thiệt
hại trong đợt tấn công thứ nhất và
thứ ba, một B-52D quay về Thái Lan bị rớt
ở Lào. Chỉ có hai trong số tám người
của phi hành đoàn được cứu thoát.
Chiến dịch gây phản ứng dữ dội,
Bộ chỉ huy không quân bị áp lực nhiều phía:
“Chấm dứt cuộc tắm máu này!” nhiều sĩ
quan cao cấp trong Bộ chỉ huy không quân cho rằng
ta có thể mất nhiều oanh tạc cơ và
thuyết ưu thế của không quân có thể vô nghĩa. Vấn
đề chính ở chỗ chiến thuật của
Bộ chỉ huy không ghi nhận sự đe dọa
của máy bay MIG trong ba đợt của chiến
dịch. Chiến thuật không thay đổi vể
đường bay, cao độ, đội h́nh,
thời gian. Các vị chỉ huy giải thích sự không
thay đổi ấy sẽ thuận lợi cho các phi hành
đoàn B-52 không có kinh nghiệm bay vào một trận
địa nguy hiểm. Nhà sử gia về không quân Earl
Tilford lại có ư kiến khác: “Sau
nhiền năm oanh tạc những khu rừng không pḥng
ngự và thói quen phác họa kế hoạch chiến
tranh nguyên tử đă nuôi dưởng một định
kiến trong tư tưởng các vị chỉ huy suưt
đưa tới tai họa… chiến thuật nghèo nàn
kết hợp với tính tự tin quá cao đă
khiến cho mấy đợt bay tấn công đầu
tiên của chiến dịch thành cơn ác mộng cho các
phi hành đoàn B-52” (Wikipedia,
Operation Linerbacker II) Tổng
thống Nixon cho lệnh tiếp tục sau ba ngày kể
trên. Thay đổi thứ nhất ta thấy được
do các vị chỉ huy tại Mỹ phân biệt sự
khác biệt giữa các cơ phận radar của các
mẫu B-52 (B-52G, B-52D), thiết bị trên mẫu G
được xử dụng để ứng phó
với các dàn pḥng không tinh khôn, tối tân do Nga
chế tạo, nó không phải để ứng phó
với các hỏa tiễn SAM-2 xưa cũ và hệ
thống radar của BV. Các vị chỉ huy không quân
tại Omaha nhấn mạnh chỉ có máy bay tại
U-Tapao được trang bị các bộ phận tinh khôn
mới được đưa vào trận địa
tại BV. Do đó các đợt tấn công sau sẽ
bị cắt giảm về tầm vóc (số lượng
máy bay) mặc dù chiến thuật không thay đổi. Tối
thứ tư 21-12-1972 của chiến dịch, 30
chiếc oanh tạc cơ từ U-Tapao đến thả
bom kho hàng thuộc địa phận Hà Nội, Văn
Điển, phi trường Quảng Tề. Hai oanh
tạc cơ bị hỏa tiễn SAM bắn rớt.
