Ư thức mới trong chiến tranh QC tại VN 1954-75

Trần Trung Chính

 

Năm 1964, triết gia Phạm Công Thiện xuất bản quyển sách mà ông là tác giả, đó là quyển Ư THỨC MỚI TRONG VĂN  NGHỆ và TRIẾT HỌC.  Đây là quyển sách mà đa số “sinh viên và học sinh thời thượng” của Sài G̣n mua nhiều nhất. Cá nhân người viết biết chắc chắn rằng trong những người mua sách, đa số  đọc chưa hiểu nhưng mua để “hù dọa” và show off “làm đỏm”  với thế gian ra cái điều chủ nhân quyển sách  cũng là “trí thức” (người viết bài này, măi tới năm 1970 mới đọc quyển sách này).

Dữ kiện và sự kiện trong văn chương cũng như trong triết học th́ không mới lạ, nhưng cái nh́n và quan điểm của tác giả PHẠM CÔNG THIỆN th́ quả đúng là mới lạ. Mượn ư của triết gia Phạm Công Thiện, người viết đặt tiêu đề của bài viết này là Ư THỨC MỚI TRONG CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954 – 1975 để tŕnh bày quan điểm mới lạ về chiến tranh Việt Nam thời kỳ 1954 -1975 (dĩ nhiên chỉ mới lạ về cách diễn giải các sự kiện mà các nhà nghiên cứu cũng như các tướng lănh của VNCH và HK đă đề cập sau này).

Trận giao chiến giữa quân đội viễn chinh Pháp tại secteur Vĩnh Yên năm 1952 (do Đại Tá Vanuxem chỉ huy) và quân Việt Minh (do đích thân Vơ Nguyên Giáp chỉ huy) đă không hoàn toàn thuận lợi cho Việt Minh mặc dù quân số và hỏa lực áp đảo. Phía VM cũng áp dụng chiến thuật công đồn đả viện (chận đứng mọi phía tiếp viện của binh lực Pháp), nhưng Thống Tướng De Lattre de Tassigni sử dụng không quân bỏ bom napalm khiến quân VM  tổn thất nhân mạng quá nặng, Vơ Nguyên Giáp phải bỏ dở cuộc tấn công và rút quân VM qua bên kia biên giới Hoa Việt.

Trận Điện Biên Phủ năm 1954 cũng vậy, ban đầu Vơ Nguyên Giáp nghe theo lời chỉ đạo của Lă Quư Ba và Vi Nhất Thanh áp dụng chiến thuật “biển người”, nhưng Bộ Tư Lệnh của Pháp đem tiểu đoàn 5 Nhảy Dù nhấy xuống Điện Biên Phủ tái chiếm lại  cứ  điểm “Béatrice” và “Gabrielle” (dĩ nhiên quân Việt Minh tổn thất nặng) khiến Vơ Nguyên Giáp bỏ  chiến thuật “biển người” thay vào đó áp dụng chiến thuật “bao vây và ngăn chận tiếp tế “ cho quân trú pḥng. Kết quả là  Tướng De Castries ra lệnh cho toàn thể căn cứ Điện Biên Phủ ngưng chiến đấu. 2 h́nh ảnh được lưu giữ:

1.    Tướng De Castries bước ra khỏi hầm chỉ huy không có dơ 2 tay lên đầu hàng như lời Việt Cộng tuyên truyền là đă “bắt sống ” Tướng De Casries (hay Tướng De Castries “đầu hàng” quân Việt Minh).

2.    Một binh sĩ của Việt Minh (v́ có đội nón cối) cầm cờ trắng chạy lên cắm trên nóc hầm chỉ huy của căn cứ Điện Biên Phủ chứ không phải cờ trắng đầu hàng do quân đội Pháp tự cắm.

Ghi chú:  Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu Tá Bigard làm Tiểu Đoàn Trưởng có thuộc cấp đa số là người Việt Nam , trong đó có Trung Úy Phạm Văn Phú làm Đại Đội Trưởng. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù có khoảng 500 – 600 người chiếm lại cứ điểm Beatrice và Gabrielle v́ quân Việt Minh cũng bị bom napalm như ở secteur   Vĩnh Yên 2 năm trước đó. Khi căn cứ Điện Biên Phủ bị xiết ṿng vây th́ chính phủ Bidault sụp đổ, lên thay thế là Mendes France giữ chức Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng của chính phủ Pháp.

Tướng Navarre ra lệnh cho Tướng De Castries cố thủ để tân chính phủ có giải pháp chính trị cho toàn thể Đông Dương, nhưng không tăng viện bằng quân số mà chỉ thả dù tiếp tế (khổ nỗi quân trú pḥng chỉ nhận được khoảng 20%, c̣n 80% bay lạc sang phía VM ). Ông biện luận đằng nào cũng thua, có tiếp viện thêm lính chiến đấu vào cứ điểm pḥng thủ đi nữa cũng là chuyện vô ích.

Rạng sáng ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève 1954 được hoàn tất (nhưng vẫn đề ngày 20 tháng 7 năm 1954) với ranh giới phân chia tại sông Bến Hải – vĩ tuyến 17, nhưng không có chữ kư của đại diện chính phủ Quốc Gia Việt Nam và trong văn bản chính thức của Hiệp Định Đ́nh Chiến cũng không có quy định Hiệp Thương Thống Nhất 2 miền Nam Bắc Việt Nam vào năm 1956, nghĩa là Hiệp Định Genève 1954 thuần túy chỉ đề cập đến vấn đề “đ́nh chiến” giữa quân đội viễn chinh Pháp và quân đội Việt Minh Cộng Sản, không hề đề cập đến tương lai chính trị của 2 miền Nam – Bắc.

