Năm 1966,
khi đọc trong Đại Nam Chính Biên Liệt
Truyện, Đại Nam Nhất Thống Chí viết
về “Ngụy Tây Sơn,” có nhiều nghi vấn
trong những trận đánh giữa Vua Quang Trung và Vua
Gia Long tại rừng U Minh, tôi nảy ra ư xuống vùng
tận cùng của đất nước này t́m
hiểu thêm. Bấy giờ đang xảy ra vụ
biến động tại miền Trung “các thầy
mang bàn thờ xuống đường,” chiến
cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động,
mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối
v́ đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực
Lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số
tử vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi.
Cụ nói:
– Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn
tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng
lầy Cà Mâu.
Tôi nhất quyết đi, bà má má khóc khốn khổ,
nhưng cũng không cản được cái tính phiêu
lưu và mê sưu tầm của tôi. Nhưng làm
thế nào để có thể vào được
tất cả những làng, những xă, mà không gặp
trở ngại? Làm sao có phương tiện di
chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông
bố tôi đă kiếm cho tôi cái giấy giới
thiệu của tuần báo trung lập lớn nhất
ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới
thiệu của tờ nhật báo Hoa Văn tại Hương
Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành kư giả
bất đắc dĩ. Tôi đến Bộ Tư
Lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự
chiến trường ở Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi
chỉ mong t́m hiểu lịch sử, chứ nào có
chủ tâm làm kư giả!
Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động
về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đă
viết rất nhiều bài kư sự chiến trường,
đăng trên một số báo ngoại quốc.
Khởi đầu, uất hận trước cái
chết của một cô bạn gái tên Đặng
Thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm
nữ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn tại Kinh Tắc
Vân, Cà Mâu, tôi viết bài “Giang Biên Hoa Lạc” gây xúc
động mạnh cho độc giả Hương
Cảng và giới Hoa kiều tại Việt Nam. Sau tôi
có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là
“Hoa rơi trên bờ sông Tắc Vân.” Tôi gởi bài
này dự thi giải kư sự chiến trường
của cục Tâm Lư Chiến năm 1967. Bài của tôi
được giải nh́. Giải nhất về Trang
Châu cũng là một bài kư sự của y sĩ
tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với
tôi: “Về nội dung, bài của cháu với Trang Châu
cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi
trẻ quên ḿnh cho quê hương. Nhưng bài của
Trang Châu trung thực, c̣n bài của cháu th́ ướt
át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự
thật.”
Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi
viết về Hồ Ngọc Cẩn trong bài “Ngũ
Hổ U Minh Thượng” kể chuyện năm
tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có
máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái,
tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ
hổ là:
– Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 1/33
– Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
– Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 2/31
– Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
– Đại Úy Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 3/33
Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tôi tới Phi Trường Vĩnh
Lợi bằng phi cơ Caribu của quân đội Hoa
Kỳ. Người đón tôi là Thiếu Tá Raider
của Cố Vấn Đoàn 42. Tại bản doanh
của Cố Vấn Đoàn 42, Đại Tá Cố
Vấn Trưởng Hataway không biết ǵ về chủ
đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn
cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo
cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc
trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm kư giả. Ông cho
tôi biết t́nh h́nh địch rất chi tiết.
Về t́nh h́nh của quân đội Việt Nam tại
năm tỉnh tận cùng của đất nước,
ông nói:
“Khu 41 Chiến Thuật, do Sư Đoàn 21 của Quân
Đoàn IV trấn nhậm, Sư Đoàn có ba trung đoàn
mang số 31, 32, 33. Trung Đoàn 31 đóng tại Chương
Thiện. Trung Đoàn 32 đóng tại Cà Mâu. Trung Đoàn
33 đóng tại Ba Xuyên. Ngoài ra c̣n có hai tiểu đoàn
Biệt Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu Đoàn
42 đóng tại Bạc Liêu. Tiểu Đoàn 44 đóng
tại Ba Xuyên.” Ông ca tụng quân đội Việt
Nam như sau: “Lương bổng cho người lính
Việt Nam, chỉ gọi là tạm đủ ăn.
Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng
họ chiến đấu như đoàn sư tử.
Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn.
Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua
những cái đó.”
Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn.
Tôi được gởi theo Tiểu Đoàn 42 BĐQ.
Tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Lưu
Trọng Kiệt. Tiểu đoàn phó là Trung Úy Hồ
Ngọc Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối
với cố vấn Mỹ th́ tôi là kư giả. C̣n
Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ
t́nh nguyện ra mặt trận. Tiểu Đoàn
được đặt làm trừ bị tại Phi Trường
Vĩnh Lợi từ bảy giờ sáng, chuẩn bị
nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhẩy, th́
Tiểu Đoàn sẽ nhẩy làm hai cánh: Cánh thứ
nhất gồm có hai đại đội 1, 2 do Hồ
Ngọc Cẩn chỉ huy. Cánh thứ hai gồm có hai
đại đội 3 và 4 do Thiếu Tá Lưu
Trọng Kiệt chỉ huy. Tôi và Kiệt, Cẩn ngang
ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người
tập vơ, coi trời bằng vung, lại cũng có
học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ
dàng. Đại Úy cố vấn tiểu đoàn
muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:
– Lần đầu tiên ra trận, ông có sợ không?