Đêm hôm sau 22-12 mục tiêu được chuyển
từ Hà Nội xuống Hải Pḥng nhắm vào kho săng
dầu nhiên liệu. Lần này cũng 30 máy bay tham
dự trận đánh, không bị thiệt hại
về B-52 nhưng một F-111 bị bắn rớt
xuống nhà ga Kinh Nỗ. Ngày
22-12 một cánh của bệnh viện Bạch Mai
ngoại ô Hà Nội bị một chuỗi bom lạc
đánh trúng. Sự thiệt hại đă khiến BV và
các nhà phản chiến Mỹ la ó lên, bệnh viện
này cách đường bay của phi trường
Bạch mai 100 mét và một kho quân sự chỉ cách
đó chưa tới 200 mét, bệnh nhân đă
được di tản nhưng không may 28 bác sĩ, y tá,
dược sĩ bị thiệt mạng. Hai
ngày trước Giáng Sinh, các vị chỉ huy không quân
đưa các căn cứ SAM và các phi trường vào
danh sách mục tiêu, máy bay F-111 của Không quân
được đưa tới trước khi oanh
tạc cơ đến để giảm mối nguy
của máy bay địch lên nghênh chiến. F-111 đă
rất thành công trong chiến dịch tiêu diệt các dàn
hỏa tiễn địa không của BV. Đêm
thứ sáu 23-12 các oanh tạc cơ cũng tránh Hà
Nội và tấn công các vị trí hỏa tiễn địa
không tại phía bắc thành phố và ga xe lửa
Lạng Đăng. Không bị thiệt hại máy bay nào,
đêm hôm sau cuộc hành tŕnh may mắn (cũng tránh Hà
Nội) tiếp tục. Ba mươi oanh tạc B-52 cơ
được 69 phi cơ chiến thuật yểm
trợ tấn công nhà ga Thái Nguyên và Kép, không có máy
bay nào của Mỹ bị mất trong chiến dịch
này. Mặc
dù B-52 đảm nhiệm vai tṛ chính nhưng các phi cơ
chiến thuật cũng rất tích cực trong việc
yểm trợ. Trong khi các pháo đài bay và phi cơ
F-111 thực hiện các phi vụ trong ban đêm, trung b́nh
69 máy bay chiến thuật của Không quân, Hải quân
và Thủy quân lục chiến tấn công ban ngày, trung
b́nh gần 100 phi xuất một ngày. Sự thiệt
hại của những phi cơ này rất nhẹ,
chỉ hơn mười chiếc trong toàn bộ
chiến dịch, lư do cũng không có ǵ khó hiểu v́
pḥng không BV chỉ đợi ban đêm mới
chống trả dữ dội các mục tiệu
xuất hiện.
USAF's
B-52 Stratofortress shot down in Operation Linebacker II, December 1972,
Hanoi
Trận
cuối Sau
trận oanh kích ngày 24 -12-1972, chiến dịch tạm ngưng
36 giờ nghỉ lễ Giáng Sinh 1972, trong khi đó các
nhà kế hoạch gia không quân làm việc, họ
duyệt lại chiến thuật cho giai đoạn
kế tiếp tức giai đoạn chót. V́ bị
thiệt hại ở giai đoạn đầu nên
họ dự trù một cuộc tấn công dữ
dội vào các phi trường BV khi bắt đầu
tấn công trở lại. Giai đoạn này cũng
cần thiết, từ ngày Giáng Sinh hầu hết các
mục tiêu chiến thuật của BV đă bị ném
bom tan nát. Sau đó các vị chỉ huy đă giao
kế hoạch chiến thuật cho các giới chức
Không quân thuộc cấp tại Không Lực Tám (Eighth
Air Force) đóng tại Guam, ở đây cấp chỉ
huy nhanh chóng duyệt lại chiến thuật đă có
nhiều thiệt hại trước đây. Nay
thay v́ tấn công nhiều đợt, các oanh tạc cơ
có thể đánh và rút tại mục tiêu trong ṿng 20
phút, các pháo đài bay này có thể đến từ
nhiều hướng và nhiều cao độ khác nhau. Các
oanh tạc cơ có thể tùy nghi muốn rút theo
đường nào th́ rút, kế hoạch rút về hướng
tây (post-target turns) trước đây bị loại
bỏ. Các pháo đài bay đến từ bảy địa
điểm khác nhau sẽ tấn công mười
mục tiêu trong phạm vi Hà Nội, Hải Pḥng, trong
đó có bốn địa điểm từ vịnh
BV. Ngày
26 -12-1972, tổng cộng 120 oanh tạc cơ cất cánh
ném bom ga xe lửa Thái Nguyên, Kinh Nỗ, đường
xe lửa Đức Nội, Hà Nội, Hải Pḥng và
khu nhà ga Vân Điển, 78 oanh tạc cơ xuất phát
từ Anderson (Guam), đó là trận oanh tạc “trong
một lần” lớn nhất trong lịch sử
của Bộ chỉ huy chiến dịch, 42 chiếc khác
từ Thái Lan. Các oanh tạc cơ được 113 máy
bay chiến thuật yểm trợ như thả
những miếng lá kim loại dát mỏng phá rối
radar BV, hộ tống, phá hủy các dàn hỏa tiễn
địa không… Hệ
thống pḥng không của BV mặc dù c̣n hữu
hiệu nhưng bị tràn ngập bởi số lượng
máy bay lớn cũng như rất khó t́m ra máy bay trong
khoảng thời gian ngắn và bị màn dầy đặc
của các miếng kim loại dát mỏng do máy bay
chiến thuật thả xuống. BV đă bắn lên
khoảng 950 hỏa tiễn trước đây, kho tên
lửa nay đă gần cạn, họ chỉ bắn lên
được 68 quả SAM trong chiến dịch này.
