Ư
thức mới trong chiến tranh QC tại VN 1954-75
Trần Trung Chính |
Dữ kiện và
sự kiện trong văn chương cũng như trong
triết học th́ không mới lạ, nhưng cái nh́n
và quan điểm của tác giả PHẠM CÔNG
THIỆN th́ quả đúng là mới lạ. Mượn
ư của triết gia Phạm Công Thiện, người
viết đặt tiêu đề của bài viết này
là Ư
THỨC MỚI TRONG CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI
VIỆT NAM 1954 – 1975 để tŕnh bày
quan điểm mới lạ về chiến tranh
Việt Nam thời kỳ 1954 -1975 (dĩ nhiên chỉ
mới lạ về cách diễn giải các sự
kiện mà các nhà nghiên cứu cũng như các tướng
lănh của VNCH và HK đă đề cập sau này). Trận
giao chiến giữa quân đội viễn chinh Pháp
tại secteur Vĩnh Yên năm 1952 (do Đại Tá
Vanuxem chỉ huy) và quân Việt Minh (do đích thân Vơ
Nguyên Giáp chỉ huy) đă không hoàn toàn thuận
lợi cho Việt Minh mặc dù quân số và hỏa
lực áp đảo. Phía VM cũng áp dụng chiến
thuật công đồn đả viện (chận đứng
mọi phía tiếp viện của binh lực Pháp), nhưng
Thống Tướng De Lattre de Tassigni sử dụng không
quân bỏ bom napalm khiến quân VM tổn thất nhân
mạng quá nặng, Vơ Nguyên Giáp phải bỏ dở
cuộc tấn công và rút quân VM qua bên kia biên giới
Hoa Việt. Trận
Điện Biên Phủ năm 1954 cũng vậy, ban
đầu Vơ Nguyên Giáp nghe theo lời chỉ đạo
của Lă Quư Ba và Vi Nhất Thanh áp dụng chiến
thuật “biển người”, nhưng Bộ Tư
Lệnh của Pháp đem tiểu đoàn 5 Nhảy Dù
nhấy xuống Điện Biên Phủ tái chiếm
lại cứ điểm “Béatrice” và
“Gabrielle” (dĩ nhiên quân Việt Minh tổn thất
nặng) khiến Vơ Nguyên Giáp bỏ chiến
thuật “biển người” thay vào đó áp
dụng chiến thuật “bao vây và ngăn chận
tiếp tế “ cho quân trú pḥng. Kết quả là
Tướng De Castries ra lệnh cho toàn thể căn
cứ Điện Biên Phủ ngưng chiến đấu.
2 h́nh ảnh được lưu giữ: 1.
Tướng De Castries bước ra
khỏi hầm chỉ huy không có dơ 2 tay lên đầu
hàng như lời Việt Cộng tuyên truyền là
đă “bắt sống ” Tướng De Casries (hay Tướng
De Castries “đầu hàng” quân Việt Minh). 2.
Một binh sĩ của Việt Minh (v́ có
đội nón cối) cầm cờ trắng chạy lên
cắm trên nóc hầm chỉ huy của căn cứ
Điện Biên Phủ chứ không phải cờ
trắng đầu hàng do quân đội Pháp tự
cắm. Ghi chú:
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu Tá Bigard làm
Tiểu Đoàn Trưởng có thuộc cấp đa
số là người Việt Nam , trong đó có Trung Úy
Phạm Văn Phú làm Đại Đội Trưởng.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù có khoảng 500 – 600 người
chiếm lại cứ điểm Beatrice và Gabrielle v́ quân
Việt Minh cũng bị bom napalm như ở secteur
Vĩnh Yên 2 năm trước đó. Khi căn cứ
Điện Biên Phủ bị xiết ṿng vây th́ chính
phủ Bidault sụp đổ, lên thay thế là Mendes
France giữ chức Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng
của chính phủ Pháp. Tướng
Navarre ra lệnh cho Tướng De Castries cố thủ
để tân chính phủ có giải pháp chính trị
cho toàn thể Đông Dương, nhưng không tăng
viện bằng quân số mà chỉ thả dù tiếp
tế (khổ nỗi quân trú pḥng chỉ nhận
được khoảng 20%, c̣n 80% bay lạc sang phía VM
). Ông biện luận đằng nào cũng thua, có
tiếp viện thêm lính chiến đấu vào cứ
điểm pḥng thủ đi nữa cũng là
chuyện vô ích. Rạng
sáng ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève
1954 được hoàn tất (nhưng vẫn đề
ngày 20 tháng 7 năm 1954) với ranh giới phân chia
tại sông Bến Hải – vĩ tuyến 17, nhưng
không có chữ kư của đại diện chính
phủ Quốc Gia Việt Nam và trong văn bản chính
thức của Hiệp Định Đ́nh Chiến cũng
không có quy định Hiệp Thương Thống
Nhất 2 miền Nam Bắc Việt Nam vào năm 1956, nghĩa
là Hiệp Định Genève 1954 thuần túy chỉ
đề cập đến vấn đề “đ́nh
chiến” giữa quân đội viễn chinh Pháp và quân
đội Việt Minh Cộng Sản, không hề đề
cập đến tương lai chính trị của 2
miền Nam – Bắc. Trong
bài viết này, người viết không lập lại
những diễn tiến của trận Điện Biên
Phủ cũng như những thảo luận giằng
co giữa 2 phía Pháp và Việt Minh về vấn đề
ranh giới chia cắt, nhưng người viết
đưa ra những nhận định mới (nhưng
không lạ v́ người viết căn cứ vào nhưng
thực tế đă xảy ra) : §
Thực tế thứ nhất: sau
khi Mao Trạch Đông chiến thắng ở Hoa Lục
năm 1949, chiến trường Đông Dương sôi
động ngay mà phần ưu thế nghiêng về phía
Việt Minh v́ Mao chỉ thị cho Hồng Quân Trung Hoa
giúp đỡ cho quân Việt Minh tối đa về vũ
khí, lương thực, nhân sự…Quân đội Pháp
bị thua tại các vùng tiếp cận với lănh
thổ Trung Hoa như Cao Bằng , Lạng Sơn, Bắc
Cạn, Hà Giang, Đông Triều (Hải Dương và
Quảng Ninh) khiến chính phủ Pháp phải cử
Thống Tướng De Lattre De Tassigni sang làm Tư
Lệnh Đạo Quân Viễn Chinh của Pháp tại
Đông Dương và tăng quân số lên tới
220,000 người. §
Thực tế thứ nh́:
mặc dù đẩy lui được quân Việt Minh
qua bên kia biên giới Hoa – Việt vào cuối năm
1952, nhưng Thống Tướng De Lattre De Tassigni
biết rằng nước Pháp không đủ Tài Chánh,
không đủ Nhân Lực…để theo đuổi
cuộc chiến lâu dài tại Đông Dương nên
ông được chính phủ Pháp ủy nhiệm sang
Hoa Kỳ cầu viện với Tổng Thống
Eisenhower vừa mới đắc cử. Theo nhận
định riêng của người viết, chuyến công
du Hoa Kỳ của Thống Tướng De Lattre De Tassigni
thành công mỹ măn : cả 2 nước Pháp và Hoa
kỳ đă “toa rập” với nhau một cách
chặt chẽ để chận đứng LÀN SÓNG
ĐỎ tại vùng Đông Nam Á Châu mà người
ta chỉ thấy mặt nổi của sự toa rập
này qua sự kiện Hoa Kỳ đồng ư viện
trợ quân trang + quân dụng cũng như vũ khí
+ đạn dược cho đạo quân viễn chinh
220,000 người của Pháp chiến đấu
tại chiến trường Đông Dương. §
Thực tế thứ ba: trước cao
trào trao trả độc lập cho các thuộc địa
[mà Anh Quốc dẫn đầu đă trao trả độc
lập cho Ấn Độ, Pakistan và Ceyland (Tích Lan – tên
cũ của Sri Lanka) vào năm 1947] , nước Pháp
sẽ rời bỏ Đông Dương là điều
đương nhiên phải xảy ra. Nhưng vào lúc nào?