Tôi trả lời như những nhân vật trong
lịch sử Việt Nam:
– Tráng sĩ khi ra trận, không chết th́ cũng
bị thương. Nếu sợ chết th́ đừng
ra trận.
Cẩn hỏi tôi đă học quân sự chưa? Tôi
đáp:
– Kiến thức về quân sự của tôi chỉ
bằng phó binh nh́ thôi. Nhưng cũng biết ḅ,
biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh
nhau bằng súng th́ tôi dở ẹt, nhưng đánh
cận chiến th́ tôi có hạng, v́ tôi là ông thầy
dạy vơ…
Tôi hỏi Kiệt:
– Trong hai cánh th́ cánh nào có hy vọng được
đánh nhau nhiều hơn?
Kiệt chỉ Cẩn:
– Anh cứ nhảy theo thằng này th́ sẽ toại
nguyện. Tha hồ mà hành nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt
phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy
đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi
chỉ có bộ đồ giải phẫu dă chiến.
Khoảng 10 giờ th́ có lệnh: Một đơn
vị địa phương quân chạm địch
tại Vĩnh Châu. Địch là Tiểu Đoàn Cơ
Động Sóc Trăng. Tiểu đoàn phải nhảy
trực thăng vận đánh vào hông địch.
Địa điểm nhảy là một khu đồng
lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan tóm lược
vắn tắt nhiệm vụ, t́nh h́nh trong mười
phút, Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại
đội đă lên trực thăng từ bao giờ.
Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi
lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực
thăng bay khoảng mươi phút, th́ Cẩn chỉ vào
một khu làng mạc trước mặt:
– Ḱa, chỗ chúng ḿnh đáp ḱa.
Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái, hơn hai
trăm người từ trực thăng lao ra. Một
cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên: Những
người lính dàn thành một hàng ngang. Họ núp vào
những bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng,
mắt đăm đăm nh́n về trước.
Đó là một làng, lưa thưa mấy chục ngôi
nhà, cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng
bắn ra, nhưng những người lính ấy
vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nh́n
một lượt, các sĩ quan, người th́
nằm, người th́ quỳ, cũng có người
đứng. Từ lúc nhẩy xuống, Cẩn không
hề nằm quỳ, mà đứng quan sát trận ḿnh,
quan sát trận địch. Một là điếc không
sợ sấm, hai là tự tin vào số tử vi của
ḿnh thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nh́ đă
nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn
xong, th́ sĩ quan đề lô xin pháo binh nă vào
những chỗ có ổ moọc chê, đại liên,
trung liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm
con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn vừa xung phong vào
trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn
cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước,
bụi, nước bắn tung. Hàng quân tới bờ
ruộng cuối cùng, cách b́a làng không đầy năm
mươi thước th́ súng nhỏ từ trong
mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài sau các
bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan đề lô
trúng đạn lật ngược. Tôi chạy lại
cấp cứu th́ không kịp, viên đạn xuyên qua
sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu.
Trực thăng vơ trang được gọi đến.
Cố vấn Mỹ báo về Trung Tâm Hành Quân. Cố
vấn tại Trung Tâm Hành Quân ra lệnh cho phi công
trực thăng nă xuống địa điểm có
địch quân. Tôi đứng cạnh Cẩn tại
một mô đất. Cẩn không trực tiếp
cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại
đội, trung đội qua hiệu thính viên. Sau khi
trực thăng vơ trang nă ba loạt rocket, đại liên
th́ lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn
reo lên như sóng biển, rồi người người
rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười
phút sau, tiếng súng im hẳn.
Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù
binh bị thương nặng được băng bó,
cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y
viện. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy những binh
sĩ bị thương khá nặng, khi nghe tôi nói
rằng nếu họ muốn, tôi có thể gắp
đạn, may các vết thương đó cho họ mà
không phải về quân y viện. Họ từ chối
đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp
họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm
việc hơn một giờ đồng hồ mới
xong. Tôi hỏi Cẩn:
– Tôi tưởng, thương binh được
về quân y viện chữa trị là điều
họ mong muốn mới phải. Tại sao họ
muốn ở lại?
– Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi
sống với nhau, kề cận cái chết với
nhau, th́ xa nhau là điều buồn khổ vô cùng.
Đấy chúng nó bị thương như vậy
đấy, lát nữa anh thấy chúng chống gậy
đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị
kiến cắn.