Trong bài viết này, người viết không lập lại những diễn tiến của trận Điện Biên Phủ cũng như những thảo luận giằng co giữa 2 phía Pháp và Việt Minh về vấn đề ranh giới chia cắt, nhưng người viết đưa ra những nhận định mới (nhưng không lạ v́ người viết căn cứ vào nhưng thực tế đă xảy ra) :

§  Thực tế thứ nhất: sau khi Mao Trạch Đông chiến thắng ở Hoa Lục năm 1949, chiến trường Đông Dương sôi động ngay mà phần ưu thế nghiêng về phía Việt Minh v́ Mao chỉ thị cho Hồng Quân Trung Hoa giúp đỡ cho quân Việt Minh tối đa về vũ khí, lương thực, nhân sự…Quân đội Pháp bị thua tại các vùng tiếp cận với lănh thổ Trung Hoa như Cao Bằng , Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang, Đông Triều (Hải Dương và Quảng Ninh) khiến chính phủ Pháp phải cử Thống Tướng De Lattre De Tassigni sang làm Tư Lệnh Đạo Quân Viễn Chinh của Pháp tại Đông Dương và tăng quân số lên tới 220,000 người.

§  Thực tế thứ nh́: mặc dù đẩy lui được quân Việt Minh qua bên kia biên giới Hoa – Việt vào cuối năm 1952, nhưng Thống Tướng De Lattre De Tassigni biết rằng nước Pháp không đủ Tài Chánh, không đủ Nhân Lực…để theo đuổi cuộc chiến lâu dài tại Đông Dương nên ông được chính phủ Pháp ủy nhiệm sang Hoa Kỳ cầu viện với Tổng Thống Eisenhower vừa mới đắc cử. Theo nhận định riêng của người viết, chuyến công du Hoa Kỳ của Thống Tướng De Lattre De Tassigni thành công mỹ măn : cả 2 nước Pháp và Hoa kỳ đă “toa rập” với nhau một cách chặt chẽ để chận đứng LÀN SÓNG ĐỎ tại vùng Đông Nam Á Châu mà người ta chỉ thấy mặt nổi của sự toa rập này qua sự kiện Hoa Kỳ đồng ư viện trợ quân trang + quân dụng cũng như vũ khí  + đạn dược cho đạo quân viễn chinh 220,000 người của Pháp chiến đấu tại chiến trường Đông Dương.

§  Thực tế thứ ba: trước cao trào trao trả độc lập cho các thuộc địa [mà Anh Quốc dẫn đầu đă trao trả độc lập cho Ấn Độ, Pakistan và Ceyland (Tích Lan – tên cũ của Sri Lanka) vào năm 1947] , nước Pháp sẽ rời bỏ Đông Dương là điều đương nhiên phải xảy ra. Nhưng vào lúc nào? Dĩ nhiên nước Pháp muốn rút ra khỏi Đông Dương càng sớm càng tốt, phía Hoa Kỳ cho hay chính phủ Hoa Kỳ có giải pháp chính trị cho Việt Nam, để Việt Minh Cộng Sản chiếm giữ miền Bắc tiếp cận với Trung Cộng, Hoa Kỳ sẽ ủng hộ cho một chính quyền người QG tại miền Nam. Vai tṛ chính yếu của đạo quân viễn chinh Pháp là đánh cho quân Việt Minh bị “nhừ tử” không c̣n khả năng xâm lăng miền Nam trong ṿng 5-10 năm. Bù lại chính phủ Hoa Kỳ sẽ viện trợ tái thiết cho nước Pháp qua chương tŕnh Marshall.

§  Thực tế thứ tư: Thống Tướng De Lattre De Tassigni từ Hoa Kỳ trở lại Đông Dương được một gian ngắn, rồi ông phải trở về Pháp để điều trị bệnh ung thư rồi chết tại quê nhà. Thay thế ông là Đại Tướng Raoul Salan – là người đă sang Đông Dương từ 1924 khi c̣n là Trung Úy. Kế hoạch điều nghiên để thiết lập căn cứ Điện Biên Phủ bắt đầu từ thời Đại Tướng Salan làm Tư Lệnh thay thế cho Thống Tướng De Lattre De Tassigni. Tới năm 1953 ông hồi hưu v́ đă có trên 30 năm công vụ và Trung Tướng Navarre sang Đông Dương thay thế, Trung Tướng Navarre hoàn thiện và Quốc Hội Pháp thông qua ngân sách để xây dựng căn cứ này. Số quân trú đóng tại căn cứ Điện Biên Phủ lên tới 16,000 người và Đại Tá De Castries làm Chỉ Huy Trưởng. Khi VM bắt đầu tấn công tấn công căn cứ Điện Biên Phủ, để khích lệ tinh thần chiến đấu, Bộ Tư Lệnh Pháp vinh thăng Đại Tá De Castries lên cấp bậc Thiếu Tướng 2 sao (quân đội Pháp không có cấp bậc Chuẩn Tướng 01 sao) , nhưng dù thả 2 sao xuống căn cứ Điện Biên Phủ lại bay sang phía VM khiến nhiều người tin rằng đây là điềm gở báo trước rằng Tướng De Castries sẽ bị VM bắt giữ sau này.

§  Thực tế thứ năm: Sau khi ngưng bắn, kiểm điểm lại th́ biết rằng Tướng De Castries bị bắt cùng với khoảng 8,000 binh sĩ (khoảng 50% số quân nhân tham chiến bị tử trận). Rất nhiều nhà báo, b́nh luận gia cũng như binh gia và các học giả về quân sự đă nêu ra những khiếm khuyết và lỗi lầm của các Tướng lănh Pháp, có người c̣n cho rằng Trung Tướng Navarre là Tướng về T́nh Báo không đủ kinh nghiệm thực tế trên chiến trường. Nhưng tất cả những lời phê b́nh ấy đều không có giá trị v́ không ai biết những “toa rập” của Thống Tướng De Lattre De Tassigni với Tổng Thống Eisenhower, đó là căn cứ Điện Biên Phủ được thành lập giống như “cục đường” nhằm thu hút bầy kiến là quân Việt Minh Cộng Sản. Một thực tế khác mà người ta không chú ư, đó là VNCH được yên ổn 5 năm để xây dưng đất nước (từ 1955 đến 1960) không phải v́ Hồ chí Minh và Vơ Nguyên Giáp có thiện chí ḥa b́nh, mà là v́ số tổn thất sau trận Điện Biên Phủ quá lớn nên binh lực của miền Bắc không thể mở một trận chiến mới để nuốt trọn miền Nam được.