Dĩ nhiên nước Pháp muốn rút ra khỏi Đông
Dương càng sớm càng tốt, phía Hoa Kỳ cho hay
chính phủ Hoa Kỳ có giải pháp chính trị cho
Việt Nam, để Việt Minh Cộng Sản
chiếm giữ miền Bắc tiếp cận với
Trung Cộng, Hoa Kỳ sẽ ủng hộ cho một chính
quyền người QG tại miền Nam. Vai tṛ chính
yếu của đạo quân viễn chinh Pháp là đánh
cho quân Việt Minh bị “nhừ tử” không c̣n
khả năng xâm lăng miền Nam trong ṿng 5-10 năm.
Bù lại chính phủ Hoa Kỳ sẽ viện trợ tái
thiết cho nước Pháp qua chương tŕnh Marshall. §
Thực tế thứ tư: Thống
Tướng De Lattre De Tassigni từ Hoa Kỳ trở
lại Đông Dương được một gian
ngắn, rồi ông phải trở về Pháp để
điều trị bệnh ung thư rồi chết
tại quê nhà. Thay thế ông là Đại Tướng
Raoul Salan – là người đă sang Đông Dương
từ 1924 khi c̣n là Trung Úy. Kế hoạch điều
nghiên để thiết lập căn cứ Điện
Biên Phủ bắt đầu từ thời Đại
Tướng Salan làm Tư Lệnh thay thế cho
Thống Tướng De Lattre De Tassigni. Tới năm 1953
ông hồi hưu v́ đă có trên 30 năm công vụ và
Trung Tướng Navarre sang Đông Dương thay
thế, Trung Tướng Navarre hoàn thiện và Quốc
Hội Pháp thông qua ngân sách để xây dựng căn
cứ này. Số quân trú đóng tại căn cứ
Điện Biên Phủ lên tới 16,000 người và
Đại Tá De Castries làm Chỉ Huy Trưởng. Khi VM
bắt đầu tấn công tấn công căn cứ
Điện Biên Phủ, để khích lệ tinh
thần chiến đấu, Bộ Tư Lệnh Pháp
vinh thăng Đại Tá De Castries lên cấp bậc
Thiếu Tướng 2 sao (quân đội Pháp không có
cấp bậc Chuẩn Tướng 01 sao) , nhưng dù
thả 2 sao xuống căn cứ Điện Biên
Phủ lại bay sang phía VM khiến nhiều người
tin rằng đây là điềm gở báo trước
rằng Tướng De Castries sẽ bị VM bắt
giữ sau này. §
Thực tế thứ năm:
Sau khi ngưng bắn, kiểm điểm lại th́
biết rằng Tướng De Castries bị bắt cùng
với khoảng 8,000 binh sĩ (khoảng 50% số quân
nhân tham chiến bị tử trận). Rất nhiều
nhà báo, b́nh luận gia cũng như binh gia và các
học giả về quân sự đă nêu ra những
khiếm khuyết và lỗi lầm của các Tướng
lănh Pháp, có người c̣n cho rằng Trung Tướng
Navarre là Tướng về T́nh Báo không đủ kinh
nghiệm thực tế trên chiến trường. Nhưng
tất cả những lời phê b́nh ấy đều
không có giá trị v́ không ai biết những “toa
rập” của Thống Tướng De Lattre De Tassigni
với Tổng Thống Eisenhower, đó là căn cứ
Điện Biên Phủ được thành lập
giống như “cục đường” nhằm thu hút
bầy kiến là quân Việt Minh Cộng Sản.
