VAI
TR̉ CỦA GIÁO DỤC PHẬT GIÁO TRONG CUỘC
KHỦNG HOẢNG VỀ BẢN SẮC TẠI PHƯƠNG TÂY
HIỆN NAY TS.Đỗ Kim Thêm |
Tỉnh
thức Tỉnh
thức giúp cho chúng ta ư thức về cuộc sống
qua các kinh nghiệm thực tế, là phương
tiện cho ta nhận ra suy nghĩ mà thiền định
là một công tŕnh tu tập tốt nhất để
đạt đến mục đích. Một h́nh
thức quen thuộc trong thiền định là toạ
thiền. Thượng toạ Thích Nhất Hạnh trong
tác phẩm Peace in every step: The path of mindfulness in
everyday life cho là trong đời sống mọi người
có thể tu tập với bất kỳ một sinh
hoạt nào, khi nghe điện thoại, dừng xe khi
đèn đỏ, rửa chén hoặc uống trà v.v..
Thực ra, c̣n có nhiều h́nh thức khác luyện
tập hơi thở là đi, đứng, nằm,
ngồi, tất cả trong cung cách oai nghi thanh tịnh cũng
được gọi chung là hành thiền. Có nhiều
giải thích cho là thiền tập chỉ là một
vấn đề kỹ thuật, thiền định
nghiêm túc sẽ đạt được tỉnh
thức, an lạc cho tâm thân và gia tăng năng lượng.
Theo Thiền sư Suzuki, trong tác phẩm Branching
streams flow in the darkness hành thiền là tỉnh
thức trong chánh niệm, chánh niệm trong mối quan
hệ, ư thức là chúng ta đang hiện diện trong
cuộc sống cho dù bất cứ ở đâu và
đang làm ǵ. Thiền định nhằm đơn
giản hoá mọi trở lực nội tâm và ngoại
cảnh, loại bỏ mọi ràng buộc về
tiện nghi vật chất hay phiền năo tinh thần.
Khi loại trừ mọi hư vọng trong tu tập,
đó chính là lúc chúng ta t́m thấy lại chân tâm.
Cuối cùng, mục tiêu tối hậu của thiền
định là tâm thiền. Tương
thuộc Tương
thuộc là một khái niệm lưỡng cực mà
Thiền sư Suzuki dùng để giải thích khi so
chiếu hai trạng thái đối nghịch c̣n gọi
là nhị nguyên: sáng tối, đen trắng, tốt
xấu, hoàn mỹ và bất toàn. Một người bước
vào một căn pḥng và nói là tối, trong khi một
người khác lại cho là sáng. Tại sao sáng và
tối nảy sinh trong tâm trí của từng người
trong một cách riêng biệt? Suzuki cho là
mỗi người tạo ra một định nghĩa
riêng mà ḿnh yêu thích hay cho là hợp lư nhất, một
cấu trúc theo một khái niệm riêng, nó làm sai
lạc cho một nhận thức chung vốn dĩ là
một cách nắm bắt khách quan. Vấn đề khái
niệm dùng làm chuẩn mực được đặt
ra. Dù sáng là sáng và tối là tối, sự tỉnh
thức xác định cả hai là tương
thuộc. Suzuki nói tới tính độc nhất trong
mối quan hệ tương thuộc. Khi cho dị
biệt là nguồn gốc của vấn đề, chúng
ta cố phân biệt để soi sáng các đặc tính
hay các quan điểm. Thực ra, tương thuộc là
một điểm so sánh để kết hợp hơn
là tách rời ra khỏi các mối quan hệ. Khi cho là
hoàn toàn độc lập nhau, chúng ta lại tương
thuộc nhau. Sự phân biệt tâm thân là thí dụ. Thân
thể gồm có đầu, ḿnh và chân tay, nhưng tay
là tay, chân là chân, mổi một bộ phận có
một chức năng riêng giúp cho cơ thể hoạt
động. Độc lập trong chức năng, nhưng
mổi bộ phận hoạt động trong hoà
hợp và tương thuộc. Do đó, tỉnh
thức trong mối tương thuộc giúp cho chúng ta
bừng tỉnh ra là có tính độc nhất. Tính độc
nhất là ǵ? Theo Junyiro Tarakusa, qua bản dịch
của Thượng Toạ Tuệ Sỹ, Tinh Hoa
Triết Học Phật Giáo, Đạo Phật
chủ trương rằng không có cái được
tạo độc nhất và riêng rẻ. Vạn hữu
trong vũ trụ, tâm và vật, khởi lên đồng
thời, nương tựa, ảnh hưởng lẫn
nhau, và tạo ra một bản đại ḥa tấu vũ
trụ trong ḥa điệu. Nếu thiếu một, vũ
trụ sẽ không toàn vẹn; nếu không có tất