§  Thực tế thứ sáu: về mặt tuyên truyền Bắc Việt thổi phồng chiến thắng Điện Biên Phủ khiến toàn thế dân chúng miền Bắc và một phần dân chúng miền Nam bị lừa bịp mà cứ tưởng VC là thần thánh. Thực tế là VC “có tiếng” mà không “có miếng”, trong khi quân đội viễn chinh Pháp tuần tự xuống tàu trở về Pháp mà nước Pháp được hưởng vài tỷ dollars viện trợ phục hồi kinh tế. Thời điểm 1960- nghĩa là 6 năm sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc, nước Pháp đă trở lại vị trí cường quốc kinh tế, trong khi cùng thời điểm 1960 BV vẫn c̣n phải ăn bám Liên Sô và Trung Cộng!

Một câu hỏi khác rất quan trọng mà tất cả người Việt Nam (kể cả mấy tên chóp bu VC như HCM, Lê Duẩn, Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ…) vẫn c̣n thắc mắc và cũng chưa t́m được lời giải thích thỏa đáng:  “Tại sao trong giai đoạn 1955 đến 1960, chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ VNCH cũng như ủng hộ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm tối đ , vậy mà sau năm 1960 chính phủ Hoa Kỳ thay đổi thái độ ứng xử và sau khi  Đại Sứ Cabot Lodge đến nhận nhiệm sở vào ngày 21 tháng 8 năm 1963 chính Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n đă đứng đằng sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 dẫn đến cái chết đầy nghi vấn của 2 anh em Tổng Thống NĐDiệm và ông Cố Vấn NĐNhu.

Trở lại phần đầu của bài viết này, người viết xin lập lại mục tiêu của chính phủ HK khi đề xướng giải pháp chính trị cho cuộc chiến Đông Dương 1946 – 1954 là chính phủ HK ủng hộ và giúp đỡ cho chính quyền miền Nam để ngăn chận Làn Sóng Đỏ. Thực hiện mục tiêu chính trị đó, chính Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă tiếp kiến Sir Robert Thompson tại Dinh Gia Long vào năm 1959, hiển nhiên khi thành lập quốc sách Ấp Chiến Lược, ông Ngô Đ́nh Nhu đă bàn luận và tham khảo nhiều kinh nghiệm của Robert Thompson đă thực thi thành công tại Malaysia.

Khi Hồ Chí Minh cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngay tại Hà Nội vào năm 1960 và đă cắt cử Đoàn 66 lên đường sang Lào trước đó một thời gian ngắn, T́nh Báo Chiến Lược của HK đă dự đoán được ư định và khả năng của HCM và Đảng CSVN như sau:

1.    Từ bỏ chiến tranh du kích mà bước thằng qua chiến tranh xâm lược kiểu vận động chiến mặc dù vẫn ḷe bịp thiên hạ dưới chiêu bài chiến tranh nổi dậy (Đoàn 66 là đơn vị Công Binh đặc biệt đi mở xa lộ Trường Sơn chạy từ Quảng B́nh qua Lào rồi hướng về phía Nam song song với đường biên giới Lào Việt sau đó vượt qua biên giới Lào – Cambodia, xa lộ Trường Sơn chạy song song với biên giới Việt – Cambodia măi tới Phước Long mới sử dụng đường lộ của Cambodia. Xa lộ Trường Sơn là tên gọi sau 1975, trước đó, VC bịp bợm vẫn dùng tên là “Đường Ṃn HCM”, khôi hài ở chỗ đường ṃn mà có xe tải và chiến xa chạy cả trăm chiếc.)

B.Khối Cộng Sản qua 2 tên đầu sỏ là Liên Sô và Trung Cộng chi viện tối đa về quân cụ, vũ khí, lương thục, nhiên liệu, chiến xa, hỏa tiễn cầm tay và hỏa tiễn pḥng không…cho BV.

Các chiến lược gia của Hoa Kỳ xét rằng VNCH không thể thắng VC được v́ 3 nguyên do:

I.- NGUYÊN DO THỨ NHẤT:  về mặt địa lư, phía Tây của VNCH có dăy Trường Sơn dài mấy ngàn kilometers, VC sử dụng dăy Trường Sơn qua Đường Ṃn HCM để đem quân và chiến cụ vào miền Nam dễ dàng, bọn VC có thể tấn công bất cứ chỗ nào mà chúng muốn.  Sir Robert Thompson thắng được Mă Cộng v́ bán đảo Malaysia có 3 mặt là biển, đường bộ chỉ chung với Thailand một đoạn ngắn, Cộng Sản Quốc Tế có muốn tiếp viện cho Mă Cộng cũng không thể thực hiện được. Nam Hàn cũng vậy, 3 mặt là biển, Bắc Hàn không thể ném du kích và đặc công  xâm nhập qua đường biển được, c̣n đường bộ, chỉ duy nhất ở vĩ tuyến 38, đă có 35,000 quân nhân của HK trấn đóng.

II.- NGUYÊN DO THỨ HAI:  Bắc Việt có những lănh tụ bất nhân và tàn bạo, chúng dám hy sinh đến người dân cuối cùng để thực hiện lư tưởng Cộng Sản điên khùng của chúng bất chấp đến đau đớn mất mát rên siết của dân chúng.

III.- NGUYÊN DO THỨ BA:  dân chúng Bắc Viêt bị bưng bít và nhồi sọ đă trở thành những con cừu bảo ǵ nghe nấy , không c̣n trí phán đoán cá nhân. C̣n giới trí thức tinh hoa của đất nước th́ phần lớn đă bỏ chạy vào Nam năm 1954, số c̣n lại nhân cách đă mất chỉ đóng vai “nâng bi, bợ dĩa” là giỏi, chả làm nên cơm cháo ǵ hết.

Đối phó với sự xâm lược của CSBV, Hoa Kỳ chủ trương:

Đem quân lực Hoa Kỳ đổ bộ vào miền Nam làm “mồi” để các lănh tụ BV xua đại quân vào Nam dưới chiêu bài “đánh đuổi quân xâm lược Mỹ”.

Dùng hỏa lực tiêu diệt quân lính BV, tức là tiêu diệt tiềm lực chiến tranh của BV trên đất của VNCH mà không mang tiếng là đi xâm lăng một quốc gia khác (nên nhớ là sau Hiệp Định Genève 1954, BV có danh xưng là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Nam Việt Nam có danh xưng là Việt Nam Cộng Ḥa).

Khi quân lính bị tiêu diệt gần hết tức là tiềm lực chiến tranh không c̣n th́ cuộc xâm lăng của BV sẽ tàn lụi dần.