Một thực tế khác mà người ta không chú ư,
đó là VNCH được yên ổn 5 năm để
xây dưng đất nước (từ 1955 đến
1960) không phải v́ Hồ chí Minh và Vơ Nguyên Giáp có
thiện chí ḥa b́nh, mà là v́ số tổn thất sau
trận Điện Biên Phủ quá lớn nên binh
lực của miền Bắc không thể mở một
trận chiến mới để nuốt trọn
miền Nam được. §
Thực tế thứ sáu: về mặt
tuyên truyền Bắc Việt thổi phồng chiến
thắng Điện Biên Phủ khiến toàn thế dân
chúng miền Bắc và một phần dân chúng miền
Nam bị lừa bịp mà cứ tưởng VC là
thần thánh. Thực tế là VC “có tiếng” mà không
“có miếng”, trong khi quân đội viễn chinh Pháp
tuần tự xuống tàu trở về Pháp mà nước
Pháp được hưởng vài tỷ dollars viện
trợ phục hồi kinh tế. Thời điểm
1960- nghĩa là 6 năm sau khi chiến tranh Đông Dương
kết thúc, nước Pháp đă trở lại vị
trí cường quốc kinh tế, trong khi cùng thời
điểm 1960 BV vẫn c̣n phải ăn bám Liên Sô và
Trung Cộng! Một câu hỏi khác
rất quan trọng mà tất cả người
Việt Nam (kể cả mấy tên chóp bu VC như HCM, Lê
Duẩn, Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp, Lê Đức
Thọ…) vẫn c̣n thắc mắc và cũng chưa t́m
được lời giải thích thỏa đáng:
“Tại sao trong giai đoạn 1955 đến 1960,
chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ VNCH cũng
như ủng hộ Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm tối đ , vậy mà sau năm 1960 chính
phủ Hoa Kỳ thay đổi thái độ ứng
xử và sau khi Đại Sứ Cabot Lodge đến
nhận nhiệm sở vào ngày 21 tháng 8 năm 1963 chính
Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n đă
đứng đằng sau cuộc đảo chánh ngày 1
tháng 11 năm 1963 dẫn đến cái chết đầy
nghi vấn của 2 anh em Tổng Thống NĐDiệm và
ông Cố Vấn NĐNhu. Trở lại phần
đầu của bài viết này, người viết
xin lập lại mục tiêu của chính phủ HK khi
đề xướng giải pháp chính trị cho
cuộc chiến Đông Dương 1946 – 1954 là chính
phủ HK ủng hộ và giúp đỡ cho chính
quyền miền Nam để ngăn chận Làn Sóng
Đỏ. Thực hiện mục tiêu chính trị đó,
chính Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă tiếp
kiến Sir Robert Thompson tại Dinh Gia Long vào năm 1959,
hiển nhiên khi thành lập quốc sách Ấp Chiến
Lược, ông Ngô Đ́nh Nhu đă bàn luận và tham
khảo nhiều kinh nghiệm của Robert Thompson đă
thực thi thành công tại Malaysia. Khi Hồ Chí Minh cho thành
lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngay
tại Hà Nội vào năm 1960 và đă cắt cử
Đoàn 66 lên đường sang Lào trước đó
một thời gian ngắn, T́nh Báo Chiến Lược
của HK đă dự đoán được ư định
và khả năng của HCM và Đảng CSVN như sau: 1.
Từ bỏ chiến tranh du kích mà bước
thằng qua chiến tranh xâm lược kiểu vận
động chiến mặc dù vẫn ḷe bịp thiên
hạ dưới chiêu bài chiến tranh nổi dậy (Đoàn
66 là đơn vị Công Binh đặc biệt đi
mở xa lộ Trường Sơn chạy từ
Quảng B́nh qua Lào rồi hướng về phía Nam
song song với đường biên giới Lào Việt
sau đó vượt qua biên giới Lào – Cambodia, xa
lộ Trường Sơn chạy song song với biên
giới Việt – Cambodia măi tới Phước Long
mới sử dụng đường lộ của
Cambodia. Xa lộ Trường Sơn là tên gọi sau
1975, trước đó, VC bịp bợm vẫn dùng tên
là “Đường Ṃn HCM”, khôi hài ở chỗ
đường ṃn mà có xe tải và chiến xa
chạy cả trăm chiếc.) B.Khối Cộng
Sản qua 2 tên đầu sỏ là Liên Sô và Trung
Cộng chi viện tối đa về quân cụ, vũ
khí, lương thục, nhiên liệu, chiến xa,
hỏa tiễn cầm tay và hỏa tiễn pḥng không…cho
BV. Các chiến lược
gia của Hoa Kỳ xét rằng VNCH không thể thắng
VC được v́ 3 nguyên do: I.- NGUYÊN DO THỨ
NHẤT: về mặt địa lư, phía Tây
của VNCH có dăy Trường Sơn dài mấy ngàn
kilometers, VC sử dụng dăy Trường Sơn qua
Đường Ṃn HCM để đem quân và chiến
cụ vào miền Nam dễ dàng, bọn VC có thể
tấn công bất cứ chỗ nào mà chúng muốn.
Sir Robert Thompson thắng được Mă Cộng v́ bán
đảo Malaysia có 3 mặt là biển, đường
bộ chỉ chung với Thailand một đoạn
ngắn, Cộng Sản Quốc Tế có muốn
tiếp viện cho Mă Cộng cũng không thể
thực hiện được. Nam Hàn cũng vậy, 3
mặt là biển, Bắc Hàn không thể ném du kích và
đặc công xâm nhập qua đường
biển được, c̣n đường bộ,
chỉ duy nhất ở vĩ tuyến 38, đă có 35,000
quân nhân của HK trấn đóng. II.- NGUYÊN DO THỨ HAI:
Bắc Việt có những lănh tụ bất nhân và
tàn bạo, chúng dám hy sinh đến người dân
cuối cùng để thực hiện lư tưởng
Cộng Sản điên khùng của chúng bất chấp
đến đau đớn mất mát rên siết
của dân chúng. III.- NGUYÊN DO THỨ BA:
dân chúng Bắc Viêt bị bưng bít và nhồi
sọ đă trở thành những con cừu bảo ǵ
nghe nấy , không c̣n trí phán đoán cá nhân. C̣n
giới trí thức tinh hoa của đất nước
th́ phần lớn đă bỏ chạy vào Nam năm
1954, số c̣n lại nhân cách đă mất chỉ
đóng vai “nâng bi, bợ dĩa” là giỏi, chả làm
nên cơm cháo ǵ hết. Đối phó với sự xâm
lược của CSBV, Hoa Kỳ chủ trương: Đem quân lực Hoa
Kỳ đổ bộ vào miền Nam làm “mồi”
để các lănh tụ BV xua đại quân vào Nam dưới
chiêu bài “đánh
đuổi quân xâm lược Mỹ”. Dùng hỏa lực tiêu
diệt quân lính BV, tức là tiêu diệt tiềm
lực chiến tranh của BV trên đất của VNCH
mà không mang tiếng là đi xâm lăng một quốc
gia khác (nên nhớ là sau Hiệp Định Genève 1954,
BV có danh xưng là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Nam
Việt Nam có danh xưng là Việt Nam Cộng Ḥa). Khi quân lính bị tiêu
diệt gần hết tức là tiềm lực
chiến tranh không c̣n th́ cuộc xâm lăng của BV
sẽ tàn lụi dần. Như chúng ta đă
biết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hoàn toàn
chống lại chủ trương nói trên của Hoa
Kỳ, ông cho rằng: §
Hoa Kỳ đem quân vào VN, sự
chống Cộng của VNCH sẽ mất chính nghĩa. §
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nghĩ
rằng HCM cũng là người VN, ông cố gắng
tiếp xúc và thuyết phục BV để tránh
chiến tranh xảy ra ở VN. §
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nghĩ
đến giao t́nh của ông với Tổng Thống
Eisenhower và ông nghĩ rằng có ông hiện hữu trong
chính trường sẽ cản trở được
chiến tranh giữa HK và BV. Người
viết hiểu tại sao chính phủ Hoa Kỳ thay
đổi chính sách tại VN sau khi HCM thành lập MTGPMN
và ra lệnh cho Đoàn 66 khai mở Đường Ṃn
Hồ Chí Minh . Người viết trích dẫn trong Tôn
Tử Binh Pháp – Hư Thực thiên, nguyên văn như
sau: “Binh vô
thường thế, thủy vô thường h́nh, năng
nhân địch biến hóa , nhi
thủ thắng giả, vị chi thần ”.
