Vai
Tṛ của Chính Quyền và một số Luật
Lệ KS Nguyễn Văn Phảy |
-
Đến 30 tháng tư năm 1975: Ông Nguyễn văn
Phảy là cựu Sĩ quan Hải quân, Quân lực
VNCH. Vai
Tṛ của Chính Quyền và một số Luật
Lệ Cần
Thiết trong Phát Triển Kinh Tế Dẫn
nhập: Vào
cuối thế kỹ 20 và đầu thế kỹ 21,
trên thế giới có nhiều thay đổi định
chế chính trị cũng như mô h́nh kinh tế.
Trong những năm 1989 hệ thống xă hội
chủ nghĩa ở đông Âu sụp đổ. Năm
1991 Liên bang Sô Viết cũng phải bị giải tán.
Cuối năm 2010 và đầu năm 2011 một
số quốc gia ở Bắc Phi người dân đă
vùng lên làm cách mạng và giải thể chế độ
độc tài như ở Ai Cập, Tunesien. Các nước
khác như Lybia, Yemen, Bahrain, đang trong t́nh trạng chính
trị bất ổn. Ngay cả đối với các
nước cọng sản như Trung cọng, Bắc
Hàn, Việt Nam, Cu Ba, sẽ không tránh khỏi. Theo như
phân tích của thế giới th́ một trong
những nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách
mạng là do nền kinh tế trong nước không
được phát triển hoặc phát triển không
đồng đều trong giai tầng xă hội. Trong
khi đó cấp lănh đạo th́ quá giàu và đầy
quyền thế. Đời sống giữa người
dân và chính quyền quá chênh lệch. Luật pháp th́
cũng do cấp lănh đạo làm ra nhưng cũng
chẳng được thi hành nghiêm chỉnh. Luật
pháp cũng chỉ nhằm bảo vệ cho giai cấp
thống trị. Xă hội băng hoại. Hối
lộ tham nhũng xảy ra ở mọi nơi, đặc
biệt trong các cơ quan công quyền. Trong
khi đó ở các quốc gia kỹ nghệ, mặc dù
cuộc sống người dân chưa được
hoàn thiện nhưng ít ra chính quyền cũng
biết lo cho dân, xây dựng nền kinh tế phát
triển, biết tôn trọng luật pháp, biết
thực hiện những chính sách khả thi, hữu ích
cho quốc gia và làm lợi cho dân chúng trong một
thể chế tự do dân chủ pháp trị. Trong
thế giới ngày nay, các quốc gia tự chọn
cho ḿnh một định chế chính trị cũng
như mô h́nh kinh tế mà quốc gia đó cho
rằng khả thi để xây dựng và phát
triển đất nước. Chúng
ta hảy thử t́m hiểu và phân tích những
yếu tố về lănh vực kinh
tế,
về khung
cảnh luật pháp và
vai
tṛ của chính quyền
trong một quốc gia quan trọng như thế nào
để phát triển nền kinh tế bền
vững, để xây dựng một đất nước
phồn vinh và giàu mạnh. 1)
Kinh tế là ǵ? Theo
định nghĩa cổ điển, kinh tế là
tập hợp của cụm từ „kinh
bang tế thế“.
Kinh bang có nghĩa là trị v́, nhà vua là thiên tử
thay trời cai trị dân, điều khiển mọi
guồng máy do vua lập ra. Ngày nay có thể nói là chính
quyền, là cơ quan hành pháp của thể chế dân
chủ cùng với cơ quan lập pháp, tư pháp
để điều hành quốc gia. „Tế
thế“ có nghĩa theo nhà Phật là tế độ,
là cứu giúp chúng sanh và lo cho mọi người có
cuộc sống ấm no hạnh phúc . Đó là trách
nhiệm của nhà vua, của chính quyền hiện
nay đối với dân chúng. Như
vậy, kinh
tế là phương tiện để nâng cao đời
sống vật chất, phú quư, góp phần cải cách
sự văn minh giữa con người với nhau. Cũng
có thể nói rằng, kinh
tế là nguồn sống, là mạch sống của
con người và nói rộng hơn nữa là biểu
hiện sức mạnh hay yếu kém của quốc
gia. Phát
triển kinh tế là quá tŕnh thay đổi và tăng
trưởng. Sản phẩm phải được
gia tăng trong một thời gian dài. Mọi lănh
vực dịch vụ phải gia tăng. Đời
sống của đại bộ phận trong dân chúng
phải tốt đẹp hơn và tiến bộ hơn.