Một B-52 bị hạ gần Hà Nội, một cái khác
bị hư hại nặng quay đầu về U-Tapao
bị hủy hoại, chỉ có hai người trong phi
hành đoàn sống sót. Tối
sau 27-12-1972 có 60 oanh tạc cơ tiến hành chiến
dịch, một số tấn công các vị trí hỏa
tiễn địa không, số c̣n lại đánh phá
đường xe lửa Lạng Đăng, Đức
Nội, Trùng Quang và Văn Điển. Một B-52
bị thương nặng khiến phi hành đoàn
nhẩy dù xuống Lào được cứu thoát,
một chiếc khác không may khi oanh tạc ga xe lửa Trùng
Quang bị trúng đạn. Trong chiến dịch ban
đêm hai phi cơ F-4 và một máy bay trực thăng
cấp cứu HH-53 bị bắn rơi. Ngày
thứ 10 tức 28-12-1972 tổng cộng có 60 B-52 trong
đó 15 chiếc loại G và 15 loại D từ Anderson,
Guam, và 30 chiếc loại D từ U-Tapao, các máy bay
tấn công năm mục tiêu làm sáu đợt, trong
đó bốn đợt đánh vào các mục tiêu
thuộc địa phận Hà Nội (gồm cơ
sở cung cấp hỏa tiễn địa không), trong
khi đó đợt năm đánh ga xe lửa Lạng
Đăng ở Tây Nam Lạng Sơn, một số
lớn các tuyến đường vận tải
từ Trung Cộng. Không có máy bay nào bị rớt trong
chiến dịch này. Ngày
thứ 11 tức ngày 29-12 là trận oanh tạc chót cùng,
chỉ c̣n một ít mục tiêu chiến lược c̣n
lại tại BV đáng lưu ư, tuy nhiên c̣n hai kho
hỏa tiễn SAM tại Phúc Yên và ga xe lửa Lạng
Đăng có thể oanh tạc được. Tổng
cộng 60 chiếc máy bay lại tiến về Bắc
nhưng thay đổi việc chọn lựa loại
mẫu. U-Tapao lại cung cấp 30 mẫu D, lực lượng
từ Anderson thay đổi, đưa 12 mẫu G và 18
mẫu D trên không phận BV, cuối cùng 30 B-52D làm
nhiệm vụ oanh tạc trên vùng cán chảo BV và phía
Nam VN, lần này cũng không có máy bay nào bị pḥng không,
máy bay MIG của BV hay hỏa tiễn bắn hạ. Thương
lượng và kư kết. Ngày
22-12-1972 Hoa Kỳ kêu gọi Hà Nội trở lại bàn
hội nghị để bàn thảo những khoản
đă đề ra từ tháng 10. Ngày 26-12, Hà Nội báo
cho Hoa Thịnh Đốn họ muốn nhấn mạnh
cho Nixon biết oanh tạc không phải là lư do để
quyết định, Bộ chính trị BV cho biết ngưng
oanh tạc không phải là điều kiện tiên
quyết cho cuộc đàm phán. Nixon trả lời ông
muốn các cuộc đàm phán về kỹ thuật,
thủ tục bắt đầu ngày 2-1-1973 và ông
sẽ ngưng oanh tạc nếu BV đồng ư. Họ
thỏa thuận và Nixon ngưng chiến dịch dội
bom trên vĩ tuyến 20 từ ngày 29-12. Kế đó ông
báo cho Kissinger chấp nhận những điều
khoản đă có từ tháng 10 để kư Hiệp
Định. Thượng nghị sĩ Henry Jackson
thuộc Dân chủ, tiểu bang Washington khuyên Tổng
thống Nixon nói chuyện trên truyền h́nh cho nhân dân
biết chúng ta oanh tạc BV để buộc họ
trở lại bàn hội nghị. Nay
vấn đề trở ngại là sự đồng ư
của TT Thiệu, Nixon cố gắng trấn an ông
bằng lá thư ngày 5-1-1973 rằng: “Xin
cam kết với ông chúng tôi sẽ tiếp tục
yểm trợ trong thời gian sau khi kư kết và sẽ
trả đũa hết ḿnh nếu BV vi phạm
thỏa hiệp” (Wikipedia,
Operation Linebacker II) Theo
Walter Isaacson trong Kisinger, A Biography trang 486, những thư
cam kết do Kissinger bí mật soạn cho TT Nixon không
hỏi ư kiến Quốc hội, lư do không có ǵ khó