Tôn Tử cho rằng, t́nh thế trên chiến trường
thay đổi khôn lường, không nên câu nệ vào
bất cứ một h́nh thức tác chiến nào, cũng
giống như nước – vốn không có h́nh thái
cố định, rót vào b́nh tṛn th́ nước h́nh
tṛn, vào b́nh vuông th́ nước h́nh vuông, người
biết dựa vào thay đổi t́nh h́nh địch mà
giành chiến thắng th́ gọi là thần vậy. Trường
hợp Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm rơ ràng ông quá câu nệ
vào mô thức ẤP CHIẾN LƯỢC của ông
trong khi HCM và Đảng CSVN đă thay đổi
biến hóa thế trận, thành thử chính phủ Hoa
Kỳ lại thấy chính Tổng Thống Diệm là
“kỳ đà cản mũi” trong đối sách
của họ với CSBV. Và khi ông không chịu thay
đổi th́ họ tổ chức đảo chánh
lật đổ ông là điều tất nhiên.
Những lư do như cá nhân Tổng Thống Diệm cai
trị đất nước theo phương pháp gia
đ́nh tri, thành phần Công Giáo được ưu
đăi hơn thành phần Phật Giáo trong quân đội
và chính quyền, viên chức hành chánh tham nhũng…chỉ
là những lư do nhỏ nhoi so với đại
cuộc, chỉ để khich động quần chúng
b́nh dân mà thôi. Dẫn chứng: những thành phần
tổ chức cuộc đảo chính đều là các
tướng lănh hay hoặc các giới chức có liên
quan đến quốc pḥng kể cả những người
được coi là thân tín ruột thịt như
Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm- Tham Mưu Trưởng
Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu, Thiếu Tướng
Tôn Thất Đính- đương kim Tư Lệnh quân
đoàn III, ông Nguyễn Đ́nh Thuần- Bộ Trưởng
phụ tá Quốc Pḥng của Tổng Thống Diệm.
Đại Tá Đỗ Mậu – Giám Đốc Nha An
Ninh Quân Đội v.v… Ghi chú:
tôi không tin vào luận cứ buộc tội của ông
Lữ Giang khi ông cho rằng v́ ham tiền của Lucien
Conin mà các tướng lănh yham gia đảo chánh và
giết Tổng Thống Diệm. Mặc dù sau đảo
chánh, trùm T́nh Báo của CIA có đem tiền đến
Bộ Tổng Tham Mưu đưa cho Trung Tướng
Trần Văn Đôn để chia cho các tướng có
công, nhưng đó không phải là lư do chính đáng
để các tướng lănh tham gia đảo chánh. Lư
do chính đáng là họ thấy Tổng Thống
Diệm c̣n tại vị sẽ làm hỏng kế
hoạch chống Cộng của Hoa Kỳ. Ông Lữ
Giang và những cá nhân bênh vực chính phủ Ngô Đ́nh
Diệm theo cảm tính, đă có thái độ “mục hạ vô nhân” quá
đáng, ông Lữ Giang không nghĩ rằng nếu ông
Ngô Đ́nh Nhu phá vỡ được kế hoạch
đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 th́ cũng có vài
ông tướng bị tử h́nh, một số ông
sẽ vào tù ngồi, c̣n một số ít leo lên máy bay
thoát qua Nam Vang hay Thái Lan, th́ làm ǵ có chuyện tham gia
đảo chính v́ lănh tiền thưởng của CIA
(giống như những tên giết mướn của
xă hội đen). Không một ông tướng nào
lại ngu si dại dột đem sinh mạng của chính
ḿnh cũng như sinh mạng của thân nhân của ḿnh
ra trao đổi với số “tiền thưởng”
của Trùm CIA tại Sài G̣n. Đó cũng chính là nhân
dân VNCH thấy không có bất cứ một ông Tướng
nào trả lời “đôi co” với ông Lữ Giang,
không phải v́ ông lập luận buộc tội
họ quá giỏi, mà chỉ v́ ông Lữ Giang không
biết cái ǵ cả (hoặc giả những cái mà ông
tự cho là “biết” th́ nó lại không ăn
nhập ǵ với công việc các ông Tướng đă
làm). C̣n
chuyện Tổng Thống Diệm bị giết th́ rơ
ràng là lỗi của Tổng Thống Diệm, qua tài liệu đă giải
mật của Bộ Ngoại Giao HK (do ông Lâm Lễ
Trinh cung cấp) sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, từ nhà
của ông Mă Tuyên, Tổng Thống Diệm có nói
chuyện điện thoại với Đại Sứ
Cabot Lodge trong đó Đại Sứ Lodge dặn: “… nếu cần
chuyến bay rời khỏi VN, xin Tổng Thống
gọi cho tôi, những chuyện khác xin đừng
gọi”. Sau đó, Tổng
Thống Diệm gọi vào Bộ Tổng Tham Mưu th́
coi như sinh mạng của ông đă chấm dứt.