cả, cái một cũng không. Bản ḥa âm được
gọi chung là “Nhất chân pháp giới”. Vũ
trụ của cái Một và cái Thực. Trong lư tưởng
đó, vạn hữu sẽ tồn tại trong ḥa điệu
toàn diện, mỗi hữu không chướng ngại
hiện hữu và hoạt động của hữu khác. Sự ḥa
đồng có ba h́nh thức và được áp
dụng chung cho tất cả các tông phái Phật
học: 1) Đồng nhất tính khi có hai thành tố
riêng biệt hợp thành một, thí dụ như đồng
đỏ và kẽm được pha trộn để
tạo thành một hợp kim là đồng. 2) Đồng
nhất tính khi có hai đối lập như là mặt
trước và mặt sau, như sấp và ngửa, có
thể coi như khác nhau, nhưng trong thực tế là
một. 3) Đồng nhất tính khi toàn diện là theo
bản thể luận, như nước và sóng, toàn
thể của nước được biểu
hiện như là sóng. Cách định
nghĩa nước đôi hay huề vốn này thường
khó được chấp nhận trong các mô tả thông
dụng và gây nhiều ngộ nhận, một phần là
do khả năng diễn đạt, một phần là
khi cho là vấn đề thuộc về góc độ
khái niệm hơn là kinh nghiệm, trong khi tương
thuộc nghiêng nặng giá trị về mặt tỉnh
thức. Theo sau tính tương thuộc là tính không; dù
là một sáng tạo huyền bí, vấn đề có
thể tŕnh bày trong một kinh nghiệm sống cụ
thể với trạng thái tỉnh thức. Chân lư không
thể t́m thấy trong một câu trả lời
tổng quát. Đúng ra, tính không có thể được
hiểu như một cánh cửa mở ra sự
hiểu biết cho những vấn đề đào
luyện cho tinh thần tỉnh thức. Từ
bi Thượng
Toạ Thích Nhất Hạnh diễn tả cảm xúc hơn
trong lối b́nh dị là "hiểu và thương“.
Chúng ta đạt được trạng thái tỉnh
thức qua tu tập thiền định, nhờ
nhận ra ư nghĩa của mối tương thuộc
và tính không sẽ dẫn tới việc phát triển ḷng
từ bi. Từ bi là trọng tâm của tỉnh
thức, trong khi thiền định giúp cho chúng ta
nắm bắt lại Phật tánh và ḷng từ bi.
Tất cả vốn có sẵn trong chúng ta, không
phải là do phát minh hay sáng tạo trong tâm trí. Đức
Đạt Lai Lạt Ma trong tác phẩm The art of
happiness định nghĩa ḷng từ bi là một
t́nh trạng không gây bạo lực, gây hại và công
kích. H́nh thức của từ bi là bố thí tài,
bố thí pháp và bố thí vô uư. Đó là
một ước vọng cho tha nhân thoát bỏ mọi
khổ đau, ư nguyện này sẽ đem cho chúng ta
tới một hạnh nguyện cùng gắn bó nhau trong
tinh thần trách nhiệm và tôn trọng tha nhân. Từ
bi không phải làm việc thiện cho tha nhân trong tính
toán lợi hại thông thường, mà là kết
quả của một lối suy nghĩ đây là
một việc phải làm và nên làm, một việc
đánh giá cao đúng lúc, đúng người và đúng
việc trong thiện nguyện. Sau khi làm một việc
thiện, chúng ta có thể không hài ḷng, khi người
nhận được không phản ứng theo đúng
như cách mà chúng ta mong đợi. Do thế, từ tâm
có thể giảm đi. Thực ra, ḷng từ ái là
một hành vi cởi mở, chấp nhận, khoan dung, không
tính toán hay kỳ vọng bất cứ một thái
độ nào nơi người nhận. T́nh
thức và từ bi thúc dục chúng ta thực hành
việc thiện nguyện, tất cả gắn liển
với thái độ buông bỏ, chấm dứt
mọi hư vọng hoặc các điều kiện
tạo khổ đau. Đức Đạt Lai Lạt Ma
nhấn mạnh là cần phá vỡ bức tường
của cái tôi và tha nhân. Từ bi phát sinh do sự
hiểu biết về tinh thần b́nh đẳng và
cộng đồng trong thế giới nhân sinh, gắn
liền với ḷng tôn trọng các quyền cơ
bản của tha nhân, hơn là bảo vệ quan điểm
của cá nhân. Từ bi sẽ hỗ trợ cho sự phát
triển các chính sách xă hội, nhất là khi quyền