Như chúng ta đă biết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hoàn toàn chống lại chủ trương nói trên của Hoa Kỳ, ông cho rằng:

§  Hoa Kỳ đem quân vào VN, sự chống Cộng của VNCH sẽ mất chính nghĩa.

§  Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nghĩ rằng HCM cũng là người VN, ông cố gắng tiếp xúc và thuyết phục BV để tránh chiến tranh xảy ra ở VN.

§  Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nghĩ đến giao t́nh của ông với Tổng Thống Eisenhower và ông nghĩ rằng có ông hiện hữu trong chính trường sẽ cản trở được chiến tranh giữa HK và BV.

Người viết hiểu tại sao chính phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách tại VN sau khi HCM thành lập MTGPMN và ra lệnh cho Đoàn 66 khai mở Đường Ṃn Hồ Chí Minh . Người viết trích dẫn trong Tôn Tử Binh Pháp – Hư Thực thiên, nguyên văn như sau:  “Binh vô thường thế, thủy vô thường h́nh, năng nhân địch biến hóa , nhi thủ thắng giả, vị chi thần ”.  Tôn Tử cho rằng, t́nh thế trên chiến trường thay đổi khôn lường, không nên câu nệ vào bất cứ một h́nh thức tác chiến nào, cũng giống như nước – vốn không có h́nh thái cố định, rót vào b́nh tṛn th́ nước h́nh tṛn, vào b́nh vuông th́ nước h́nh vuông, người biết dựa vào thay đổi t́nh h́nh địch mà giành chiến thắng th́ gọi là thần vậy.

Trường hợp Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm rơ ràng ông quá câu nệ vào mô thức ẤP CHIẾN LƯỢC của ông trong khi HCM và Đảng CSVN đă thay đổi biến hóa thế trận, thành thử chính phủ Hoa Kỳ lại thấy chính Tổng Thống Diệm là “kỳ đà cản mũi” trong đối sách của họ với CSBV. Và khi ông không chịu thay đổi th́ họ tổ chức đảo chánh lật đổ ông là điều tất nhiên.  Những lư do như cá nhân Tổng Thống Diệm cai trị đất nước theo phương pháp gia đ́nh tri, thành phần Công Giáo được ưu đăi hơn thành phần Phật Giáo trong quân đội và chính quyền, viên chức hành chánh tham nhũng…chỉ là những lư do nhỏ nhoi so với đại cuộc, chỉ để khich động quần chúng b́nh dân mà thôi. Dẫn chứng: những thành phần tổ chức cuộc đảo chính đều là các tướng lănh hay hoặc các giới chức có liên quan đến quốc pḥng kể cả những người được coi là thân tín ruột thịt như Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm- Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính- đương kim Tư Lệnh quân đoàn III, ông Nguyễn Đ́nh Thuần- Bộ Trưởng phụ tá Quốc Pḥng của Tổng Thống Diệm. Đại Tá Đỗ Mậu – Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội v.v…

Ghi chú: tôi không tin vào luận cứ buộc tội của ông Lữ Giang khi ông cho rằng v́ ham tiền của Lucien Conin mà các tướng lănh yham gia đảo chánh và giết Tổng Thống Diệm. Mặc dù sau đảo chánh, trùm T́nh Báo của CIA có đem tiền đến Bộ Tổng Tham Mưu đưa cho Trung Tướng Trần Văn Đôn để chia cho các tướng có công, nhưng đó không phải là lư do chính đáng để các tướng lănh tham gia đảo chánh. Lư do chính đáng là họ thấy Tổng Thống Diệm c̣n tại vị sẽ làm hỏng kế hoạch chống Cộng của Hoa Kỳ. Ông Lữ Giang và những cá nhân bênh vực chính phủ Ngô Đ́nh Diệm theo cảm tính, đă có thái độ  “mục hạ vô nhân” quá đáng, ông Lữ Giang không nghĩ rằng nếu ông Ngô Đ́nh Nhu phá vỡ được kế hoạch đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 th́ cũng có vài ông tướng bị tử h́nh, một số ông sẽ vào tù ngồi, c̣n một số ít leo lên máy bay thoát qua Nam Vang hay Thái Lan, th́ làm ǵ có chuyện tham gia đảo chính v́ lănh tiền thưởng của CIA (giống như những tên giết mướn của xă hội đen). Không một ông tướng nào lại ngu si dại dột đem sinh mạng của chính ḿnh cũng như sinh mạng của thân nhân của ḿnh ra trao đổi với số  “tiền thưởng” của Trùm CIA tại Sài G̣n. Đó cũng chính là nhân dân VNCH thấy không có bất cứ một ông Tướng nào trả lời “đôi co” với ông Lữ Giang, không phải v́ ông lập luận buộc tội họ quá giỏi, mà chỉ v́ ông Lữ Giang không biết cái ǵ cả (hoặc giả những cái mà ông tự cho là “biết” th́ nó lại không ăn nhập ǵ với công việc các ông Tướng đă làm).

C̣n chuyện Tổng Thống Diệm bị giết th́ rơ ràng là lỗi của Tổng Thống Diệm,  qua tài liệu đă giải mật của Bộ Ngoại Giao HK (do ông Lâm Lễ Trinh cung cấp) sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, từ nhà của ông Mă Tuyên, Tổng Thống Diệm có nói chuyện điện thoại với Đại Sứ Cabot Lodge trong đó Đại Sứ Lodge dặn: “… nếu cần chuyến bay rời khỏi VN, xin Tổng Thống gọi cho tôi, những chuyện khác xin đừng gọi”.  Sau đó, Tổng Thống Diệm gọi vào Bộ Tổng Tham Mưu th́ coi như sinh mạng của ông đă chấm dứt. Thật đáng tiếc v́ Tổng Thống Diệm bị giết chết là do sự vô minh của chính ông.