Đồng thời phải có sự hoàn chỉnh
về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế… Nhằm
đóng góp vào sự cường thịnh của
một quốc gia, sự sung túc của người dân,
nhiều học thuyết, nhiều trường phái
kinh tế đă đề cập đến sự phát
triển kính tế như Adam Smith (1723-1790), David Ricardo
(1772-1823), John Maynard Keynes (1883-1946), Milton Friedman (1912-2006)
người Mỹ. Ricardo cho rằng các nước
đang phát triển có giàu tài nguyên th́ cho xuất
cảng nguyên liệu thô. C̣n các nước có khu
vực chế tạo như Anh quốc th́ sản
xuất hàng hoá và xuất cảng ngược trở
lại các nước đang phát triển. Như
vậy vấn
đề trao đổi nguyên vật liệu và hàng
hoá đóng vai tṛ quan trọng. Vào
đầu thế kỷ 20, nước Mỹ có đầy
đủ tài nguyên, lại vừa có khu vực
chế tạo nên đă làm cho nền kinh tế
Mỹ phát triển nhất thế giới. V́
vậy, các nước đang phát triển muốn phát
triển ngành công nghiệp trong nước th́
phải dựa vào nhu cầu trong nước. Động
lực sản xuất cho sự phát triển kinh
tế được xét đến trên 2 b́nh
diện: - B́nh
diện tư nhân:
Trên b́nh diện này phải đặc biệt quan tâm
đến lợi tức. Đó là sự chênh
lệch giữa giá thành được tính bởi lương
công nhân, phí tổn dịch vụ, phí tổn nguyên
liệu…và giá bán. - B́nh
diện quốc gia:
Làm sao cho dân giàu nước mạnh. Giải quyết
công ăn việc làm cho người dân. Ngân quỹ
quốc gia được dồi dào nhằm chi phí cho
mọi lănh vực an sinh xă hội, quốc pḥng…
Đó là sự sinh tồn của quốc gia. Tuỳ
theo định chế chính trị, những đường
lối, những phương pháp để phát
triển kinh tế được nhiều kinh tế
gia đưa ra, đề nghị và chính quyền có
thể chọn lựa và áp dụng cho quốc gia. Người
ta tạm gọi là mô
h́nh kinh tế. Hiện
nay có 2 mô h́nh chính: - Kinh
tế chỉ huy và tập trung,
c̣n gọi là kinh tế hoạch định cứng
rắn. - Kinh tế thị trường tư bản, c̣n gọi là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hoàn toàn theo định luật cung cầu. 1.a)
Kinh tế chỉ huy và tập trung:
Phiếu
đường, phiếu vải thời bao cấp. Đó
là mô h́nh kinh tế thường được áp
dụng ở chế độ cọng sản c̣n
gọi là kinh tế kế hoạch. Chủ
nghĩa cộng sản và phần lớn trường
phái chủ nghĩa xă hội công nhận quyền
sở hữu tập thể và nhà nước đối
với phương tiện sản xuất. Trước
tháng 10 năm 1917, thời Nga Hoàng, dưới chế
độ quân chủ chuyên chế nền kinh tế
quốc gia hầu hết do dân tự sản xuất và
sản phẩm sẽ được trao đổi ngoài
thị trường. Một số lảnh vực quan
trọng th́ do Nga Hoàng chỉ đạo sản
xuất để phù hợp với hoàn cảnh
của đất nước. Khi
chế độ cọng sản đuợc thiết
lập tại Liên Bang Sô Viết kể từ năm
1918 th́ mô h́nh kinh tế chỉ huy và tập trung
được áp dụng. Sau đệ nhị thế
chiến các nước đông Âu cũng rập khuôn
theo mô h́nh nầy. Các nước Trung cọng (1949),
Bắc hàn (1953), Cu Ba (1959), Việt nam (1945) ở
miền Bắc Việt nam và sau 30.4.1975 toàn nước
Việt Nam … Mô
h́nh kinh tế chỉ huy tập trung chỉ có thể
thực hiện dưới chế độ cọng
sản. Chế độ cọng sản được
h́nh thành từ một đảng duy nhất. Không có
đối lập. Không có đa nguyên trong dân chúng.