Thật đáng tiếc v́ Tổng Thống Diệm
bị giết chết là do sự vô minh của chính ông. Sang
năm 1964, t́nh h́nh chính
trị tại Thủ Đô Sài G̣n cứ rối beng như
mớ ḅng bong, cách vài tháng lại có “chỉnh lư”,
“đảo chính”, “biểu dương lực lượng”,
“sinh viên học sinh xuống đường biểu t́nh
chống quân phiệt”, “Phật tử xuống
đường bảo vệ chánh pháp”, “giáo dân
xuống đường bảo vệ giáo xứ” (các
giáo xứ có không gian rất rộng, không ai biết
giới hạn địa lư. Thí dụ minh họa, giáo
dân vùng Hố Nai, Gia Kiệm, Túc Trưng …xuống Sài
G̣n bảo vệ cho giáo xứ Tân Sa Châu trên đường
Trương Minh Giảng, hay bảo vệ cho Ṭa
Tổng Giám Mục Địa Phận Sài G̣n- nằm trên
đường Phan Đ́nh Phùng quận 3). Ngay chính 2 ông
giám đốc Đài Phát Thanh Sàig̣n và Đài Phát
Thanh Quân Đội cũng chưa biết phe nào
chống phe nào, nên khi thấy lính tráng kéo vào trụ
sở Đài Phát Thanh, 2 ông cho chạy tape nhạc hùng
thâu sẵn là dân Sài G̣n biết có biến động
chính trị. Phía
chính giới và dân chúng VNCH lo âu v́ tương lai không
biết đi về đâu, c̣n phía Bắc Việt và
VC th́ ăn mừng hí hửng (chắc là họ ca vang câu
hát Thời cơ đến rồi! Thời cơ đến
rồi! Trong các buổi họp mật của
Bộ Chính Trị Đảng CSVN tại Hà Nội, các
ông bà “cơ hội chủ nghĩa” th́ nhảy múa hét
ḥ chỉ sợ chính phủ mới không mời tham chính.
Ít nhất dân chúng VN thấy ông Đại Sứ Cabot
Lodge trở đi trở lại Sài G̣n đến 2-3
lần, rồi ông về Mỹ nghỉ hưu hẳn
hoi vào cuối năm 1964 và Thống Tướng hồi
hưu Maxwell Taylor- nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Tham Mưu
Hỗn Hợp của QĐ Hoa Kỳ sang Sài G̣n làm
Đại Sứ Hoa Kỳ. Ngày 16 tháng 2 năm 1965, Bác
Sĩ Phan Huy Quát thành lập chính phủ (số
Tổng Bộ Trưởng chưa đầy đủ)
th́ Trung Tướng Dương Văn Đức và
Thiếu Tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Sài G̣n
“mưu toan đảo chính”. Sau 3 ngày, không có giao
tranh và không có đổ máu, 2 ông Tướng lui binh và
tuyên bố là “chúng tôi chỉ BIỂU DƯƠNG
LỰC LƯỢNG”. Chả lẽ 2 ông Tướng VNCH làm tṛ trẻ
con như vậy hay sao? Sau
này chính Tướng Lâm Văn
Phát tâm sự với người thân cận là phía
Hoa Kỳ nhờ ông kéo binh đội về Sài G̣n
với mục đích làm áp lực để Chính
Phủ Phan Huy Quát tống xuất Đại Tướng
Nguyễn Khánh đi lưu vong (chính Thủ Tướng
Phan Huy Quát kư Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm Đại
Tướng Nguyễn Khánh làm Đại Sứ Lưu
Động – nghĩa là go around nhưng có paycheck đàng
hoàng). Mục tiêu kế tiếp là cách chức 2 đàn
em thân tín của Đại Tướng Nguyễn Khánh
là Đại Tá Cao Văn Chính đang giữ chức Giám
Đốc Nha An Ninh Quân Đội và Trung Tá Lê Văn
Nhiều đang giữ chức Cục Trưởng
Cục Trung Ương T́nh Báo. Do sự tiến cử
của Trung Tá Phạm Văn Liễu – đương
kim Tổng Giám Đốc CSQG, Thủ Tướng Phan
Huy Quát bổ nhiệm Đại Tá Nguyễn Ngọc
Loan – nguyên Tư Lệnh Phó Không Quân, thay thế Đại
Tá Cao Văn Chính trong chức vụ Giám Đốc Nha
An Quân Đội kiêm nhiệm luôn Cục Trưởng
Cục Trung Ương T́nh báo thay thế Trung Tá Lê Văn
Nhiều. Ghi chú:
thời điểm Thiếu Tướng Lâm Văn Phát
tiết lộ về sự thực của CUỘC
BIỂU DƯƠNG LỰC LƯỢNG diễn ra vào ngày
19 tháng 2 năm 1965 tại Sài G̣n là vào khoảng trước
năm 2000 trong khu chung cư mobile home gần building Phước
Lộc Thọ thành phố Westminster – Orange County Nam Cali. Năm
1964 xảy ra vụ tàu
MADDOX bị “tàu lạ” pháo kích tại Vịnh
Bắc Việt và dư luận chính trị tại Sài
G̣n đồn đoán là quân đội Mỹ sẽ vào
Nam VN (người viết gọi là “tàu lạ” v́
cả BV lẫn Trung Cộng không ai lên tiếng ǵ
hết). Thống Tướng hồi hưu Maxwell
Taylor sang Sài G̣n làm Đại Sứ càng làm gia tăng
phỏng đoán từ 50% vọt lên 90%. Ít lâu sau khi lên làm
Thủ Tướng, Bác Sĩ Phan Huy Quát viết văn
thư mời quân đội HK vào Nam VN để
chống lại quân đội BV xâm lược. (Năm 2012, khi đến
San José tham dự buổi ra mắt sách NH̀N LẠI
SỬ VIỆT – tập 3 của Tiến Sĩ Lê
Mạnh Hùng, người viết có hỏi cựu
Tổng Trưởng Thông Tin Hoàng Đức Nhă về
việc Bác Sĩ Phan Huy Quát kư văn thư trước
hay sau khi quân đội Mỹ vào VN? Ông
Hoàng Đức Nhă cho hay là văn thư của Bác Sĩ
Phan Huy Quát được viết sau khi TQLC Hoa Kỳ
đă đổ bộ lên băi biển Chu Lai được
48 tiếng đồng hồ.) Năm 1988,
khi c̣n trong trại tỵ nạn Phanat Nikhom, Luật Sư
Nguyễn Hữu Hiệu nhắc lại kư ức
của ḿnh đă nói chuyện với ông Trần
Quốc Bửu tại thời điểm 1965:…Luật
Sư Hiệu “ngờ ngợ” về vai tṛ của
Thống Tướng hồi hưu Maxwell Taylor
giống như Toàn Quyền Đông Dương D’
Argenlieu hồi 1945 -1946 và Toàn Quyền Đông Dương
De Lattre De Tassigni hồi 1952 vậy. Biểu lộ sự
“đồng t́nh”, ông Trần Quốc Bửu nói: “đíều
động hơn 500,000 quân nhân phải là một Đại
Tướng đă từng nắm giữ chức vụ
Chủ Tịch Ban Tham Mưu Hỗn Hợp hay ít
nhất đă từng là Tham Mưu Trưởng Liên Quân,
chớ c̣n mấy ông Ngoại Giao chuyên nghiệp
