Trận
tổng tấn công năm 1972 và Ḥa đàm Ba Lê
Trọng Đạt |
Đây là một cuộc tấn công lớn, qui
mô của Hà Nội từ cuối tháng 3-1972 tới
hạ tuần tháng 10 cùng năm. Người Mỹ thường
gọi là Trận tấn công dịp lễ Phục Sinh,
tại miền Nam hay gọi là Mùa hè đỏ lửa,
phía Bắc Việt đặt tên là Chiến dịch Xuân
hè 1972. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông
Dương, Hà Nội đánh theo qui ước, bỏ
du kích chiến. Theo George
Donelson Moss đây là lực lượng lớn
nhất thế giới sau chiến tranh Triều Tiên,
trong trận này BV đă đưa một lực lượng
chính qui lớn gồm 14 sư đoàn và 26 trung
đoàn độc lập, tổng cộng khoảng trên
120 ngàn quân (1), được sự yểm
trợ của nhiều trung đoàn xe tăng, pháo binh
130 ly, pḥng không…theo Davidson, lực lượng này c̣n
lớn hơn số sư đoàn mà Tướng Paton
chỉ huy hồi Thế chiến thứ hai. Đây cũng là trận đánh lớn
nhất thế giới từ sau chiến tranh Triều
tiên (1950-53) với lưc lượng tương
đương 25 sư đoàn của cả hai miền
Nam-Bắc cùng sự tham gia yểm trợ của
Hải quân, Không quân Mỹ gồm 4 Hàng không mẫu
hạm, 409 máy bay chiến thuật F-4, F-5, 171 pháo đài
bay B-52, một Tuần dương hạm lớn,
bốn Tuần dương hạm nhỏ, 44 Khu trục
hạm.. . đă được đưa tới ngoài khơi
VN (2). Tại đây tôi
xin diễn tả trận đánh qua lối nh́n từ
phía Mỹ. Có hai nhận định về mục đích
của cuộc Tổng tấn công: nhiều người
cho là Hà Nội có mục đích chiếm miền Nam
chấm dứt chiến tranh, một số người
cho là Hà Nội chỉ nhằm mục đích chính
trị, giữ thế mạnh tại bàn đàm phán
giống như trận Điện Biên Phủ năm
1954 và Hội nghị Geneve. Bốn tuần sau khi Nixon sang Tầu về (21
tới 28-2-1972) , ngày 30-3-1972 Quân đội Bắc
Việt cùng pháo binh và hơn 200 xe tăng vượt
khu phi quân sự (DMZ) đánh Quảng Trị, những
đơn vị khác từ đường 9 Hạ Lào
tiến về Huế. Tại Cao Nguyên họ đánh
Kontum, tại Vùng Ba các sư đoàn VC đánh B́nh Long.
Nay không c̣n là chiến tranh du kích nhân dân nổi
dậy, mà quân chính qui BV công khai xâm lăng miền nam
VN bằng chiến tranh qui ước. Kế hoạch của Ṭa Bạch Ốc Theo lời kể của Kissinger
(3) t́nh báo Mỹ đă biết trước từ 1971 và
nhất là từ tháng 1, tháng 2 năm 1972. Giữa năm
1971, Dick Hemls (Giám đốc
CIA) tường tŕnh trước Hội đồng an
ninh quốc gia nói CSBV chuẩn bị vượt Khu phi
quân sự. Kissinger nói họ không muốn mật đàm
mà chuẩn bị đánh lớn. Từ 4 tháng 1-1972,
khoảng hai tháng trước khi TT Nixon sang Tầu, Tướng Abrams cảnh cáo địch sẽ
tấn công miền Nam . Ông đề nghị cho oanh
tạc phía bắc Khu phi quân sự, ông cũng cho
biết đây là trận quyết định và là
sự thử thách Việt Nam hóa chiến tranh. Ṭa Bạch Ốc không đồng ư đề
nghị của Tướng Abrams
cho là nó sẽ ảnh hưởng chuyến đi thăm
Bắc Kinh của TT Nixon. Bộ Ngoại giao e ngại nó
sẽ phá hỏng đàm phán, phản chiến sẽ làm
ầm ĩ. Bộ trưởng
Quốc pḥng Laird
đề nghị không cho oanh tạc Khu phi quân sự nhưng
đặt máy ḍ tại đây. Kissinger
đồng ư hoăn oanh tạc, chờ xem và đề
nghị Laird giữ lại nhiều trực thăng
để (giúp VNCH) di chuyển, tăng thêm B-52 và Hàng
không mẫu hạm. Ngày 2-2 TT Nixon họp Hội đồng
an ninh quốc gia “bằng mọi giá phải giúp VNCH
chống xâm lược”, ông kêu gọi tăng cường
B-52, Hàng không mẫu hạm. Mỹ vận động ngoại giao với Hà
Nội, Moscow, Bắc Kinh để t́m ḥa b́nh, TT Nixon
đọc diễn văn ngày 25-1 nói chính phủ
bằng mọi giá sẽ đưa quân về nước,
hôm sau Kissinger họp báo cho biết: Mỹ có thể ngăn
chận cuộc tấn công, sau trận này sẽ có
đàm phán giống như những năm 1954, 1968. Nixon
và Kissinger t́m cách
chấm dứt chiến tranh nhanh, Kissinger
cho là ngoại giao phải đi đôi với quân
sự (in my view diplomacy and strategy should support each other). TT Nixon
luôn cẩn thận trong đàm phán, ông sợ Hà Nội nhầm lẫn gữa
đàm phán và yếu kém về quân sự, hai nhà lănh
đạo Mỹ thừa biết Hà Nội dùng đàm
phán để gây áp lực từ phản chiến.