hiểu: Kissinger biết rơ nếu đưa ra công
luận bàn bạc sẽ bị Thượng viện
đánh ch́m ngay. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn không
chịu, ngày 14-1-1973, TT Nixon phải hăm dọa: “Tôi
đă nhất quyết tiến hành kư Hiệp Định
vào ngày 23-1-1973. Nếu cần tôi sẽ đơn phương
kư với họ. (Wikipedia,
Operation Linebacker II) Trong
No More Vietnams trang 167 Nixon cũng nói “Chỉ
khi chúng tôi tuyến bố nếu cần chúng tôi
sẵn sang kư Hiệp định dù ông không kư th́ lúc
ấy ông ấy miễn cưỡng phải kư” TT
Nixon cũng đă nói cho ông Thiệu biết nếu
miền Nam không chịu kư kết Hiệp định, gây
trở ngại cho hoà đàm th́ Quốc Hội Mỹ
sẵn sàng ra luật chấm dứt chiến tranh tháng
1-1973, cắt đứt viện trợ bỏ rơi VNCH
để đánh đổi lấy 580 tù binh Mỹ
tại Hà Nội. Theo Nixon từ 1969 Quốc hội
Mỹ đă nhiều lần định bỏ rơi
VNCH để đổi lấy hoà b́nh. Một
ngày trước thời hạn, TT Thiệu đành
phải chấp thuận thỏa ước sự
thực cũng không làm ǵ hơn được. Ngày
9-1-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ trở
lạiParis, thỏa thuận giữa Mỹ và BV về cơ
bản chính là cái bản sơ thảo hai bên đă
đạt được từ hơn ba tháng trước
(tức từ tháng 10-1972). Những yêu cầu do Mỹ
thêm vào từ tháng 12-1972 đă bị loại bỏ nói
khác đi bất lợi cho Mỹ. John Negroponte, một
trong những phụ tá của Kissinger đă gay gắt nói
trong khi hai bên thương lượng như sau: “Chúng
ta oanh tạc BV để họ phải chấp nhận
sự nhượng bộ của chúng ta” (We
bombed the North Vietnamese into accepting our concessions – Wikipedia,
Operation Linebacker II) Khu
phi quân sự do Hiệp định Genève ấn định
từ 1954 không được coi là biên giới
giữa hai nước. Việc yêu cầu quân đội
BV rút khỏi miền Nam VN về Bắc không thấy
ghi một tí nào trong Hiệp định, tuy nhiên Lê
Đức Thọ có hứa miệng với Kissinger
sẽ rút 30,000 quân CSBV về Bắc. Yêu
cầu ngưng bắn cho toàn cơi Đông dương không
được ghi trong Hiệp Định, một
lần nữa Kissinger lại hài ḷng với lời
“thỏa thuận miệng” (verbal understanding) rằng
ngưng bắn tại Lào sẽ được thực
hiện cùng lúc hoặc sau VNCH một chút. Thỏa
thuận vềCambốt không được đặt
ra v́ tại nơi đây nay BV không có tí ảnh hưởng
nào đối với Khmer đỏ. Hiệp
ĐịnhParisđược kư tại khách sạn
Majestic tạiParisngày 27 tháng giêng năm 1973. Hậu
quả. Trong
chiến dịch Linebacker II tổng cộng có 741 phi
xuất B-52 để oanh tạc Hà Nội và 729 phi
vụ đă thực hiện xong. Có 15,237 tấn bom
đạn đă được ném xuống 18 mục
tiêu về kỹ nghệ và 14 mục tiêu quân sự
kể cả tám căn cứ hỏa tiễn địa
không (SAM), trong khi đó các máy bay chiến thuật cũng
đă ném xuống 5,000 tấn bom đạn. Cùng
thời gian này có 212 phi vụ B-52 được thêm vào
tại Nam VN để yểm trợ cho các chiến
dịch dưới đất, 10 B-52 đă bị
bắn rớt ngoài Bắc và năm chiếc khác bị
thương rớt ở Lào hoặc Thái lan, 33 quân nhân
thuộc các phi hành đoàn B-52 đă bị thiệt
mạng hoặc mất tích trong khi thi hành nhiệm
vụ, 33 người khác bị bắt làm tù binh và 26
ngươi khác đă được cứu vớt.