thuần túy th́ làm sao điều động
nổi”. Hoa
Kỳ có khoảng 01 triệu quân, năm 1944 khi Âu Châu
c̣n nằm trong tay quân Đức Quốc Xă, Đại
Tướng Eisenhower đă chỉ huy khoảng 200,000
quân để giải phóng Âu Châu. Chiến trường
Á Châu, Đại Tướng
Mac Arthur cũng chỉ huy khoảng 200,000
quân nhân để đánh tan quân đội Nhật
Bản. Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 Đại Tướng
Mac Arthur cũng chỉ huy 280,000 quân của LHQ (trong đó
HK chiếm 250,000 người) để chận đứng
quân của Bắc Hàn và 01 triệu chí nguyện quân
của Trung Cộng do nguyên
soái Bành Đức Hoài chỉ huy. Nam VN đầu năm
1965, t́nh h́nh chưa đến nỗi nào, vậy
tại sao chính phủ HK phải sử dụng đến
550,000 quân? (chưa
kể 50,000 quân nhân của Đại Hàn Dân Quốc,
12,000 quân nhân trong Sư Đoàn Bộ Binh Măng Xà Vương
– King Cobra của Thái Lan, hơn 5,000 quân nhân của liên
quân Australia – New Zealand và 2,000 binh sĩ không tác
chiến của Philippines). Luật
Sư Nguyễn Hữu Hiệu th́ phỏng đoán
rằng quân đội HK tự động đổ quân
vào VN (dù chưa có lời mời của Chính Phủ
VNCH) là do mục đích khác chứ không phải là
chống quân CSBV. Luật Sư Hiệu cho rằng
chính phủ HK đem hơn nửa triệu quân sang VN là
chuẩn bị để ứng phó với t́nh h́nh càng
ngày càng xấu đi tại Indonesia (đó là do
Tổng Thống Soekarno dung dưỡng cho phe
Cộng Sản thân Mao lộng hành). Lời phỏng
đoán của Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu
gần như trở thành lời tiên tri khi chỉ ít lâu
sau đó bên Indonesia xảy ra biến động
lớn khiến cho Tướng Suharto lên nắm
quyền với sự đoạn giao với chính
quyền Bắc Kinh đi kèm với sự tàn sát hơn
nửa triệu đảng viên Đảng Cộng
Sản chỉ trong ṿng 01 tuần lễ. Mục
tiêu chính đă giải quyết xong, Thống Tướng
hồi hưu Maxwell Taylor trở về Mỹ và ông
Elsworth Bunker – một viên chức thâm niên của
Bộ Ngoại Giao HK sang VN làm Đại Sứ từ
1967. Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu cũng cho
rằng HCM và Ban Lănh Đạo của CSBV bị HK
lừa (mà không biết). Luật Sư Hiệu dẫn
chứng: Dẫn chứng thứ nhất:
lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm
rồi tạo ra t́nh cảnh chính tri hỗn độn
bát nháo như thực tế đă thấy các tướng
lănh VNCH tranh giành quyền lực, nên quân BV ồ
ạt vào Nam trong cuối năm 1963, 1964, 1965,1966…để
“cướp chính
quyền“ kẻo lỡ thời cơ.
Sau đảo chánh 1963 Dẫn chứng thứ hai:
HK không trang bị vũ khí hiện đại cho QL/VNCH
(mà QL/VNCH vẫn sử dụng vũ khí có từ
thời đệ nhị Thế Chiến). Tin t́nh báo
của HK th́ dư biết quân BV trang bị vũ khi
hiện đại hơn như AK47, súng phóng hỏa
tiễn B- 40 và B – 41, đại liên 12 ly 8 , trung liên
RPD, hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay AT3, đại
liên pḥng không, cao xạ pḥng không 37 ly. Chính sự trang
bị yếu kém về hỏa lực của QL/VNCH
mới thôi thúc cấp lănh đạo của BV mau mau
xua đại quân vào Nam giành chiến thắng! Dẫn chứng thứ ba:
đại quân của BV vào Nam bao nhiêu th́ bị
hỏa lực của HK và VNCH giết gần hết. Hàng
rào điện tử Mac Namara dựng lên từ 1964
chỉ là những sensors ghi nhận sinh vật đi qua
lại, các tín hiệu được chạy về
Trung Tâm Dữ Liệu, rồi được chuyển
qua Trung Tâm Khai Thác Dữ Liệu, Headquarter của MACV
tại Sàig̣n mới lập kế hoạch Hành Quân ghi
rơ chi tiết như nơi chốn, thời điểm
hành sự và cường độ sử dụng vũ
khi. Sau 30 tháng 4 năm 1975, dân chúng miền Bắc
mới biết là có những trận mưa bom xóa
sạch các đơn vị xâm nhập, nhưng báo chí
và các nhà viết sử không ai được đọc
các báo cáo của Trung Tâm Dữ Liệu, Trung Tâm Khai Thác
Dữ Liệu và Kế hoạch hành quân: HK không bao
giờ công bố các tài liệu này v́ lư do nhân đạo
(Nhà văn Dương Thu Hương ước tính
Bắc Việt có từ 3 đến 5 triệu tử sĩ,
người viết lấy số 3 triệu nhỏ
nhất so với dân số BV vào lúc 1975 là 25 triệu,
tính ra là hỏa lực của Hoa Kỳ đă diệt
12% dân số của BV, cho nên không công bố các dữ
liệu có sẵn là vấn đề nhân đạo ).
Mặt khác, nếu có được đọc th́ cũng
không có dữ liệu ghi nhận số người
đi trở ra Bắc, mà chỉ có dữ liệu
số người từ Bắc vào Nam theo từng
thời điểm khác nhau. Dẫn chứng thứ tư:
quen tính ba hoa phét lác, bọn CSBV lớn lối cho
rằng BV đă chiến thắng 2 tên đế
quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ, tự khen ḿnh có
chiến thắng thần thánh (người vô thần mà
cứ đem thần thánh ra làm định mức
tuyệt hảo, trông có vẻ chương chướng
làm sao!). Chiến thắng thần thánh v́ BV không có
thương binh và phế binh sau 1975. Hoa Kỳ và VNCH có
phương tiện tải thương nhanh, có máu khô,
có thuốc men dồi dào, có bác sĩ và y tá cứu thương
tŕnh độ tay nghề cao, vậy mà số thương
binh đă lên tới nửa triệu người. BV không
có thấy thương phế binh trên đường
phố th́ đúng là “thần thánh” chứ c̣n là ǵ
bây giờ.