Họ liên lạc Moscow và Bắc Kinh nhưng Trung
Cộng phủi tay nói không liên hệ với Đông Dương,
Nga biện hộ cho họ nói tuy giúp Hà Nội nhưng
họ không nhiệt tâm lắm. Mỹ không để
Nga-Tầu từ chối, họ cảnh cáo Đại
sứ Nga nếu Hà Nội tấn công th́ cuộc
họp thượng đỉnh Moscow sẽ bị
hủy bỏ. Kissinger nói chỉ tham dự đàm phán
với Nga nếu họ gây ảnh hưởng với
BV. Hà Nội dùng đàm phán để tuyên truyền,
họ đồng ư họp mật (đi đêm) ngày
24-4, nhưng từ 27-3 họ đă chuẩn
bị tấn công miền nam (4) BV dùng đàm phán để che đậy
cuộc tấn công lớn qui mô, ngày 20-3-72 Phạm Văn
Đồng nói chỉ có ḥa b́nh nếu Mỹ loại
bỏ Thiệu, Kissinger cho rằng Mỹ chỉ có
Hiệp định khi từ bỏ VNCH, rút quân
đơn phương. Đó là điều kiện
đanh thép của Lê Duẩn trước khi sẩy ra
trận Tổng tấn công. Ngày 2-4-1972 (sau khi BV đă
mở cuộc Tổng tấn công 30-3-72) Kissinger nói
với Nixon nếu ta đánh bại cuộc tấn công
của BV có thể kư kết ḥa b́nh, địch
dốc toàn lực vào cuộc tấn công, nếu
thất bại chúng sẽ phải đàm phán nghiêm
chỉnh. TT Nixon
cứng rắn, nói là làm, ngày 4-4 ông ra lệnh oanh
tạc bằng máy bay chiến thuật cho tới vĩ
tuyến 18, gửi thêm 20 B-52, 4 phi đội máy bay
chiến thuật, thêm 8 Khu trục hạm được
gửi tới Đông Nam Á, ngày 4-4 Kissinger nói ông
Tổng thống cương quyết bẻ gẫy
cuộc tấn công của BV. Trở ngại nhất là thời tiết, máy
bay không cất cánh được, ngoài ra chính sách
chiến tranh giới hạn (của Johnson 1965, 66, 67…) và
3 năm rút quân (của Nixon 1969, 70, 71…), các nhà lănh
đạo quân sự (theo Kissinger) đă không cứng
rắn cần thiết… đă để lại khó khăn.
Tướng Abrams trong 3 năm chỉ lo rút
quân, nay được giao nhiệm vụ thắng
trận. Kissinger và Nixon tiên đoán nếu BV thành công
trong chiến dịch tấn công này sẽ không có
họp thượng đỉnh với Nga (tháng 5-1972).
Kissinger nói cho đại sứ Trung Cộng tại Liên
Hiệp Quốc biết cuộc tấn công này sẽ
ảnh hưởng quan hệ Mỹ-Hoa. Ngày 4-4 Mỹ nêu
đích danh Nga có trách nhiệm với cuộc tấn công
BV, và dọa khéo có thể ảnh hưởng tới
cuộc họp Thượng đỉnh tại Moscow (mà
Nga mong đợi). Ngày 6-4-72 Kissinger nói chuyện với Đại
sứ Nga Dobrynin (tại
Mỹ) cho biết t́nh h́nh không thể tha thức
được như đă cảnh báo ông ta từ
tháng giêng năm 1972 nếu BV tấn công Mỹ sẽ
đáp trả mạnh mẽ. Ông ta cho phía Nga biết
những trở ngại sẽ xấy ra của cuộc
họp thượng đỉnh Nga-Mỹ, Kissinger
nhấn mạnh sẽ chấm dứt chiến tranh
bằng đàm phán, nếu cần bằng vũ
lực. Mỹ chuẩn bị lực lượng ngày
9-4 đưa thêm 28 pháo đài bay B-52 tới đảo
Guam, hôm sau một Hàng không mẫu hạm thứ năm
được lệnh tới VN, Tuần dương
hạm Cruiser New Port cùng một HKMH khác từ Đại
tây dương tới Đông Nam Á.
Cuối tuần đầu tháng 4 thời tiết
thuận lợi cho việc oanh tạc, cuộc tấn công
địch được phép lên tới vĩ
tuyến 19. Trong khi ấy phản chiến cho rằng
chuẩn bị chiến tranh lớn là một sự
liều lĩnh thiếu kiên nhẫn, các viên chức cao
cấp dân sự tại Ngũ giác đài nhận xét
phản công để giữ VN hóa chiến tranh là
tốn kém quá, lực lượng Mỹ hiện có
tại VN đă đủ rồi.