Bắc Việt cho biết họ đă bắn hạ 34
chiếc B-52, 4 chiếc F-111 trong suốt chiến
dịch. 769
phi vụ phụ thêm do Không Lực và 505 phi vụ do
Hải Quân và Thủy quân lục chiến để
yểm trợ cho các pháo đài bay B-52, có 12 máy bay
bị thiệt hại trong chiến dịch gồm: Hai
F-111, ba F-4, hai A-7, hai A-6, một EB-66, một trực thăng
cấp cứu HH-53, một thám thính RA-5C, trong chiến
dịch này mười (10) phi công bị thiệt
mạng, tám (8) bị bắt, mười một (11)
được cứu thoát. Toàn
thể thiệt hại của chiến dịch là 27
chiếc gồm 15 B-52 và 12 máy bay chiến thuật: Không
quân mất 15 B-52, hai F-4, hai F-111, một EB-66 và một
trực thăng cứu nạn HH-53. Hải quân mất
hai A-7, hai A-6, một RA-5, và một F-4. Trong số
tất cả máy bay bị bắn rơi có mười
bẩy (17) chiếc bị bắn rớt v́ hỏa
tiễn SA-2, ba (3) chiếc bị máy bay MIG của BV
bắn rơi ban ngày, ba (3) chiếc do đại bác pḥng
không, bốn chiếc không rơ nguyên do. Tổng cộng có
tám (8) máy bay MIG bị bắn rớt trong đó hai
chiếc do đại liên pḥng không ở đuôi B-52
hạ. Thiệt
hại về vật chất hạ tầng cơ sở
của BV rất nặng nề: Không quân ước lượng
500 đường xe lửa bị đ́nh chỉ
hoạt động, 372 toa xe lửa và ba triệu gallons
săng dầu bị phá hủy, 80% điện năng
của BV bị hư hỏng. Nhập lượng
tiếp liệu vào BV được t́nh báo Mỹ
đánh giá là 160,000 tấn hàng tháng khi mới tiến
hành chiến dịch. Đến tháng 1-1973, nhập lượng
này đă tụt xuống c̣n 30,000 tấn, vào khoảng
năm lần. Mặc dầu Hà Nội la làng “Mỹ
đă trải thảm bom lên nhà thương, trường
học, các khu dân cư, phạm vào những tội ác
man rợ đối với nhân dân ta”, nhưng chính
họ đă cho biết toàn bộ chỉ có 1,624 người
thường dân bị thiệt mạng. Với
khoảng 20,000 tấn bom được thả xuống
Hà Nội, Hải Pḥng, sự thiệt hại dân
sự tương đối nhẹ, chỉ có 1,318 người
tại Hà Nội và 306 người tại Hải Pḥng
thiệt mạng, nếu so sánh với chín ngày oanh
tạc thành phố Hamburg, nước Đức năm
1944, chỉ có vào khoảng chưa tới 10,000 tấn
bom được ném xuống mà có tới 30,000 người
bị giết. Nhiều
giới chức trong Không quân cho rằng nếu năm
1965 mà cũng đánh cho BV tan nát như Giáng Sinh năm
1972 th́ đă thắng rồi, họ sai lầm ở
chỗ năm 1972 chiến tranh đến thời kỳ
kết thúc và trận oanh tạc này chỉ là cú đấm
cuối cùng. Ngoài ra bang giao của Mỹ với Nga,
Trung Cộng đă thay đổi nhiều trong những
năm có ḥa đàm với BV, oanh tạc mạnh năm
1965 có thể lôi kéo CS quốc tế vào cuộc
chiến và có thể leo thang đi tới chiến tranh
nguyên tử, nay kỳ hạn ḥa b́nh đă thay đổi
và Hoa Kỳ không c̣n muốn chiến thắng nữa,
họ chuyễn sang rút bỏ. Nhận
xét Như
thế trận mưa bom Giáng sinh long trời lở
đất năm 1972 có mục đích chính là để
đưa BV trở lại bàn hội nghị. Sau ngày
30-4-1975 nhiều người ở miền Bắc vàoNamcho
biết nếu Mỹ ném bom thêm một tuần nữa
th́ BV sẽ phải đầu hàng v́ chịu không