VC bị VNCH bắt khoảng 1965 Vấn
đề chính của 500.000 quân nhân Hoa Kỳ vào VN vào
năm 1965 là dự pḥng cho trường hợp xấu
nhất ở Indonesia, nhưng giải pháp của T́nh Báo
Hoa Kỳ giúp Tướng Suharto tiêu diệt sạch
sẽ Đảng CS Indonesia và bọn Maoists, cho nên
việc hồi hương 500,000 quân nhân HK về nước
phải là điều tất yếu (vấn đề
tài chánh là chính, ngân sách làm sao chi phí cho nửa
triệu quân mà đi cà nhỏng không làm ǵ cả).
Tổng Thống Johnson và Bộ Trưởng Mac Namara
“bỏ chạy” để lại “gánh nặng” cho
Phó Tổng Thống Humphrey và ứng cử viên Richard
Nixon giải quyết. Trung
Ương T́nh Báo Hải Ngoại của VNCH cho hay là
nếu đắc cử, ông Humphrey và Đảng Dân
Chủ sẽ bắt buộc Tổng Thống Thiệu
“liên hiệp với VC” rồi đơn phương
rút quân vô điều kiện. Do
đó,Tổng Thống Thiệu giúp đỡ ứng
cử viên Nixon đắc cử bằng cách chinh
phủ VNCH không tham dự Ḥa Đàm Paris (sau Tết
Mậu Thân). Ứng cử viên Nixon thắng cử
nhờ vào chủ trương rút lui từ từ để
giúp VNCH có sức đối đầu với BV. Tháng
giêng năm 1969 nhậm chức, tháng 8 năm 1969+ Tổng
Thống Nixon bay qua Sài G̣n họp với Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc
Lập, dĩ nhiên chúng ta phải hiểu là Tổng
Thống Nixon từ Washington D.C. bay qua Sài G̣n không
phải để bắt tay suông, cảm ơn Tổng
Thống Thiệu trong kỳ bầu cử tháng 11 năm
1968. Những ǵ 2 ông nói với nhau th́ không được
công bố (mà những ǵ được công bố th́
không hẳn là những vấn đề 2 Tổng
Thống đă thảo luận). Hiện
nay tại hải ngoại chỉ có 3 người
biết nội dung cuộc hội nghị tay đôi
đó, đó là cựu Tổng Trưởng Hoàng Đức
Nhă , cựu Đặc Ủy Trưởng Trung
Ương T́nh Báo VNCH – Thiếu Tướng Nguyễn
Khắc B́nh và cựu Thủ Tướng Chính Phủ
VNCH – Đại Tướng Trần Thiện Khiêm.
Khổ nỗi, ba nhân vật này rất kín miệng chưa
bao giờ tuyên bố bất kỳ điểu ǵ
cả. Tuy
nhiên, người viết hiểu ngầm rằng
những vị lănh đạo của VNCH không thể
bắt buộc hay kỳ kèo với Tổng Thống
Nixon phải ủng hộ VNCH chiến thắng CSVN, v́
đó là những đ̣i hỏi thiếu thực
tế. Xin trích dẫn Binh Pháp Tôn Tử – Mưu Công
thiên như sau: “Dụng binh chi pháp, thập
tắc vi chi, ngũ tắc công chi, thiếu tắc năng
đào chi, bất nhược tắc năng tị chi “. Diễn
dịch: “Phép dụng binh căn bản là căn cứ vào
t́nh h́nh ta và địch mạnh hay yếu khác nhau mà
lựa chọn phương pháp khác nhau. Khi ta mạnh
địch yếu th́ tập trung ưu thế binh
lực bao vây, tấn công, tiêu diệt địch. Khi
ta và địch xấp xỉ nhau, nên t́m cách phân tán
lực lượng của địch, tấn công
quyết đoán, đánh bại địch. Khi địch
mạnh ta yếu, th́ tránh giao chiến, có thể
chạy được th́ chạy, lựa chọn
chiến thuật cơ động linh hoạt. Nếu
không, hoặc là ngồi để mất thời cơ
hoặc là mạo hiểm giao chiến, dẫn đến
thất bại, là nguyên tắc trong chiến tranh.”.
Quân đội VNCH 1974 Tháng
6 năm 1973, Quốc Hội HK do Đảng Dân Chủ
nắm đa số đă ra Đao Luật giảm
thiểu 50% viện trợ cho VNCH trong năm 1974 và
cắt 100% viện trợ vào năm 1975 để
chấm dứt chiến tranh VN. Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu và các vị lănh đạo
VNCH không thể ra lệnh cho Quân Lực VNCH quyết
chiến đấu v́ vũ khí đạn được
chỉ đủ để chiến đấu cho đến
tháng 6/1975, lại càng không thể ra lệnh cho quân
đội VNCH buông súng đầu hàng. Cho nên quân dân
VNCH đă chứng kiến là Tổng Thống Thiệu
đă phải ra lệnh lui quân , trước hết là
lui quân khỏi vùng 2 chiến thuật, rồi vùng 1
chiến thuật…Các vị đă ở lại cho
đến lúc không thể ở lại được
nữa ,không phải v́ “tham quyền cố vị” như
bọn VC và “bọn lủng lắng đứng giữa” ồn
ào tuyên truyền mà là ở lại để lèo lái
con thuyền VNCH trong t́nh thế ít tổn hại
nhất. Thí dụ chứng minh: Sư
Đoàn 18BB chịu trách nhiệm chận đứng
Cộng Quân tại phía Long Khánh – Biên Ḥa – Phước
Tuy, Sư đoàn 25BB chịu trách nhiệm vùng Tây Ninh
– Hậu Nghĩa – Long An, Sư Đoàn 5BB chịu trách
nhiệm vùng Lai Khê – B́nh Dương và một
phần của Biên Ḥa với mục đích để
các cơ quan quan trọng của chính phủ VNCH và Hoa
Kỳ có đủ thời gian xuống tàu Hải
Quân ra khơi cũng như lên phi cơ bay ra Hạm
Đội 7 ngoài Biển Đông. Tin
t́nh báo cho biết Lê Đức Thọ chỉ huy 4 -5 sư
đoàn Cộng Quân bao vây và tiêu diệt toàn
bộ Sư Đoàn 18 BB để tiến về Sài G̣n
“bắt sống” Đại Sứ Graham Martin. Lúc
đó Trung Tướng Đồng Văn Khuyên là
Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng ra lệnh cho
Bộ Tư Lệnh Không Quân đem 2 quả bom CBU ra
thả tại Xuân Lộc sau khi ban mật lệnh
Giờ N tất cả các đơn vị chiến
đấu tại mặt trận Xuân Lộc đồng