Sự thực Mỹ đă nghiên cứu việc giúp
VNCH, trường hợp phía VN không đương
đầu nổi Mỹ sẽ oanh tạc các mục tiêu
quân sự tại BV, phong tỏa các hải cảng,
kế hoạch được bổ túc ngày 8-5. Từ cuối tháng 3 kế hoạch bị
xếp lại v́ c̣n quá sớm nhưng vào ngày 10-4
nếu VNCH đủ sức th́ Mỹ không cần
phải hành động, ngược lại nếu
địch thắng thế Mỹ sẽ phải yểm
trợ cho đồng minh. Mỹ đă cảnh cáo Nga
về việc BV tấn công miền nam VN bằng vũ
khí Nga, Đại sứ Dobrynin nói ông sẽ chuyển
lời phản đối của Kissinger về Moscow . Ngày
10-4 tại Bộ ngoại giao TT Nixon nói với
Đại sứ Dobrynin rằng Sô Viết phải
chịu trách nhiệm, không được khuyến khích
nước khác gây hấn với lân bang, một cách
cảnh cáo họ chịu trách nhiệm về cuộc
tấn công của Hà Nội. Đại sứ Nga cho
thấy cuộc họp Thượng đỉnh dự
trù tháng 5-1972 phía Sô Viết vẫn sẵn sàng. TT Nixon cho mười hai B-52 oanh tạc
kho tiếp liệu gần Vinh nằm ở 15 dặm phía
bắc Khu phi quân sự, lần đầu tiên ông
xử dụng B-52 tại BV (Johnson
xử dụng B-52 năm 1967).
Cuộc tấn công của BV đă trở thành toàn
diện gồm ba mặt trận: Vùng I, Cao Nguyên và An
Lộc (B́nh Long). Ngày 15-4 BV đề nghị họp
mật giữa Thọ-Kissinger ngày 24-4. Hai bên thỏa
thuận họp mật (đi đêm) 6 tháng 5, ngày 27-4
họp khoáng đại hai bên, Hà Nội muốn
họp sớm v́ bị oanh tạc bằng B-52 tại
gần Hà Nội, Hải Pḥng (ngoại ô). Phía CS
muốn họp vào lúc họ thắng lớn để
làm nhục Mỹ trong khi Mỹ chỉ muốn họp
khi có Nga được đưa vào cuộc. Ḥa đàm phụ thuộc vào trao đổi
với Sô Viết, ngày 12-4 Đại sứ Dobrynin
muốn thảo luận về cuộc họp Thượng
đỉnh gần tới. Mỹ cho phía Nga biết
họ đă viện trợ vũ khí nặng cho BV để
chúng mở cuộc Tổng tấn công và đe dọa
nó có thể ảnh hưởng xấu tới cuộc
họp mà Nga mong đợi. Sự thực chính Nixon cũng
mong mỏi Thượng đỉnh v́ là Tổng
thống đầu tiên của Mỹ sang Moscow , đôi
lúc ông vờ nói hủy bỏ cuộc họp để
hù dọa Nga. Tuy nhiên ông không muốn đi Moscow trong tư
thế yếu và cũng nghi ngờ Nga sẽ kéo dài
đàm phán tại Moscow để tŕ hoăn kế
hoạch quân sự của Mỹ đánh BV. Lần đầu tiên Nga lại bàn thảo
vấn đề VN ở cấp cao vô điều
kiện tại Thượng đỉnh khiến Nga thúc
Hà Nội đàm phán (nhận xét của Kissinger).
Chuyến đi của Kissinger tại Moscow chuẩn
bị cho cuộc họp Nixon-Brezhnev khiến Nga có
vẻ như không phản đối sự trả đ̣n
của Mỹ tại VN, họ cũng biết cái giá
phải chịu nếu phản ứng lại Mỹ. Ngày
12-4 Nixon nói Kissinger báo cho Đại sứ Nga biết
Kissinger sẽ đi Moscow ngày 20-4 và nói muốn gặp
Đại sứ BV tại Moscow. Ngày 12-4 Nixon muốn
Kissinger thảo luận vấn đề VN tại Moscow
và cả cuộc họp Thượng đỉnh, nhưng
hôm 15-4 ông cũng lo có thể Brezhnev sẽ diễn văn
dài ḍng mục đích trói tay Nixon và Kissinger một
tuần để họ không đánh BV được. TT Nixon định hủy bỏ cuộc họp
trước nhưng Kissinger cam kết với Nixon dù khi
ông ta ở Moscow Mỹ vẫn ném bom BV được
trừ Hà Nội, Hải Pḥng. Chuyến đi của
Kissinger có thể làm xẹp phong trào chống đối
tại đất nhà, Nixon đồng ư cho Kissinger đi
Nga. Để cho BV và Nga biết ư định
Mỹ, Kissinger đă khuyến khích Nixon cho B-52 oanh
tạc kho dầu Hà Nội, Hải Pḥng hai ngày, cho
tầu chiến bắn vào bờ ngày 15, 16-4. Tướng
Abrams phản đối nhưng Bộ trưởng
QP Laird ủng hộ, may thay v́ ngày 15-4, Hà Nội
hủy bỏ phiên họp dự trù 24-4 nhờ đó