Sang năm 1964, t́nh h́nh chính trị tại Thủ Đô Sài G̣n cứ rối beng như mớ ḅng bong, cách vài tháng lại có “chỉnh lư”, “đảo chính”, “biểu dương lực lượng”, “sinh viên học sinh xuống đường biểu t́nh chống quân phiệt”, “Phật tử xuống đường bảo vệ chánh pháp”, “giáo dân xuống đường bảo vệ giáo xứ” (các giáo xứ có không gian rất rộng, không ai biết giới hạn địa lư. Thí dụ minh họa, giáo dân vùng Hố Nai, Gia Kiệm, Túc Trưng …xuống Sài G̣n bảo vệ cho giáo xứ Tân Sa Châu trên đường Trương Minh Giảng, hay bảo vệ cho Ṭa Tổng Giám Mục Địa Phận Sài G̣n- nằm trên đường Phan Đ́nh Phùng quận 3). Ngay chính 2 ông giám đốc Đài Phát Thanh Sàig̣n và Đài Phát Thanh Quân Đội cũng chưa biết phe nào chống phe nào, nên khi thấy lính tráng kéo vào trụ sở Đài Phát Thanh, 2 ông cho chạy tape nhạc hùng thâu sẵn là dân Sài G̣n biết có biến động chính trị.

Phía chính giới và dân chúng VNCH lo âu v́ tương lai không biết đi về đâu, c̣n phía Bắc Việt và VC th́ ăn mừng hí hửng (chắc là họ ca vang câu hát Thời cơ đến rồi! Thời cơ đến rồi!  Trong các buổi họp mật của Bộ Chính Trị Đảng CSVN tại Hà Nội, các ông bà “cơ hội chủ nghĩa” th́ nhảy múa hét ḥ chỉ sợ chính phủ mới không mời tham chính. Ít nhất dân chúng VN thấy ông Đại Sứ Cabot Lodge trở đi trở lại Sài G̣n đến 2-3 lần, rồi ông về Mỹ nghỉ hưu hẳn hoi vào cuối năm 1964 và Thống Tướng hồi hưu Maxwell Taylor- nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Tham Mưu Hỗn Hợp của QĐ Hoa Kỳ sang Sài G̣n làm Đại Sứ Hoa Kỳ. Ngày 16 tháng 2 năm 1965, Bác Sĩ Phan Huy Quát thành lập chính phủ (số Tổng Bộ Trưởng chưa đầy đủ) th́ Trung Tướng Dương Văn Đức và Thiếu Tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Sài G̣n “mưu toan đảo chính”. Sau 3 ngày, không có giao tranh và không có đổ máu, 2 ông Tướng lui binh và tuyên bố là “chúng tôi chỉ BIỂU DƯƠNG LỰC LƯỢNG”.

Chả lẽ 2 ông Tướng VNCH làm tṛ trẻ con như  vậy hay sao? 

Sau này chính Tướng Lâm Văn Phát tâm sự với người thân cận là phía Hoa Kỳ nhờ ông kéo binh đội về Sài G̣n với mục đích làm áp lực để Chính Phủ Phan Huy Quát tống xuất Đại Tướng Nguyễn Khánh đi lưu vong (chính Thủ Tướng Phan Huy Quát kư Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm Đại Tướng Nguyễn Khánh làm Đại Sứ Lưu Động – nghĩa là go around nhưng có paycheck đàng hoàng). Mục tiêu kế tiếp là cách chức 2 đàn em thân tín của Đại Tướng Nguyễn Khánh là Đại Tá Cao Văn Chính đang giữ chức Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội và Trung Tá Lê Văn Nhiều đang giữ chức Cục Trưởng Cục Trung Ương T́nh Báo. Do sự tiến cử của Trung Tá Phạm Văn Liễu – đương kim Tổng Giám Đốc CSQG, Thủ Tướng Phan Huy Quát bổ nhiệm Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan – nguyên Tư Lệnh Phó Không Quân, thay thế Đại Tá Cao Văn Chính trong chức vụ Giám Đốc Nha An Quân Đội kiêm nhiệm luôn Cục Trưởng Cục Trung Ương T́nh báo thay thế Trung Tá Lê Văn Nhiều.

Ghi chú: thời điểm Thiếu Tướng Lâm Văn Phát tiết lộ về sự thực của CUỘC BIỂU DƯƠNG LỰC LƯỢNG diễn ra vào ngày 19 tháng 2 năm 1965 tại Sài G̣n là vào khoảng trước năm 2000 trong khu chung cư mobile home gần building Phước Lộc Thọ thành phố Westminster – Orange County Nam Cali.

Năm 1964 xảy ra vụ tàu MADDOX bị “tàu lạ” pháo kích tại Vịnh Bắc Việt và dư luận chính trị tại Sài G̣n đồn đoán là quân đội Mỹ sẽ vào Nam VN (người viết gọi là “tàu lạ” v́ cả BV lẫn Trung Cộng không ai lên tiếng ǵ hết). Thống Tướng hồi hưu Maxwell Taylor sang Sài G̣n làm Đại Sứ càng làm gia tăng phỏng đoán từ 50% vọt lên 90%. Ít lâu sau khi lên làm Thủ Tướng, Bác Sĩ Phan Huy Quát viết văn thư mời quân đội HK  vào Nam VN để chống lại quân đội BV xâm lược. (Năm 2012, khi đến San José tham dự buổi ra mắt sách NH̀N LẠI SỬ VIỆT – tập 3 của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng, người viết có hỏi cựu Tổng Trưởng Thông Tin Hoàng Đức Nhă về việc Bác Sĩ Phan Huy Quát kư văn thư trước hay sau khi quân đội Mỹ vào VN? Ông Hoàng Đức Nhă cho hay là văn thư của Bác Sĩ Phan Huy Quát được viết sau khi TQLC Hoa Kỳ đă đổ bộ lên băi biển Chu Lai được 48 tiếng đồng hồ.)

Năm 1988, khi c̣n trong trại tỵ nạn Phanat Nikhom, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu nhắc lại kư ức của ḿnh đă nói chuyện với ông Trần Quốc Bửu tại thời điểm 1965:…Luật Sư Hiệu “ngờ ngợ” về vai tṛ của Thống Tướng  hồi hưu Maxwell Taylor giống như Toàn Quyền Đông Dương D’ Argenlieu hồi 1945 -1946 và Toàn Quyền Đông Dương De Lattre De Tassigni hồi 1952 vậy. Biểu lộ sự “đồng t́nh”, ông Trần Quốc Bửu nói: “đíều động hơn 500,000 quân nhân phải là một Đại Tướng đă từng nắm giữ chức vụ Chủ Tịch Ban Tham Mưu Hỗn Hợp hay ít nhất đă từng là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, chớ c̣n mấy ông Ngoại Giao chuyên nghiệp thuần túy  th́ làm sao điều động nổi”.