nổi. Gần đây có nguồn tin một cựu nhân
viên FBI tên Ted Gunderson tiết lộ rằng một sĩ
quan lănh sự Mỹ lănh sự tại VN đă nghe vào
đầu xuân năm 1973 từ pḥng truyền tin
tại Sài G̣n lời tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện của Bắc Việt trong trận
oanh tạc của Mỹ đầu xuân 1973 (tức
trận oanh tạc Giáng sinh 1972), thế nhưng CIA đă
thay thế toàn bộ nhân viên của pḥng truyền tin
và ém nhẹm đi tin này để cho sự điều
đ́nh giữa Tổng thống Nixon và Mao được
xúc tiến và dâng miền Nam cho CS qua Ḥa đàm Paris. Tin
đồn do những người ngoài Bắc đem vào
Nam và tin của Ted Gunderson hoàn toàn sai lạc vô căn
cứ, trước hết TT Nixon cho oanh tạc BV là
để đưa họ trở lại bàn hội
nghị như đă nói ở trên, họ chỉ
muốn kư hiệp định Paris rồi rút quân
về nước (The terms of peace had also changed as the United
States went from wanting victory to settling for an easy exit – Wikipedia,
Linebacker II bombing raid). “Nhưng
ư định của Hoa Kỳ trong cuộc dội bom
phủ đầu năm 1972 không c̣n ư nghĩa quân
sự nữa mà cuộc dội bom chỉ là một thái
độ chính trị: Hoa Kỳ chỉ muốn CSVN
trở lại hội nghị, kết thúc cuộc
chiến trên giấy tờ, để Hoa Kỳ có
thể rút khỏi Việt Nam – dù hiệp ước
đó có bất lợi cho Hoa Kỳ và VNCH đến
đâu. Và Hoa Kỳ đă đạt được ư
định sau 11 ngày dội bom” (Nguyễn
kỳ Phong,Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 300) Ngoài
ra đối với BV, Mỹ không có tư cách để
buộc họ phải đầu hàng như đă
buộc Nhật đầu hàng năm 1945. Đối
với VN, Mỹ tham chiến chỉ là để
trợ giúp VNCH tự vệ chống CS, giữ toàn
vẹn lănh thổ miền Nam chứ không phải để
chiếm miền Bắc. Chúng ta cũng cần lưu ư
mặc dù BV bị các pháo đài bay B-52 đánh nhừ
tử thừa sống thiếu chết, các hạ
tầng cơ sở BV bị bắn phá tan tành gần
sập tiệm thế mà họ vẫn đ̣i được
Mỹ phải nhượng bộ tại bàn hội
nghị như đă nói ở trên. Hiệp
định kư kết vẫn chỉ là những thỏa
thuận cũ từ tháng 10-1972. Bắc Việt lỳ
lợm như thế th́ thử hỏi đến bao
giờ họ mới chịu hàng, cho dù cuộc oanh
tạc có tiêu diệt hàng trăm ngh́n người thường
dân vô tội hoặc hơn thế họ cũng
chẳng quan tâm. Trong thời gian chiến tranh Lê
Duẫn đă từng nói sẵn sàng nướng thêm
một hai triệu người nữa để
tiếp tục chiến đấu. Năm
1989 tác giả bài viết này có dịp nói chuyện
với một Trung tá CSBV đă giải ngũ về
cuộc oanh tạc Giáng sinh 1972, ông ta bảo: “Bây
giờ hết coi là bí mật th́ tôi mới dám nói,
ngay hôm máy bay Mỹ ném bom dữ dội, các đường
dây diện thoại bị đứt hết, trung
ương mất liên lạc với địa phương,
sau mười ngày oanh tạc, hai bên cùng đuối và
rồi Mỹ phải ngưng cuộc tấn công”. Trong
phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử
Truyền H́nh) do các kư giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp
thực hiện đă được chiếu ở VN
giữa thập niên 80, đoạn nói về Mỹ ngưng