Mỹ có cơ hội chuẩn bị đánh trả. Lúc
này cần phản công táo bạo, Mỹ gửi thông
điệp nhấn mạnh với Nga ngày 15-4 rằng
nếu chúng tôi đi Moscow họp, các ông có giúp ǵ cho
vấn đề VN không? Chiều hôm ấy Đại sứ Dobrynin
tới gặp Kissinger thảo luận về thông điệp
và thúc dục Kissinger đi Moscow, ông ta thân thiện nói
chúng ta bỏ vấn đề địa phương
(tức VN) để giải quyết vấn đề
chính (Nga-Mỹ). Kissinger đáp đây (VN) không chỉ là
một vấn đề quốc tế mà là một
vấn đề lớn với dư luận Mỹ,
chiến tranh phải chấm dứt, chúng tôi sẽ làm
cùng các siêu cường khác hay một ḿnh. Xô viết cố gắng gây ảnh hưởng
với BV, cuối ngày 16-4, Nga phản đối Mỹ
v́ oanh tạc Hải Pḥng có làm thiệt mạng vài
thủy thủ của họ trên các tầu buôn đậu
tại đây, Nga và Trung Cộng chỉ phản đối
xuông. Cuộc Tổng tấn công này trước
hết là một nỗ lực rất lớn nhằm
mục đích cả quân sự lẫn chính trị, tôi
xin phân chia làm hai khía cạnh chính của chiến
dịch: Phương diện quân sự Ngày 25-1 TT Nixon tuyên bố với
quốc dân Kissinger đă họp với CSBV nửa năm,
trở ngại là phía Hà Nội ngoan cố khăng khăng
đ̣i Mỹ rút hết quân vô điều kiện,
lật đổ chính phủ Thiệu. Nixon kêu gọi dân
chúng ủng hộ ông trong việc phản công ngăn
chận cuộc tấn công mới của BV. Ông kể lại diễn tiến cuộc
Tổng tấn công, tôi xin sơ lược vài ḍng: ngày
30-3, BV mở cuộc tấn công xâm lăng miền nam
VN ồ ạt bằng 3 sư đoàn cùng 200
T-54, đại bác 130 ly vượt Khu phi quân sự,
một lực lượng phụ khác từ đường
số 9 Hạ Lào tiến về Huế. Những
đơn vị lớn khác đánh Kontum, Pleiku và 3 sư
đoàn khác đánh miền Nam (QK3) y như Bắc
Triều Tiên xâm lăng miền Nam năm 1950. Ngày 2 tháng 4 BV tấn công Sư đoàn 3 VNCH
rất dữ dội, bốn căn cứ hỏa
lực thất thủ, địch tiến về
Huế. Ngày 5 tháng 4 BV đánh B́nh Long, tuần sau ngày
13-4 chúng bao vây An Lộc Ngày 23-4 BV vào Kontum, Sư đoàn 22 bị đánh
bại. Ngày 27-4 địch tấn công tuyến Bắc
(Quảng Trị), 4 ngày sau, Quảng Trị thất
thủ (5) Từ ngày 1-4 TT Nixon ra lệnh oanh tạc BV lên
tới vĩ tuyến 20, lệnh cho Ngũ Giác Đài
điều động các lực lượng lớn
Hải, Không quân về Đông Nam Á, đưa hai
Tuần dương hạm, tám Khu trục hạm để
hải pháo, 20 B-52, bốn Không đoàn F4 cho oanh tạc
BV trở lại. Từ 1-5 tại Vùng I quân đội VNCH và gia
đ́nh rút về Nam, CS pháo kích chết nhiều người
chạy loạn trên Quốc lộ 1, TT Thiệu vội
cử Tướng Ngô Quang Trưởng thay Tướng
Hoàng Xuân Lăm. Tướng Trưởng tổ chức pḥng
thủ Huế và giữ yên cố đô và cả
miền Nam, sau đó trở lại chiếm Quảng
Trị, Cộng quân bị đuổi khỏi thành
phố ngày 16- 9. Đợt sau, hai sư đoàn BV đánh Kontum,
Tân Cảnh, Dakto, địch thắng thế mấy
tuần đầu. Nhờ sự giúp đỡ của
Cố vấn John Paulk Vann kêu máy bay oanh tạc gồm
B-52 và phi cơ chiến thuật, Đại tá Lư Ṭng Bá
đă đẩy lui địch. Đợt ba BV tấn công B́nh Long bằng ba sư
đoàn VC (5,7,9), địch bao vây nhưng không
chiếm được An Lộc, TT Thiệu đă
đưa quân tổng trừ bị lên giải cứu
An Lộc. Sáng 11-5, không quân Mỹ gồm 30-B-52 oanh
tạc dữ dội, Nixon và Kissinger đă hành động
nhanh để tránh cho Sài G̣n không bị địch
tấn công. Năm 1972 t́nh h́nh quân sự và phản
chiến tại Mỹ tương đối yên tĩnh,
chỉ c̣n trên 100,000 lính Mỹ tại VN trong đó
chỉ c̣n 20,000 là lính tác chiến. Năm 1971 có 1,380 lính