Hoa Kỳ có khoảng 01 triệu quân, năm 1944 khi Âu Châu c̣n nằm trong tay quân Đức Quốc Xă, Đại Tướng Eisenhower đă chỉ huy khoảng 200,000 quân để giải phóng Âu Châu. Chiến trường Á Châu, Đại Tướng Mac Arthur cũng chỉ huy khoảng 200,000 quân nhân để đánh tan quân đội Nhật Bản. Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 Đại Tướng Mac Arthur cũng chỉ huy 280,000 quân của LHQ (trong đó HK chiếm 250,000 người) để chận đứng quân của Bắc Hàn và 01 triệu chí nguyện quân của Trung Cộng do nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy. Nam VN đầu năm 1965, t́nh h́nh chưa đến nỗi nào, vậy tại sao chính phủ HK phải sử dụng đến 550,000 quân? (chưa kể 50,000 quân nhân của Đại Hàn Dân Quốc, 12,000 quân nhân trong Sư Đoàn Bộ Binh Măng Xà Vương – King Cobra của Thái Lan, hơn 5,000 quân nhân của liên quân Australia – New Zealand và 2,000 binh sĩ không tác chiến của Philippines).

Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu th́ phỏng đoán rằng quân đội HK tự động đổ quân vào VN (dù chưa có lời mời của Chính Phủ VNCH) là do mục đích khác chứ không phải là chống quân CSBV.  Luật Sư Hiệu cho rằng chính phủ HK đem hơn nửa triệu quân sang VN là chuẩn bị để ứng phó với t́nh h́nh càng ngày càng xấu đi tại Indonesia (đó là do Tổng Thống Soekarno dung dưỡng  cho phe Cộng Sản thân Mao lộng hành). Lời phỏng đoán của Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu gần như trở thành lời tiên tri khi chỉ ít lâu sau đó bên Indonesia xảy ra biến động lớn khiến cho Tướng Suharto lên nắm quyền với sự đoạn giao với chính quyền Bắc Kinh đi kèm với sự tàn sát hơn nửa triệu đảng viên Đảng Cộng Sản chỉ trong ṿng 01 tuần lễ.

Mục tiêu chính đă giải quyết xong, Thống Tướng hồi hưu Maxwell Taylor trở về Mỹ và ông Elsworth Bunker – một viên chức thâm niên của Bộ Ngoại Giao HK sang VN làm Đại Sứ từ 1967. Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu cũng cho rằng HCM và Ban Lănh Đạo của CSBV bị HK lừa (mà không biết). Luật Sư Hiệu dẫn chứng:

Dẫn chứng thứ nhất: lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm rồi tạo ra t́nh cảnh chính tri hỗn độn bát nháo như thực tế đă thấy các tướng lănh VNCH tranh giành quyền lực, nên quân BV ồ ạt vào Nam trong cuối năm 1963, 1964, 1965,1966…để “cướp chính quyền“ kẻo lỡ thời cơ.

Image result for cĂ¡ch mạng 1963

Sau đảo chánh 1963

Dẫn chứng thứ hai: HK không trang bị vũ khí hiện đại cho QL/VNCH (mà QL/VNCH vẫn sử dụng vũ khí có từ thời đệ nhị Thế Chiến). Tin t́nh báo của HK th́ dư biết quân BV trang bị vũ khi hiện đại hơn như AK47, súng phóng hỏa tiễn B- 40 và B – 41, đại liên 12 ly 8 , trung liên RPD, hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay AT3, đại liên pḥng không, cao xạ pḥng không 37 ly. Chính sự trang bị yếu kém về hỏa lực của QL/VNCH mới thôi thúc cấp lănh đạo của BV mau mau xua đại quân vào Nam giành chiến thắng!

Dẫn chứng thứ ba: đại quân của BV vào Nam bao nhiêu th́ bị hỏa lực của HK và VNCH giết gần hết. Hàng rào điện tử Mac Namara dựng lên từ 1964 chỉ là những sensors ghi nhận sinh vật đi qua lại, các tín hiệu được chạy về Trung Tâm Dữ Liệu, rồi được chuyển qua Trung Tâm Khai Thác Dữ Liệu, Headquarter của MACV tại Sàig̣n mới lập kế hoạch Hành Quân ghi rơ chi tiết như nơi chốn, thời điểm hành sự và cường độ sử dụng vũ khi. Sau 30 tháng 4 năm 1975, dân chúng miền Bắc mới biết là có những trận mưa bom xóa sạch các đơn vị xâm nhập, nhưng báo chí và các nhà viết sử không ai được đọc các báo cáo của Trung Tâm Dữ Liệu, Trung Tâm Khai Thác Dữ Liệu và Kế hoạch hành quân: HK không bao giờ công bố các tài liệu này v́ lư do nhân đạo (Nhà văn Dương Thu Hương ước tính Bắc Việt có từ 3 đến 5 triệu tử sĩ, người viết lấy số 3 triệu nhỏ nhất so với dân số BV vào lúc 1975 là 25 triệu, tính ra là hỏa lực của Hoa Kỳ đă diệt 12% dân số của BV, cho nên không công bố các dữ liệu có sẵn là vấn đề nhân đạo ). Mặt khác, nếu có được đọc th́ cũng không có dữ liệu ghi nhận số người đi trở ra Bắc, mà chỉ có dữ liệu số người  từ Bắc vào Nam theo từng thời điểm khác nhau.

Dẫn chứng thứ tư: quen tính ba hoa phét lác, bọn CSBV lớn lối cho rằng BV đă chiến thắng 2 tên đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ, tự khen ḿnh có chiến thắng thần thánh (người vô thần mà cứ đem thần thánh ra làm định mức tuyệt hảo, trông có vẻ chương chướng làm sao!).  Chiến thắng thần thánh v́ BV không có thương binh và phế binh sau 1975. Hoa Kỳ và VNCH có phương tiện tải thương nhanh, có máu khô, có thuốc men dồi dào, có bác sĩ và y tá cứu thương tŕnh độ tay nghề cao, vậy mà số thương binh đă lên tới nửa triệu người. BV không có thấy thương phế binh trên đường phố th́ đúng là “thần thánh” chứ c̣n là ǵ bây giờ.