Đảng là trên hết. Đảng lập ra Nhà nước
nhằm để cai trị dân và điều hành
đất nước. Đảng lập ra Quốc
hội. Đảng lập ra cơ quan Tư pháp. Như
vậy 3 cơ quan như Lập Pháp (Quốc Hội),
Hành Pháp (Nhà nước), và Tư Pháp (Toà Án) đều
trực thuộc sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị đảng cọng sản. Bộ
chính trị đề ra mô h́nh kinh tế chỉ huy
tập trung. Trong
nền kinh tế chỉ huy và tập trung: -
Tư liệu và phương tiện sản xuất
phải được tập trung qua những tổ
chức hợp tác xă, những xí nghiệp nhà nước,
những công ty quốc doanh. -
Tất cả những công ty phải được
quốc hữu hoá, trường hợp tại
miền Nam sau 30.4.1975 -
Người dân không có quyền sở hữu mọi
tài sản. Mọi tài sản thuộc Nhà nước. -
Phương tiện, nguyên vật liệu trong sản
xuất đều do Nhà nước quản lư và
cấp phát hàng hoá và sản phẩm thu nhập
được. -
Không có thị trường tự do cạnh tranh để
tiêu thụ hàng hoá. -
Sản phẩm làm ra do nhà nước ấn định
và phân phối. -
Măi lực tiền tệ đóng vai tṛ không quan
trọng cho bằng sổ hộ khẩu, bằng
phiếu phân phối. Đất đai, nhà cửa
bất động sản th́ dùng “sổ đỏ“
. -
Trong nền kinh tế quy hoạch, các nhà làm kế
hoạch quyết định loại hàng hoá nào
sản xuất, những xí nghiệp nào sẽ sản
xuất hàng hoá. Nó lệ thuộc vào kế hoạch
và khả năng của người làm kế
hoạch. Nó đi ngược lại nền kinh
tế phi kế hoạch. Tóm
lại, nền kinh tế chỉ huy tập trung: Khuyết
điểm nhiều hơn là ưu điểm. Mô
h́nh kinh tế nầy hiện nay đă được
biến thể. Các chính quyền của các nước
cọng sản đă kư kết với doanh nhân tư
bản tây phương để có nhiều hợp
đồng sản xuất nhằm tận dụng
sức lao động công nhân bản xứ với
mức lương rất rẻ do nhà nước
cọng sản phân định. 1.b)
Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hoàn
toàn theo định luật cung cầu: Thị
trường là nơi trao đổi hàng hoá và
tiền tệ giữa người bán sản phẩm
và người mua có tiền. Số lượng hàng
hoá bán ra là cung.
Số lượng tiêu thụ của người mua
gọi là cầu.