Mỹ tử trận tại VN, con
số thấp nhất kể từ 1965 (6) TT Nixon quyết định dùng vũ lực
mạnh đáp trả, cho oanh tạc các đơn
vị lớn của Hà Nội và mở lại tấn
công miền Bắc và ông cho đó là một quyết
định khó. Khi địch mở cuộc tấn công,
Nixon dùng hỏa lực khủng để đạt
mục tiêu mong đợi, ông cho điều động
các tầu chiến thuộc Hạm đội số 7,
hơn 400 B-52 và máy bay chiến thuật F-4 đánh phá
cả miền Bắc và miền Nam, chỉ giới
hạn trong mục tiêu quân sự. Nixon cho oanh tạc
giới hạn cách Hà Nội 10 dặm, Hải Pḥng 5
dặm, các Tư lệnh chiến trường
được phép oanh tạc nhà máy điện, kho
đạn, phi trường.. khỏi cần xin
phép Ṭa Bạch Cung. Tính tới tháng 11-72 hải quân đă bắn
16,000 tấn đạn gần Khu phi quân sự và oanh
tạc 155,000 tấn bom đạn tại BV (7),
Nixon nói ông xử dụng ít bom hơn thời Johnson so cùng
một khoảng thời gian, v́ địch đánh qui
ước nên ông đă lệnh cho các Tướng oanh
tạc tối đa và đă thành công đánh quỵ
BV. Nói về nguyên nhân BV thảm bại trong
cuộc tổng tấn công, TT Nixon nói. “Nay BV đánh theo lối (qui ước)
mà ta đă quá thành thạo” (8) Thật vậy, Cộng quân đánh du kích hay bán
du kích th́ thật lợi hại, nhưng đánh
qui ước họ sẽ hoàn toàn mất ưu thế
v́ Mỹ và VNCH đă quá thành thạo và nhiều phương
tiện hơn. BV dàn quân đánh công khai mà không có
sự yểm trợ của phi cơ là một thiếu
sót lớn. Nixon cũng nói nay Hà Nội đánh qui ước
với những đại đơn vị nên các sư
đoàn, dẫy chiến xa, hệ thống tiếp
liệu lớn làm mồi cho không quân Mỹ và VNCH. Ngoài ra ông cũng nói theo tin t́nh báo người
ta ước lượng mỗi ngày BV cần vài ngàn
tấn đạn dược và nhiên liệu, Mỹ
cần chận đứng chuyên chở tiếp liệu
của địch. Nixon cho lệnh các Tướng lănh
oanh tạc tối đa và đă thành công. Chiến
dịch đáng kể là phong tỏa cảng Hải pḥng
và bờ biển BV, trung b́nh một năm Hải Pḥng
nhận 2.1 triệu tấn hàng gồm 85% quân dụng và
100% nhiên liệu, tàu bè không dám ra vào, cuộc tấn công
của Hà Nội bị sa lầy. Davidson (cựu
Trung Tướng) ghi nhận ư kiến của một
số nhân vật như sau (9): Kissinger cho là BV thua v́ cuộc tấn công
tại ba nơi (Quảng Trị, Kontum, B́nh Long) không
đồng bộ, tiếp liệu khó khăn, phức
tạp. Trận đánh tại ba nơi chậm chạp
khiến VNCH có nhiều thỉ giờ chuyển quân
tiếp cứu. Ngoài ra B-52 và quân trú pḥng VNCH đáp
trả hữu hiệu, các cấp lănh đạo quân
sự BV chưa có kinh nghiệm chỉ huy các đại
đơn vị, bộ binh xe tăng không phối
hợp chặt chẽ. Sử gia Douglas Pike nói Tướng Giáp đánh
giá cao BV có khả năng điều khiển cuộc
chiến với kỹ thuật cao, đánh giá thấp
khả năng pḥng thủ của VNCH cũng như
ảnh hưởng của không quân Mỹ. Bộ Chính
trị BV hy vọng nhiều ớ phong trào phản
chiến và tin tưởng Nga-Tầu sẽ chống
Mỹ bênh đàn em (BV). Sir Robert Thompson, nhà chống du kích chiến cho là
BV thất bại v́ không quân Mỹ và sự chiến
đấu của quân đội VNCH, các nhà lănh đạo
quân sự BV nhiều lầm lẫn. Họ mở ba
mặt trận thay v́ tập trung một mặt trận
khiến VNCH đủ th́ giờ chuyển quân ứng
cứu, họ không biết phối hợp bộ binh và
xe tăng, họ hay đánh biển người. Davidson kết luận: Không lực Mỹ, quân
đội VNCH thiện chiến, Tướng Giáp và
giới chỉ huy BV sai lầm phân tán làm ba mặt
trận, tự tin khả năng tiếp liệu. Nhưng ông cho rằng yếu tố quan
trọng nhất của thắng lợi là quyết