loạt rút ra khơi vùng này. Không ai rơ Cộng Quân bị
giết hại bao nhiêu người, nhưng Đài Phát
Thanh Hà Nội la chói lói là Mỹ sử dụng BOM NGUYÊN
TỬ CỠ NHỎ (thực ra đây chỉ là
loại bom đốt cháy không khí trong ṿng 30 phút,
số người chết v́ thiếu oxygen quá lâu,
chứ không phải bom nguyên tử v́ nếu bom nguyên
tử th́ phải có “phóng xạ” ). Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên được
Bộ Tư Lệnh Không Quân báo cáo thành tích qua không
ảnh chụp sau khi bom nổ , khi chiếc phi cơ
trinh thám đáp xuống phi trường Tân Sơn
Nhứt, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Nu – Trưởng
Pḥng 7 Bộ TTM và chừng 2-3 Đại Tá đă
gỡ cả camera cũng như tháo films lên một
chiếc máy bay khác rời Sài G̣n ít lâu sau đó. Áy náy
v́ nhiệm vụ mà phải giết quá nhiều
Cộng quân, sau này khi định cư tại Virginia,
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên “tu tại
gia” và luôn luôn ăn chay trường + cầu nguyện
cho đến khi qua đời cách nay vài năm. Xin
cầu chúc cho Trung Tướng Đồng Văn Khuyên
được an nghỉ ở bên kia thế giới. Bác
sĩ Trần Kim Tuyến – người được
mệnh danh là Ông Trùm T́nh Báo của nền đệ
nhất Cộng Ḥa, đồng thời cũng là 1 trong
2 sáng lập viên của Đảng Cần Lao (người
kia là ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu) đă nêu
nhận xét trong buổi phỏng vấn hiếm hoi trong
cuộc đời chính trị của ông (nhà báo
Nguyễn Hoài Vân đă phỏng vấn Bác Sĩ
Tuyến vào khoảng năm 1999 – 2000, trước khi Bác
Sĩ Tuyến qua đời ít lâu). Người
viết xin trích lại một phần những ghi chép
của nhà báo Nguyễn Hoài Vân như sau: …”Người Cộng Sản đi theo tŕnh
tự Có Ư Thức Hệ rồi mới có Chủ
Thuyết, sau đó mới có Đảng, rồi Đảng
đấu tranh mới có Chính Quyền. Như thế
phẩm chất của Đảng trên phương
diện đấu tranh rất cao, v́ phải có phẩm
chất cao, Đảng mới lấy được Chính
Quyền Tiến tŕnh này cũng khiến cho Chính Quyền
bị lung lay th́ Đảng vẫn c̣n đó, khi Đảng
sụp đổ th́ Chủ Thuyết vẫn hiện
hữu và nếu Chủ Thuyết bị sứt mẻ,
th́ Ư Thức Hệ vẫn tồn tại. Ư Thức Hệ là điều rất khó xóa
đi trong đầu óc con người, nên cho dù có
mất cả Chủ Thuyết, người ta vẫn có
thể dựng lại từ đầu tức là
từ Ư Thức Hệ (hết trich).
Những
nhận định của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến nếu
ứng dụng vào t́nh h́nh chính trị tại Hoa
Kỳ trong khoảng 40 năm trở lại đây th́
quả là đúng y boong 100%: do điều kiện sinh
hoạt chính tri không thuận lợi, mặc dù
được phép sinh hoạt, nhưng Đảng
Cộng Sản Hoa Kỳ cứ èo uột,như Chủ
Tịch Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ không có
tiền để thuê trụ sở và thuê mướn
nhân viên, có muốn ra ứng cử cũng chẳng có
tiền thuê quảng cáo trên báo chí hay đài truyền
thanh – truyền h́nh. Chủ thuyết Cộng Sản hoàn
toàn tan vỡ từ 1992, sau khi Liên Sô và khối Đông
 tan vỡ nhưng Ư Thức Hệ rất khó xóa nḥa
trong đầu óc con người cho nên Ư Thức
Hệ sống lại qua nhóm tả phái của Đảng
Dân Chủ như nhóm của Sanders, của Barack Obama,
của Hillary Clinton, của Pelosi… Cuộc
bầu cử 2016 vừa qua, Donald Trump thắng cử sít
sao nhờ các tiểu bang nhỏ có nhiều thành
phần “bảo thủ”, cho nên trong 2 năm đầu
của nhiệm kỳ 1 ông Trump phải ra tay “clean
up” các tay chân của nhóm tả phái và những con người
không đảng phái nhưng bị nhuộm màu XHCN. Có
thắng lợi ban đầu nhưng đó không
phải là chuyện dễ dàng. Cầu xin Thượng
Đế ban cho ông nhiều sức khỏe, trí óc minh
mẫn và nhất là “không biết sợ những
mồm loa mép giải của khối thiểu số lúc
nào cũng ồn ào và huyên náo” (chỉ nên tin vào
những dữ kiện thống kê đáng tin cậy, không
nên tin vào những thống kê giả hiệu). Đối
đầu hữu hiệu với Ư Thức Hệ XHCN là
Ư Thức Hệ Quôc Gia mà h́nh ảnh rơ rệt
nhất của Ư Thức Hệ Quốc Gia là lời kêu
gọi của ông Trump: Làm Cho Nước Mỹ Vĩ
Đại Trở Lại – Mỹ Nhất – Nhất
Mỹ. Năm
1864, Tổng Thống Abraham Lincoln trong bài diễn văn
đọc tại Gettysburg có đề xướng
một quan niệm được coi là khuôn vàng thước
ngọc cho nền chính tri dân chủ: “…chính
quyền phải DO DÂN – BỞI DÂN và V̀ DÂN. Cá nhân người
viết và thân hữu ủng hộ ông Trump không
phải v́ ông là tỷ phú, không phải v́ ông là
cựu tài tử màn bạc điện ảnh hay v́ ông
Trump ăn nói bộc trực nhưng chân thành… Chúng
tôi ủng hộ ông Trump v́ tất cả lời nói cũng
như việc làm của ông đều LÀM LỢI CHO
QUỐC GIA HOA KỲ – BỞI QUỐC GIA HOA KỲ và V̀
QUỐC GIA HOA KỲ. Khai
bút đầu năm tại San José, ngày 10 tháng 1 năm
2019 Trần Trung Chính |