Image result for Viet cong 1964

VC bị VNCH bắt khoảng 1965

Vấn đề chính của 500.000 quân nhân Hoa Kỳ vào VN vào năm 1965 là dự pḥng cho trường hợp xấu nhất ở Indonesia, nhưng giải pháp của T́nh Báo Hoa Kỳ giúp Tướng Suharto tiêu diệt sạch sẽ Đảng CS Indonesia và bọn Maoists, cho nên việc hồi hương 500,000 quân nhân HK về nước phải là điều tất yếu (vấn đề tài chánh là chính, ngân sách làm sao chi phí cho nửa triệu quân mà đi cà nhỏng không làm ǵ cả). Tổng Thống Johnson và Bộ Trưởng Mac Namara “bỏ chạy” để lại “gánh nặng” cho Phó Tổng Thống Humphrey và ứng cử viên Richard Nixon giải quyết.

Trung Ương T́nh Báo Hải Ngoại của VNCH cho hay là nếu đắc cử, ông Humphrey và Đảng Dân Chủ sẽ bắt buộc Tổng Thống Thiệu “liên hiệp với VC” rồi đơn phương rút quân vô điều kiện.

Do đó,Tổng Thống Thiệu giúp đỡ ứng cử viên Nixon đắc cử bằng cách chinh phủ VNCH không tham dự Ḥa Đàm Paris (sau Tết Mậu Thân).  Ứng cử viên Nixon thắng cử nhờ vào chủ trương rút lui từ từ để giúp VNCH có sức đối đầu với BV. Tháng giêng năm 1969 nhậm chức, tháng 8 năm 1969+

Tổng Thống Nixon bay qua Sài G̣n họp với  Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập, dĩ nhiên chúng ta phải hiểu là Tổng Thống Nixon từ Washington D.C. bay qua Sài G̣n không phải để bắt tay suông, cảm ơn Tổng Thống Thiệu trong kỳ bầu cử tháng 11 năm 1968. Những ǵ 2 ông nói với nhau th́ không được công bố (mà những ǵ được công bố th́ không hẳn là những vấn đề 2 Tổng Thống đă thảo luận).

Hiện nay tại hải ngoại chỉ có 3 người biết nội dung cuộc hội nghị tay đôi đó, đó là cựu Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhă , cựu Đặc Ủy Trưởng Trung Ương T́nh Báo VNCH – Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh và cựu Thủ Tướng Chính Phủ VNCH – Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Khổ nỗi, ba nhân vật này rất kín miệng chưa bao giờ tuyên bố bất kỳ điểu ǵ cả.

Tuy nhiên, người viết hiểu ngầm rằng những vị lănh đạo của VNCH không thể  bắt buộc hay kỳ kèo với Tổng Thống Nixon phải ủng hộ VNCH chiến thắng CSVN, v́ đó là những đ̣i hỏi thiếu thực tế. Xin trích dẫn Binh Pháp Tôn Tử – Mưu Công thiên như sau:  Dụng binh chi pháp, thập tắc vi chi, ngũ tắc công chi, thiếu tắc năng đào chi, bất nhược tắc năng tị chi “.

Diễn dịch:  “Phép dụng binh căn bản là căn cứ vào t́nh h́nh ta và địch mạnh hay yếu khác nhau mà lựa chọn phương pháp khác nhau. Khi ta mạnh địch yếu th́ tập trung ưu thế binh lực bao vây, tấn công, tiêu diệt địch. Khi ta và địch xấp xỉ nhau, nên t́m cách phân tán lực lượng của địch, tấn công quyết đoán, đánh bại địch. Khi địch mạnh ta yếu, th́ tránh giao chiến, có thể chạy được th́ chạy, lựa chọn chiến thuật cơ động linh hoạt. Nếu không, hoặc là ngồi để mất thời cơ hoặc là mạo hiểm giao chiến, dẫn đến thất bại, là nguyên tắc trong chiến tranh.”.

Image result for VNCH năm 1974

Quân đội VNCH 1974

Tháng 6 năm 1973, Quốc Hội HK do Đảng Dân Chủ nắm đa số đă ra Đao Luật giảm thiểu 50% viện trợ cho VNCH trong năm 1974 và cắt 100% viện trợ vào năm 1975 để chấm dứt chiến tranh VN. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các vị lănh đạo VNCH không thể ra lệnh cho Quân Lực VNCH quyết chiến đấu v́ vũ khí đạn được chỉ đủ để chiến đấu cho đến tháng 6/1975, lại càng không thể ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng đầu hàng. Cho nên quân dân VNCH đă chứng kiến là Tổng Thống Thiệu đă phải ra lệnh lui quân , trước hết là lui quân khỏi vùng 2 chiến thuật, rồi vùng 1 chiến thuật…Các vị đă ở lại cho đến lúc không thể ở lại được nữa ,không phải v́ “tham quyền cố vị” như bọn VC và “bọn lủng lắng đứng giữa” ồn ào tuyên truyền mà là ở lại để lèo lái  con thuyền VNCH trong t́nh thế ít tổn hại nhất. Thí dụ chứng minh:

Sư Đoàn 18BB chịu trách nhiệm chận đứng Cộng Quân tại phía Long Khánh – Biên Ḥa – Phước Tuy, Sư đoàn 25BB chịu trách nhiệm vùng Tây Ninh – Hậu Nghĩa – Long An, Sư Đoàn 5BB chịu trách nhiệm vùng Lai Khê – B́nh Dương và một phần của Biên Ḥa với mục đích để  các cơ quan quan trọng của chính phủ VNCH và Hoa Kỳ có đủ thời gian  xuống tàu Hải Quân ra khơi cũng như lên phi cơ bay ra Hạm Đội 7 ngoài Biển Đông.