dịnh can đảm của TT Nixon cho oanh tạc BV
dữ dội, đó là yếu tố chính, thắng
lợi là công của Nixon. Khía cạnh chính trị Tác giả George Moss thán phục TT Nixon đă
liều lĩnh ngăn cản tiếp tế của Nga,
Tầu cho BV như phong tỏa cảng Hải Pḥng và các
bến cảng khác, oanh tạc đường tiếp
tế từ biên giới Việt –Hoa… Nixon tin là
phải liều để cứu miền nam VN và
nhất là để có một Hiệp định
chấp nhận được. Vừa áp lực quân sự cùng với áp
lực ngoại giao với Nga mà ông và Kissinger cho là
họ có trách nhiệm với cuộc tấn ông qui mô
này, chính họ đă giúp nhiều vũ khí tối tân
cho BV. Ngày 20-4-1972, Kissinger bí mật gặp Thủ tướng
Brezhnev tại Moscow và nhắc cho ông ta biết là
phải áp lực BV chấm dứt chiến tranh nếu
Nga muốn đàm phán Thượng đỉnh với
Mỹ. Brezhnev đồng ư nhưng ông phản đối
Kissinger là Nga không thể ảnh hưởng với BV
như Mỹ tưởng, ông từ chối kêu gọi
BV chấm dứt cuộc tấn công. Kissinger gặp Thọ tại Paris ngày 2-5, ba
tuần trước Thượng đỉnh tại
Moscow, BV vẫn đánh mạnh, chiếm Quảng
trị, vây hăm Kontum, An Lộc. Thọ đắc chí cho
là Sài G̣n gần sụp đổ, tin là hỏa lực
không quân Mỹ không cứu văn nổi t́nh h́nh, Thọ
từ chối mọi đề nghị của Kissinger,
ộng ta tự đắc, hỗn hào, cuộc họp
ngắn ngủi chẳng giải quyết được
ǵ (10) Nixon tức giận v́ câu trả lời của
Lê Đức Thọ, ông ra lệnh oanh tạc dữ
dội hơn, hai nhà lănh đạo Mỹ đồng
ư chỉ có oanh tạc ồ ạt mới trấn áp
được sức tiến của địch.
Tổng thống Mỹ chơi một canh bạc chính
trị khi biết cả Nga lẫn Tầu đều
đặt tầm quan trọng cải thiện ngoại
giao với Hoa Kỳ hơn là bênh vực cho đàn em. Ngày 8 tháng 5, TT Nixon lên truyền h́nh tuyên
bố leo thang cật lực như phong tỏa, gài ḿn
Hải Pḥng. Đó cũng là thông điệp gửi
cho BV biết Mỹ tiếp tục gài ḿn, đánh phá
giao thông BV cho tới khi họ chịu thả tù binh
(Mỹ) và chịu kư một Hiệp Định
chấp nhận được. Hai mươi bẩy
tầu hàng, đa số của Nga bị nhốt trong
cảng, ba ngày sau, Mỹ phong tỏa các hải cảng
khác, kết quả rất rơ rệt, nó cắt
nguồn tiếp liệu tới 85%. BV tức giận v́ Moscow , Bắc Kinh chỉ
phản đôi xuông khiến Nixon và Kissinger đă
thắng ván cờ, họ thành công v́ đă cô lập
Hà Nội với Nga-Tầu. Hai cường quôc CS không
chỉ trích Mỹ và ép BV phải t́m ḥa b́nh. Hà
Nội cay đắng khi thấy Thượng đỉnh
Nga-Mỹ vẫn tiến hành đúng ngày trong khi
trận oanh tạc Linebacker tàn phá BV, hủy hoại
lực lượng chiến đấu của họ
tại miền nam VN. Thượng đỉnh tốt
đẹp, Nixon-Brezhnev kư những Hiệp ước
quan trọng gồm cả tài giảm binh bị, mua lúa
ḿ, Hiệp ước Bá Linh. Nixon bị chống đối nhẹ, Thượng
viện ra luật chấm dứt cuộc chiến nhưng
không được thông qua v́ Nixon không xử dụng
bộ binh, số thương vong rất ít nên ông không
bị chống đối. Chiến dịch phản công
được dân Mỹ ủng hộ v́ mặc dù leo
thang nhưng không ảnh hưởng cuộc họp Thượng
đỉnh, chính sách ngoại giao với Nga-Tầu thành
công. Một số nhà chính khách, sử gia cho là Hà
Nội mở cuộc tấn công lớn năm 1972 v́
muốn thắng lớn về quân sự hơn là
thắng lợi ít ỏi của cuộc ḥa đàm Ba Lê.
Nay Mỹ đă rút quân gần hết, đây là cơ
hội họ có thể dễ thắng về quân
sự. Cũng có người cho là mục đích chính
của Hà Nội khiêm tốn hơn, họ chỉ mong
chiếm được một số tỉnh gây
thế mạnh tại bàn hội nghị và lập
Thủ đô cho chính phủ Cách mạng lâm thời.