lợi của cá nhân được quan tâm đúng
mức và hài hoà để hướng tới tự do
và hạnh phúc chung. Từ bi là một nguồn an
lạc cho cá nhận và tha nhân khi tất cả tôn
trọng và nỗ lực thực hiện. Nhận
xét Trong
tiến tŕnh nâng cao bản sắc, Phật giáo có
tiềm năng to lớn cần khai thác, nhưng tại
các nước phương Đông, nơi có truyền
thống văn hoá Phật giáo lâu đời, mà
Phật giáo lại suy yếu trong các nỗ lực
thực hiện. Tại sao? Các lư do được
giải thích như sau. Suy đồi
tại Á Đông Tiểu
luận “V́ sao Phật Giáo suy tàn tại Ấn
Độ“ của D.C. Ahir kết luận là:
“Ngoài các lư do ngoại tại, Phật tử
chịu trách nhiệm cho số phận đáng buồn
của Phật Giáo. Khi tu viện trở nên giàu có, các
tăng sĩ không hành tŕ giáo luật, lo đào sâu nghiên
cứu từ chương thay v́ truyền bá giáo pháp,
xa rời tín đồ và quần chúng, xao lăng và
thụ động đối với những mục
đích thực tiễn.” Trong tác
phẩm “The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama“
của Thomas C. Laird, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng
đă giải thích tương tự: “Có những tác
động ngoại lai đă mọc rễ sâu trong
đầu con người và khó loại bỏ mà chúng
ta chẳng làm được ǵ nhiều. Nhưng
nếu chúng ta không lo tu hành nghiêm túc, giữ giới
luật, th́ tôn giáo trở thành giả dối. Đây
là sự thật cho lịch sử Phật giáo tại
Ấn Độ và Tây Tạng”. Trong
thời hiện đại, Phật giáo cũng không
tiến bộ hơn. Johan Galtung đă lên tiếng báo
động về hai hiện trạng suy đồi
tại các nước Tích Lan, Thái Lan, Đại Hàn và
Nhật Bản như sau. Một là,
các Tăng Đoàn không những luôn bị hạn
chế trong nỗ lực hoằng pháp mà lại c̣n
nhắm mắt trước bạo lực của
bạo quyền. Do Tăng Đoàn sinh hoạt ngày càng cách
biệt với xă hội đang chuyển ḿnh, kết
quả là có một tầng lớp tận cùng nghèo
đói và một tầng lớp cực kỳ giàu sang.
Phật giáo không đủ can đảm tranh đấu
chống lại bất công kinh tế và xă hội.
Bất lực này đưa đến mù quáng trước
những vi phạm trong nhiều lĩnh vực khác.
Giới lănh đạo chỉ cần ban phát ít
nhiều tự do hành đạo kèm theo những đặc
quyền và đặc lợi, Phật giáo dễ dàng
thoả thuận v́ ư thức sống c̣n. Hai là,
dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử c̣n theo mê
tín dị đoan, nghi lễ xa xưa và kinh điển
cổ ngữ, nên việc tu tập không c̣n phù hợp
với nhu cầu của thời đại mới. Johan Galtung
không đề cập tới đặc thù hiện nay
của Phật giáo Việt Nam, mà những suy yếu
nội tại cũng tương tự như các nước
Á Đông khác và hầu như không thể vượt
qua. Phật giáo
đă có hơn hai ngàn năm truyền thừa và đóng
góp to lớn cho đất nước phát triển, nay
là một đoàn thể xă hội trực thuộc Ban
Tôn giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc, nên
không thể phát huy nguồn lực. Trong khi giáo
dục lạc lối và đạo đức suy đồi,
Phật giáo lo phát triển cho chủ nghĩa xă hội
và kinh doanh tâm linh; nhập thế cho sự phát
triển hồn dân tộc qua hoằng dương đạo
pháp nhiệm mầu chỉ là niềm hy vọng. Trước
nguy cơ ngoại thù xâm lược, nội thù lũng
đoạn, dân tộc điêu linh và đạo pháp suy
vi, Phật giáo chưa tỉnh thức đểcải
cách triệt để hầu làm sống lại hào khí
Diên Hồng, bản sắc tinh hoa của đạo pháp
trong các thời đại Lư, Trần và dân tộc
Việt, hiểm hoạ diệt vong là một thực
trạng báo động… (Toàn văn ở: http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-03/vi/03.pdf) |