Tin t́nh báo cho biết Lê Đức Thọ chỉ huy 4 -5 sư đoàn Cộng Quân bao vây  và tiêu diệt toàn bộ Sư Đoàn 18 BB để tiến về Sài G̣n “bắt sống” Đại Sứ Graham Martin. Lúc đó Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng ra lệnh cho Bộ Tư Lệnh Không Quân đem 2 quả bom CBU ra thả tại Xuân Lộc sau khi ban mật lệnh Giờ N tất cả các đơn vị chiến đấu tại mặt trận Xuân Lộc đồng loạt rút ra khơi vùng này. Không ai rơ Cộng Quân bị giết hại bao nhiêu người, nhưng Đài Phát Thanh Hà Nội la chói lói là Mỹ sử dụng BOM NGUYÊN TỬ CỠ NHỎ (thực ra đây chỉ là loại bom đốt cháy không khí trong ṿng 30 phút, số người chết v́ thiếu oxygen quá lâu, chứ không phải bom nguyên tử v́ nếu bom nguyên tử th́ phải có “phóng xạ” ).

Trung Tướng Đồng Văn Khuyên được Bộ Tư Lệnh Không Quân báo cáo thành tích qua không ảnh chụp sau khi bom nổ , khi chiếc phi cơ trinh thám đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Nu – Trưởng Pḥng 7 Bộ TTM và  chừng 2-3 Đại Tá đă gỡ cả camera cũng như tháo films lên một chiếc máy bay khác rời Sài G̣n ít lâu sau đó. Áy náy v́ nhiệm vụ mà phải giết quá nhiều Cộng quân, sau này khi định cư tại Virginia, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên “tu tại gia” và luôn luôn ăn chay trường +  cầu nguyện cho đến khi qua đời cách nay vài năm. Xin cầu chúc cho Trung Tướng Đồng Văn Khuyên được an nghỉ ở bên kia thế giới.

Bác sĩ Trần Kim Tuyến – người được mệnh danh là Ông Trùm T́nh Báo của nền đệ nhất Cộng Ḥa, đồng thời cũng là 1 trong 2 sáng lập viên của Đảng Cần Lao (người kia là ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu) đă nêu nhận xét trong buổi phỏng vấn hiếm hoi trong cuộc đời chính trị của ông (nhà báo Nguyễn Hoài Vân đă phỏng vấn Bác Sĩ Tuyến vào khoảng năm 1999 – 2000, trước khi Bác Sĩ Tuyến qua đời ít lâu). Người viết xin trích lại một phần những ghi chép của nhà báo Nguyễn Hoài Vân như sau:

…”Người Cộng Sản đi theo tŕnh tự Có Ư Thức Hệ rồi mới có Chủ Thuyết, sau đó mới có Đảng, rồi Đảng đấu tranh mới có Chính Quyền. Như thế phẩm chất của Đảng trên phương diện đấu tranh rất cao, v́ phải có phẩm chất cao, Đảng mới lấy được Chính Quyền

Tiến tŕnh này cũng khiến cho Chính Quyền bị lung lay th́ Đảng vẫn c̣n đó, khi Đảng sụp đổ th́ Chủ Thuyết vẫn hiện hữu và nếu Chủ Thuyết bị sứt mẻ, th́ Ư Thức Hệ vẫn tồn tại.

Ư Thức Hệ là điều rất khó xóa đi trong đầu óc con người, nên cho dù có mất cả Chủ Thuyết, người ta vẫn có thể dựng lại từ đầu tức là từ Ư Thức Hệ (hết trich). 

Image result for BS Trần Kim Tuyến

Những nhận định của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến nếu ứng dụng vào t́nh h́nh chính trị tại Hoa Kỳ trong khoảng 40 năm trở lại đây th́ quả là đúng y boong 100%: do điều kiện sinh hoạt chính tri không thuận lợi, mặc dù được phép sinh hoạt, nhưng Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ cứ èo uột,như Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ không có tiền để thuê trụ sở và thuê mướn nhân viên, có muốn ra ứng cử cũng chẳng có tiền thuê quảng cáo trên báo chí hay đài truyền thanh – truyền h́nh. Chủ thuyết Cộng Sản hoàn toàn tan vỡ từ 1992, sau khi Liên Sô và khối Đông  tan vỡ nhưng Ư Thức Hệ rất khó xóa nḥa trong đầu óc con người cho nên Ư Thức Hệ sống lại qua nhóm tả phái của Đảng Dân Chủ như nhóm của Sanders, của Barack Obama, của Hillary Clinton, của Pelosi…

Cuộc bầu cử 2016 vừa qua, Donald Trump thắng cử sít sao nhờ các tiểu bang nhỏ có nhiều thành phần “bảo thủ”, cho nên trong 2 năm đầu của nhiệm kỳ 1 ông Trump phải ra  tay “clean up” các tay chân của nhóm tả phái và những con người không đảng phái nhưng bị nhuộm màu XHCN. Có thắng lợi ban đầu nhưng đó không phải là chuyện dễ dàng. Cầu xin Thượng Đế ban cho ông nhiều sức khỏe, trí óc minh mẫn và nhất là “không biết sợ những mồm loa mép giải của khối thiểu số lúc nào cũng ồn ào và huyên náo” (chỉ nên tin vào những dữ kiện thống kê đáng tin cậy, không nên tin vào những thống kê giả hiệu).

Đối đầu hữu hiệu với Ư Thức Hệ XHCN là Ư Thức Hệ Quôc Gia  mà h́nh ảnh rơ rệt nhất của Ư Thức Hệ Quốc Gia là lời kêu gọi của ông Trump: Làm Cho Nước Mỹ Vĩ Đại Trở Lại – Mỹ Nhất – Nhất Mỹ.

Năm 1864, Tổng Thống Abraham Lincoln trong bài diễn văn đọc tại Gettysburg có đề xướng một quan niệm được coi là khuôn vàng thước ngọc cho nền chính tri dân chủ: “…chính quyền phải DO DÂN – BỞI DÂN và V̀ DÂN. Cá nhân người viết và thân hữu ủng hộ ông Trump không phải v́ ông là tỷ phú, không phải v́ ông là cựu tài tử màn bạc điện ảnh hay v́ ông Trump ăn nói bộc trực nhưng chân thành…

Chúng tôi ủng hộ ông Trump v́ tất cả lời nói cũng như việc làm của ông đều LÀM LỢI CHO QUỐC GIA HOA KỲ – BỞI QUỐC GIA HOA KỲ và V̀ QUỐC GIA HOA KỲ.

Khai bút đầu năm tại San José, ngày 10 tháng 1 năm 2019

Trần Trung Chính  

Trở lại