Thực ra chiếm hết miền Nam để kết
thúc chiến tranh không phải chuyện dễ, quân
đội VNCH tuy yếu hơn BV nhưng c̣n mạnh,
tiếp liệu c̣n đầy đủ, đă quen
với lối đánh qui ước, cộng thêm
với sự yểm trợ hùng hậu của không
lực Mỹ. TT Nixon nói nay Hà Nội đánh qui ước,
một cuộc chiến mà ta đă quá rành, chúng ta có cơ
hội để buộc họ phải kư Hiệp định
thuận lợi cho ta hơn (We were in a position to force them
to settle on our terms, trang 144). Thật vậy, trái với
mong đợi của BV, cuộc Tổng tấn công
bị không quân Mỹ và bộ binh VNCH đánh phá tơi
bời, hàng trăm ngàn cán binh bị giết, đa
số xe tăng, đại bác bị phá hủy…Không
những thế ngay tại hậu cần miền
Bắc cũng bị oanh tạc dữ dội. Giữa
tháng 9-1972, khi TQLC cắm cờ trên cổ thành Quảng
Trị th́ cuộc chiến coi như kết thúc. Ḥa đàm Ba Lê sang một khúc quành mới, BV
phải nhượng bộ và từ bỏ nhiều yêu
sách quan trọng. Từ khi Kissinger được cử
họp mật đàm năm 1969 đến tháng 9-1972, phía
CS luôn đ̣i Mỹ rút quân không điều kiện,
loại bỏ chính phủ Thiệu, cắt viện
trợ VNCH, lập chính phủ Liên hiệp….Kissinger cho
biết yêu sách của Hà Nội y như những
lời khắc trong đá không tài nào lay chuyển
nổi, họ đ̣i Mỹ và VNCH đầu hàng không
điều kiện. Sở dĩ Hà Nội ngoan cố như
vậy v́ họ thấy Nixon bị phản chiến
chống đối mạnh, CS tin là cuối cùng Mỹ
sẽ phải chấp nhận những yêu sách ấy.
Họ hy vọng Quốc hội sẽ áp lực
Nixon-Kissinger phải sớm kư kết Hiệp định. Nay bị ăn trận đ̣n thê thảm, BV
đành phải nhượng bộ. Trong phiên họp ngày
9 tháng 10, Lê Đức Thọ đă đề nghị
chấp dứt chiến tranh, họ từ bỏ một
số điều kiện như loại bỏ
Thiệu, cắt viện trợ VNCH, lập chính phủ
Liên Hiệp. Hai bên họp tiếp mấy này sau đó
và thỏa thuận dần dần, chuẩn bị kư
kết cuối tháng 10, duy có điều phía CS không
chịu rút về Bắc, họ vẫn c̣n một
số căn cứ tiếp liệu tại phía dưới
khu phi quân sự. Mặc dù Hoa Kỳ và VNCH c̣n nhiều tranh căi
gay gắt ngay sau đó nhưng CSBV đă nhượng
bộ khá nhiều hậu quả do từ cuộc
Tổng tấn công thảm bại. Kissinger tin là nhờ
áp lực Nga mà ông vận động đă khiến Hà
Nội chịu nhượng bộ ngồi vào bàn
Hội nghị. Các nhà chính khách, sử gia khác nhận
định do thảm bại trên chiến trường
thúc đẩy Hà Nội phải kư kết Hiệp
định mà Nixon có thể chấp nhận được. Kết luận Sử gia Davidson,
cựu Trung tướng t́nh báo trong cuốn sách lớn
về Chiến tranh VN thường tỏ ra cảm
phục Vơ Nguyên Giáp, ông hay nói Tướng Giáp điều
binh, Tướng Giáp chủ trương này nọ… làm
như ông Đại Tướng này lănh đạo
cuộc chiến. Sự thực không phải như
vậy, đây là một sự lầm lẫn của Tây
phương. Từ
1965 cho tới giữa thập niên 80, CSVN là một
chế độ độc tài theo kiểu Staline. Lê Duẩn nắm quyền gần như
tuyệt đối, Cuộc tấn công lớn 1972 do Ba
Duẩn chỉ đạo, Vơ Nguyên Giáp là kẻ
thừa hành. Trong bài “Tướng Giáp tiết lộ 4
bí mật về chiến tranh Việt Nam”
của Trần Khải Thanh Thủy có đoạn nói Tướng
Giáp kể lại: Năm 1972, về Trận
Quảng Trị, Lê Duẩn bác bỏ chủ trương
lấy ít địch nhiều của Tướng Giáp,
ông ta đập bàn và quát trong hội nghị, chỉ
thị cho VN Giáp phải đánh vỗ mặt thành cổ
Quảng Trị. Giáp kể lại 60 ngày đêm tấn công thành
cổ ta mất gần một vạn người Hà Nội mở ba mặt trận tại
Quảng Trị, Kontum và B́nh Long. Trận Quảng trị nặng và đẫm máu
nhất từ trưa 30-3-1972, kết thức ngày 16-9 khi
TQLC tái chiếm cổ thành. Trận Kontum bắt đầu tháng 4, thực
ra gồm hai giai đoạn từ 14-5 tới 17-5 và
từ 18-5 tới 1-7, cuối tháng 5 địch rút quân,
bỏ lại 3,000 xác chết. Trận B́nh Long gian khổ với 94 ngày bị
địch vây hăm từ 5-4 tới 7-7. TT Nixon tiếc là đă không đánh qua Miên
sớm hơn, đáng lư phải oanh tạc BV và phong
tỏa Hải pḥng từ 1970 hơn là để chúng
đem quân qua Miên, Lào, VNCH. Sở dĩ không đánh
sớm được v́ bị Quốc hội, phản
chiến chống phá mạnh. Nixon cho là trong trận này
quân đội VNCH chiến đấu một ḿnh không
có bộ binh Mỹ, VN hóa chiến tranh đạt
tiến bộ, nếu được trang bị đầy
đủ, họ có khả năng chống lại
những đơn vị tinh nhuệ của BV. Riêng
trong trận này ông nhận xét một ḿnh hỏa
lực không quân Mỹ không đủ mà phải có
sự phối hợp bộ binh (VNCH) dưới đất,
VNCH ngăn chận địch, không quân Mỹ
nghiền nát chúng (11). George Moss
lại nói quân đội VNCH can đảm, tổng cộng có khoảng
25,000 người thiệt mạng, trận đánh năm
1972 cho thấy không quân VNCH c̣n thiếu thốn trực
thăng, không vận yếu, pháo binh, t́nh báo…. c̣n kém.