ném bom như sau: “Cuối
tháng 12-1972 Hoa Kỳ ngưng ném bom BV, không phải v́
bị thế giới lên án, cũng không phải v́ người
dân Mỹ biểu t́nh chống đối mà v́ sự
thiệt hại nặng nề của không quân trong
chiến dịch này”. Ư
kiến của cựu Trung tá CS và nhận định
của cuốn phim như trên đều không đúng
sự thật, như đă nói ở trên pḥng không
của BV cuối tháng 12 đă hoàn toàn kiệt lực,
số tên lửa tồn kho đă cạn sạch
khiến họ phải xin chịu ngồi vào bàn
hội nghị, vả lại “Chiến thuật Ĺ”
không c̣n ăn khách, hiệu lực. Mỹ ngưng oanh
tạc cũng v́ các mục tiêu để đánh phá cũng
không c̣n, hạ tầng cơ sở BV đă bị oanh
tạc tan nát hết, không c̣n ǵ để triệt
hạ nữa. (The
final two days of Linebacker II encountered only one problem: a lack of
suitable targets –Wikipedia, Linebacker II bombing raid). “Người
Mỹ kư hiệp định Ba Lê với mục đích
rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời trao
đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính của
miềnNamkhông được chú trọng đến.
Hiệp địnhParisđược kư kết để
tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau
tan nát. Trong
trận oanh tạc long trời lở đất mùa Giáng
Sinh năm 1972, Nixon đă một công đôi chuyện,
vừa bắt BV trở lại bàn hội nghị và
vừa đánh phá tan tành hạ tầng cơ sở
miền Bắc như đă nói ở trên: phi trường,
nhà ga, kho hàng, tiếp liệu bị hủy hoại.
Nixon đă đánh BV tan nát để sau khi Mỹ rút
đi họ sẽ không có khả năng xâm lược
miềnNam, như thế ông ta cũng đă làm hết
sức ḿnh để cứu văn sự sụp đổ
củaVNCH. Theo
Nixon (trong No more Vietnams), sau khi kư Hiệp định
Paris, VNCH mạnh hơn miền Bắc v́ CSBV bị
tổn thất quá nặng trong trận mùa hè đỏ
lửa 1972, khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán
binh bị thiệt mạng, 75% số xe tăng bị
bắn cháy. Cộng thêm trận oanh tạc Giáng sinh
1972, BV bị kiệt quệ về vũ khí đạn
dược. Nhưng sau Hiệp định, Hà Nội
lại được CS quốc tế viện trợ
đều đặn và dồi dào trong khi Quốc
hội Mỹ đă cắt giảm viện trợ xương
tủy VNCH đưa tới sụp dổ tháng 4-1975. Trong
trận oanh tạc Giáng Sinh 1972 kể trên BV đă đủ
sức chống trả và gây thiệt hại đáng
kể cho không lực của một siêu cường th́
ta mới thấy CS quốc tế đă viện trợ
cho BV dồi dào như thế nào, có người cho
rằng Liên Xô, Trung Quốc và các nước xă
hội chủ nghĩa anh em đă viện trợ quân
sự cho BV để đánh nhau với Mỹ chứ
không phải để đánh nhau với VNCH. Theo
bản tin BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006: Trong buổi hội
thảo của Viện Lịch Sử Quân Sự CSVN
tổ chức tại Sài G̣n ngày 14 và 15-4-2006, hai “đồng
chí” Lê Quang Lạng và Trần Tiến Hoạt đă công
bố nguồn viện trợ quân sự của các nước
Xă hội chủ nghĩa anh em cho CSVN trong cuộc
chiến tranh 1954-1975. Họ cho biết về tên lửa
Liên xô đă viện trợ 10,169 quả, về máy bay