Tôi đi một ṿng thăm trận địa. Hơn
hai trăm xác chết, mặc áo ba ba đen, quần
đùi. Những xác chết đó, gương mặt c̣n
non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến
20, xác th́ nằm vắt vẻo trên bờ kinh, xác th́
bị cháy đen, xác th́ mất đầu, cũng có xác
nằm chết trong hầm. Không biết trong khi họ
phơi xác ở đây, th́ cha mẹ, anh em, vợ con
họ có biết không?
Sau trận đó th́ Cẩn được thăng
cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ
biệt Tiểu Đoàn 42 BĐQ đi làm Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 thuộc Sư
Đoàn 21 Bộ Binh. Việc đầu tiên của
Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư
đoàn cho tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan
xuất thân trường Thiếu Sinh Quân về
chiến đấu cùng với ḿnh. Cẩn đă
được thỏa măn một phần yêu cầu. Tôi
hỏi Cẩn:
– Anh đem các cựu TSQ về với mục đích
ǵ?
– Một là để dễ sai. Tất cả bọn
TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn
em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà
chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó
được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi,
để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ
mà quân trường không dạy. Hai là, truyền
thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết
chứ không lùi, v́ vậy cần phải có một
số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới
đă. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.
Suốt năm 1967, Cẩn với Tiểu Đoàn 1/33
tung hoành trên khắp lănh thổ năm tỉnh Hậu
Giang, khi Đại Ngăi, khi Tắc Vân, khi Kiên Hưng,
khi Thác Lác, khi Cờ Đỏ. Thời gian này, tôi
bắt đầu viết lịch sử tiểu
thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục Thao,
Tam Lược, Tôn Ngô binh pháp cùng binh pháp của các
danh tướng Đức, nhất là của các tướng
Hồng Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách
vở để đánh giá những trận đánh
của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng,
Cẩn không hề đọc, cũng không hề
được học tại trường sĩ quan
những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy,
cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên,
nhất là những trận đánh của Cẩn bàng
bạc xuất hiện như những lư thuyết trong
thư tịch cổ?
Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa Hè năm
1974 tại Chương Thiện. Tôi hỏi Cẩn:
– Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm
tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ
làm sư đoàn trưởng không?
– Tôi lặn lội suốt 14 năm qua, gối chưa
mỏi nhưng kiến thức có hạn. Được
chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Ḿnh phải
biết liêm sỉ chứ. Coi sư đoàn sao được?
– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm ǵ?
– Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm
rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có
chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường
Thiếu Sinh Quân hoặc coi các lớp huấn luyện
đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng,
đem những kinh nghiệm thu nhặt được
trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi
sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận
đánh mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại.
Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là ǵ?
– Cẩm nang của các đại đội trưởng,
tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống
du kích tại vùng đồng lầy.
– Nhưng liệu Bộ Quốc Pḥng có cho phép in hay không?
– Không cho in th́ ḿnh cũng cứ thuật, rồi
đem giảng dạy, ai cấm được?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi
và Cẩn. Sau khi miền Nam mất, tôi không được
tin tức của Cẩn. Măi năm 1976, tôi được
tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tướng Dương Văn
Minh ra lệnh đầu hàng th́ Hồ Ngọc Cẩn
vẫn tiếp tục chiến đấu. Các đơn
vị Cộng Sản tiến vào tiếp thu Tiểu Khu
Chương Thiện, th́ gặp sức kháng cự,
chết rất nhiều. Ông bị bắt, đưa
về Cần Thơ rồi bị đem ra xử
tử.
Khi tôi gặp Cẩn th́ tôi chưa khởi công viết
lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời
Cẩn, cuộc đời các thiếu sinh quân quanh
Cẩn, in vào tâm năo tôi rất sâu, rất đẹp.
V́ vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết,
th́ bao giờ tôi cũng khởi đầu bằng
thời thơ ấu của những nhân vật chính.
Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra
trận th́ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.
Có rất nhiều người đặt câu hỏi:
Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn
chỉ học đến đệ ngũ, tôi được
học ở nhà, ở trường đến tŕnh
độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là
người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư
sĩ Phật Giáo. Tôi th́ sống trong sách vở, hay
đi trên mây, Cẩn th́ lăn lộn với thực
tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn th́
nổi danh tửu lượng tại Sư Đoàn 21
Bộ Binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay
run lẩy bẩy, Cẩn th́ dửng dưng. Thế mà
khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến
độ giăi bày cho nhau tất cả những tâm
sự thầm kín nhất, không một người
thứ nh́ biết được. Tại sao? Cho đến
nay, tôi mới trả lời được rằng:
Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là
những h́nh bóng thật, rất quen thuộc mà trước
kia tôi chỉ thấy trong lịch sử, nay được
gặp trong thực tế.
Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai
giờ trưa, ngày 30 tháng 4, dù ở bất cứ nơi
nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ
đốt nến, đặt hoa dưới tượng
Đức Mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn
được an lành trong ṿng tay Người.
Trích trong Vài nét về một anh hùng: Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn của Yên Tử Cư Sĩ
Trần Đại Sĩ viết tại Paris ngày 30/4/1996
Hồ Ngọc Cẩn sanh ngày 24 tháng 3 năm 1938
tại Rạch Giá. Tánh t́nh hiền hậu, giản
dị, trầm tĩnh, ít nói. Ông xuất thân là
Thiếu sinh quân (Đệ Nhất Quân Khu Gia Định).
Năm 1962, ông tốt nghiệp khóa Sĩ quan Đặc
biệt với cấp bậc Chuẩn úy. Sau khi ra trường,
Hồ Ngọc Cẩn theo học khóa huấn luyện
Biệt Động Quân, rồi thuyên chuyển về
phục vụ khu 42 Chiến thuật với chức
vụ Trung đội trưởng. Lănh thổ nầy
gồm có các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương
Thiện (Vị Thanh), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Bạc Liêu và
Cà Mau (An Xuyên).
Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu
gan dạ nên ông được thăng cấp đặc
cách nhiều lần tại mặt trận lên đến
trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu
đoàn phó tiểu đoàn 42. Tới năm 1966, Đại
úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn Trưởng
Tiểu đoàn 1/33 SĐ 21 Bộ Binh, nổi tiếng là
một trong “Ngũ Hổ U Minh Thượng”.
Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn
42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn
21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn
1 tung hoành trên khắp lănh thổ năm tỉnh vùng sông
Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông
được thăng thiếu tá.
Năm 1970, ông được thăng trung tá và
rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung
đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn
9 bộ binh.
Tính đến năm 1970 Trung Tá Hồ Ngọc
Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng
nhiều huy chương nhất của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa, với 78 chiếc của gồm
1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương,
25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu,
45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3
Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa
Kỳ.
Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn
15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc.
Cuối năm 1973, lúc mới 35 tuổi, Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn trở về chiến trường
śnh lầy với chức vụ tỉnh trưởng,
kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương
Thiện. Đó là chức vụ trọng yếu và
hết sức khó khăn, khó có ai đảm
đương nổi v́ tỉnh Chương Thiện,
một tỉnh có địa h́nh phức tạp
nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái
gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng
trong lănh thổ, từ đó quân Bắc Việt và
Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá
lớn, uy hiếp các quận xă hẻo lánh.
Đại Tá Cẩn là vị tỉnh trưởng
trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Ḥa.
Trong thời gian làm tỉnh trưởng Chương
Thiện, ông chẳng những là một nhà quân sự
xuất chúng, mà c̣n là một nhà cai trị và b́nh
định tài ba.
Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có
thể kể được hết, suốt một
đời tận tụy với nước non, danh
tiếng lừng lẫy và nắm giữ những
chức vụ khó khăn, mà vẫn khiêm nhường
hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh
liêm.
Vào thời khắc tang thương 30/4/1975 của
đất nước, khi Dương Văn Minh ra
lệnh buông súng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng
các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các
chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đă
đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng
lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa. Đánh tới viên đạn và
giọt máu cuối cùng. Cuộc chiến đấu kéo
dài đến 11 giờ trưa ngày 1/5/1975, quân ta không c̣n
ǵ để bắn nữa, Đại Tá Cẩn
lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi giặc Cộng
chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương
Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị
Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ
quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một
chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ
chỉa khẩu K54 vào đầu Đại Tá Cẩn
dữ dằn gằn giọng: “Anh Cẩn, tội anh
đáng chết v́ những ǵ anh đă gây ra cho chúng tôi”.
Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả
lời.
Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà,
nhưng Đại Tá Cẩn th́ địch áp giải
sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày
sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng
bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn.
Để làm nhục và hành hạ tinh thần người
dũng tướng, giặc cho phá hủy nhà cầu
trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng
nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng
bắt Đại Tá Cẩn cùng một người
nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người
bị làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng.
Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hăy
để cho mọi người làm công tác công
bằng, nhưng giặc Cộng vẫn nhất
quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Ông
chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc
của ḿnh.
Ngày 14/8/1975, người dân thủ phủ Cần Thơ
chứng kiến giây phút ĺa đời cao cả
của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Ông
bị giặc Cộng xử tử.
Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân
trả thù nên bà đă đem cậu con trai duy nhất
của ông bà là Hồ Ngọc Nguyên, lúc ấy
được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu
và thay đổi lư lịch nhiều lần. Đầu
năm 1979 bà Cẩn cùng con trai liều chết vượt
biển, đến được đảo Bidong
thuộc Mă Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại
Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn
Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng
ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản
bắn chết tại Việt Nam.
|