Vận chuyển tiếp liệu vẫn phụ thuộc
vào Mỹ (12). Sự thực th́ miền nam VN
mạnh hay yếu, thiếu thốn hay đầy đủ
là do viện trợ của Mỹ, tủy thuộc vào
Quốc hội. Dù không có Mỹ oanh tạc yểm trợ, BV cũng
chưa thể chiếm hết miền Nam v́ quân đội
VNCH c̣n mạnh, có thể sẽ mất nhiều
tỉnh mà không lấy lại được. Mấy năm
sau 1972, VNCH đă không được Mỹ yểm
trợ B-52 lại bị Quốc hội cắt giảm
viện trợ xương tủy nên đă có ngày
thảm bại 30-4-1975. Ông Cao văn Viên nhận xét cuộc tấn công
của địch năm 1972 cho thấy kế hoạch
Việt Nam hóa yếu kém thê thảm. Nếu không có
yểm trợ của oanh tạc cơ và không vận
của Mỹ, VNCH khó giữ An Lộc, Kontum, tái
chiếm Quảng Trị. Hiệp định Ba Lê
được trao vào tay chúng ta như một bản án
tử h́nh v́ yểm trợ của không quân Hoa Kỳ
sẽ không c̣n nữa (13) TT Nixon
cho là VN hóa chiến tranh thành công nhưng đa số
giới chức quân sự cũng như các sử gia
Việt, Mỹ đều cho rằng nó yếu kém v́
vẫn phải phụ thuộc vào yểm trợ oanh
tạc và chuyển quân của Mỹ. Hiệp định
Paris thực ra có thể không ảnh hưởng
tới sự tồn vong của VNCH nếu họ
được viện trợ quân sự đầy
đủ. Vấn đề đặt ra là Hoa Kỳ có
c̣n muốn giữ Đông Dương hay không? thực
tế cho thấy họ muốn bỏ mảnh đất
xa xôi này, ṛ ràng là như vậy. Người Mỹ
đă không tăng viện trợ quân sự cho VNCH
khả dĩ đối phó với quân đội BV hùng
mạnh, Quốc hội của họ đă cắt
giảm viện trợ từng bước một cho
đến khi miền Nam sụp đổ. V́ thiếu quân, năm 1972 Hà Nội đă
phải bắt thêm hàng chục ngàn sinh viên, giáo
chức đưa vào tử địa như họ
đă thừa nhận (14). Mặc dù CSBV phải trả
cái giá quá cao cho cuộc Tổng tấn công năm 1972
bằng xương máu của hàng trăm ngàn thanh niên
vô tội, nhưng cuối cùng họ đă phải nhượng
bộ tại bàn Hội nghị như đă nói trên. Quốc hội Mỹ, TT Nixon cho là nhượng
bộ của Hà Nội để kư kết một
bản Hiệp định có thể chấp nhận
được, đối với Mỹ miền nam VN không
sụp đổ khi họ ra đi là đẹp mặt
rồi. VNCH đă thấy trước một thảm
kịch mà t́nh thế đă áp đặt lên vai họ Trọng Đạt ————————————— (1)
George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 361 Wikipedia
tiếng Việt, Chiến dịch xuân hè 1972 Richard
Nixon: No more Vietnams trang 150 Phillip
B. Davidson: Vietnam At War, The History 1946-1975, trang 673 Nguyễn Đức Phương trong Chiến
Tranh Việt Nam Toàn Tập, Chương Mùa Hè Đỏ
Lửa (trang 550-598) nói BV bổ sung thêm khoảng 50,000 quân
trong trận đánh (2)
Vietnam At War trang 673 (3)
Henry Kissinger, White House Years, XXV, Hanoi Throws the Dice: The Vietnam
Spring Offensive trang 1097-1123 Richard
Nixon, No More Vietnams trang 144-151 (4)
White House Years, trang (1102-1108) (5)
No More Vietnams trang 144, 145 (6)
Vietnam, An American Ordeal trang 350-357 (7)
No More Vietnam trang 149 (8)
Nguyên văn: Now, after the North Vietnamese had chosen to fight the
kind of war we fought best…” sách kể trên trang 144 (9)
Vietnam At War trang 708, 709 (10) Vietnam,
An American Ordeal trang 358, 359 (11)
No More Vietnams trang 149, 151 (12)
Vietnam, An American Ordeal trang 361 (13)
Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Ḥa
(Nguyễn Kỳ Phong dịch) trang 19 (14) Wikipedia tiếng Việt, Chiến dịch xuân hè 1972.
|