chiến đấu Liên Xô viện trợ 316 chiếc,
Trung Quốc anh em 142 chiếc. Trong giai đoạn
1969-1972, BV đă nhận được 684,666 tấn hàng
viện trợ vũ khí và trang bị kỹ thuật,
giai đoạn 1973-1975 BV nhận được 649,246
tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật như
thế CS quốc tế vẫn viện trợ cho BV
dồi dào từ đầu tới cuối cuộc
chiến. Hoa
Kỳ không cung cấp cho miềnNamđủ hỏa
lực để có thể tự vệ chông lại
một đối phương quá hùng mạnh đă
được trang bị những vũ khí hiện
đại dồi dào cả về phẩm lẫn lượng.
Đa số các sách báo Mỹ viết về chiến
tranh ViệtNam(như Walter Isaacson trong Kisinger, A Biography
trang 488) nhận định rằng VNCH không thể
tự đứng vững mà họ phải dựa vào
quân đội Mỹ và khi Mỹ rút đi
miềnNamsụp đổ. Độc
giả Mỹ, người dân Mỹ hiểu rằng quân
đội miềnNamkhông đủ sức tự
vể. Sự thực có phải quân đội VNCH tác
chiến thua kém quân đội BV không? Các Tướng
lănh miền nam thua tài thao lược so với các Tướng
miền Bắc? hoàn toàn không. Có
một sự thực mà hấu như không thấy người
Mỹ, tác giả Mỹ nào chịu công nhận:
hỏa lực Hoa Kỳ cung cấp cho miền Nam hầu
như luôn luôn thua kém hỏa lực hùng hậu mà CS
quốc tế cung cấp cho BV, hay nói khác đi Hoa
Kỳ đă không chạy đua kịp với CS
quốc tế về quân viện cho chiến trường
Việt Nam, đưa tới hậu quả sụp đổ
ngày 30-4-1975. Trọng
Đạt ——————————— Tài
Liệu Tham Khảo History.com,
History made every day: Nixon announces start of Christmas bombing ofNorth
Vietnam. History.com:
Statistic about the Vietnam war. Digital
History: Nixon andViet Nam. Wikipedia:
Opposition to theUSinvolvement in the Vietnam war. Walter
Isaacson: Kisinger, A Biography, Simon & Schuter 1992 Larry
Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal inVietnam, The Free
Press 2001. Richard
Nixon:No MoreVietnams, Arbor House,New York1985. The
Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A
Bison-book 1985. James
H.Willbanks:Vietnamwar Almanac, Facts on file – 2009 StanleyKarnow:Vietnam,
A History, A Penguin Books 1991. Marilyn
B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Vietnam War, A history in
documents, Oxford University Press 2002. Lam
Quang Thi: Autopsy The Death OfSouth Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing Viện
trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến
tranh: BBCvietnamese.com, 10-5-2006. Nguyễn
Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người
Mỹ Và Chiến Tranh ViệtNam1945-1975, Tiếng Quê Hương
2006. Nguyễn
Kỳ Phong: Tự Điển Chiến Tranh ViệtNam,
TựÏ Lực 2009. Nguyễn
Đức Phương: Chiến Tranh ViệtNamToàn
Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Đặng
Phong: 5 Đường Ṃn Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Trí Thức, Hà Nội 2008 Nguyễn
Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa
Chấn Minh, 2005. |