Thị trường mua bán được tự do. Người
bán có quyền ấn định giá cả. Người
mua có quyền trả giá. Trong những siêu thị,
để giảm thiểu chi phí nhân công dịch
vụ th́ giá cả thường được
ấn định trước. Người mua thích món
hàng th́ mua, nếu không thích th́ thôi. Trong nền kinh
tế thị trường tự do cạnh tranh hoàn toàn
người ta chú ư đến „định
luật cung cầu“
nhằm mục đích ổn định nền kinh
tế và thu lợi tức tối ưu. Các
doanh nhân luôn theo dơi thị hiếu của người
tiêu thụ, nghiên cứu thị trường để
có sản phẩm thích ứng từ phẩm chất
cho tới số lượng nhằm mục đích thâu
về cho xí nghiệp ḿnh nhiều lợi nhuận. Trong
nền kinh tế thị trường, quyền
sở hữu vật chất,
sản
phẩm,
đóng vai tṛ quan trọng. Có quyền sở hữu món
hàng th́ mới có quyền ấn định giá
cả. Quyền sở hữu c̣n gọi là quyền tư
hữu xuất hiện ở dạng cá thể
hoặc tập thể. Quyền nầy phải
được luật pháp công nhận và mọi người
phải tôn trọng. Với quyền sở hữu
được bảo đảm, xí nghiệp có
thể sản xuất nhiều hay ít sản phẩm
theo ư muốn hoặc theo nhu cầu thị trường.
Giá sản phẩm lệ thuộc vào vốn đầu
tư, số lượng sản phẩm, chi phí công nhân,
dịch vụ. Theo
định
luật cung cầu
trong thị trường kinh tế tự do cạnh
tranh hoàn toàn, nếu số lượng hàng hoá
nhiều có nghĩa là cung
tăng
mà người tiêu thụ ít th́ giá sản phẩm
phải giảm để mới có thể bán đi
sản phẩm mà có tiền trả mọi chi phí
sản xuất. Khi giá sản phẩm giảm th́ không
đủ tiền để sản xuất với
số lượng sản phẩm nhiều, như
vậy cung phải giảm theo để cân bằng
thị trường tiêu thụ. Ngược
lại nếu nhu cầu của người tiêu
thụ nhiều, cầu
tăng,
mà số lượng hàng hoá ít th́ giá sản
phẩm gia tăng. Nhà sản xuất thâu lợi
nhuận nhiều hơn. Như
vậy, có 2 loại kinh tế thị trường mà
người ta thường đề cập đến
và áp dụng: 1.b.1)
Nền kinh tế thị trường thả nổi
(không có sự can thiệp của chính quyền): -
Nếu cung
> cầu:
Sẽ tạo ra sự ứ đọng hàng hoá dư
thừa, giá cả rẻ. Công nhân sản xuất
dịch vụ dư thừa, đưa đến
nạn thất nghiệp, tạo ra khủng hoảng
kinh tế. -
Nếu cung
< cầu:
Sẽ tạo ra giá cả đắt đỏ gây xáo
trộn kinh tế và đưa đến nạn
lạm phát, kéo theo khủng hoảng kinh tế. Chi phí
cho nhân công đắt. Nhưng đối với
nền kinh tế bền vững th́ sẽ tạo ra công
ăn việc làm để giảm thất nghiệp,
tăng đầu tư. -
Nếu cung
= cầu:
Nền kinh tế ổn định nhưng chưa
hẳn là kinh tế phát triển. Muốn phát
triển là phải có cạnh tranh. Cạnh tranh trong
sản xuất, phẩm chất sản phẩm và giá
cả trên thị trường thích hợp, luôn
được nghiên cứu và quan tâm của giới
đầu tư và kinh doanh. Dịch vụ quảng cáo
sản phẩm không kém phần quan trọng trong
nền kinh tết thị trường. Có như
thế mới có sự cạnh tranh của giới tiêu
thụ. 1.b.2)
Nền kinh tế thị trường phát triển (có
sự can thiệp của chính quyền): Trường
hợp điển h́nh như ở CHLB Đức. Chính
quyền đóng vai tṛ tương đối quan
trọng. Sự can thiệp nhẹ nhàng của chính
quyền trong nền kinh tế qua luật lệ đặt
căn bản trên nền tảng xă hội của
một nước tự do dân chủ. Giai tầng
trung lưu chiếm đa số. Khi
cầu
> cung:
Tiêu thụ nhiều mà hàng hoá ít sẽ đưa
đến việc khuyến khích đầu tư và
tạo công ăn việc làm. Khi
cầu
< cung:
Giá cả rẻ, giảm nhân công. Như vậy
phải t́m thị trường tiêu thụ. Khi
cầu
= cung:
Có 3 trường hợp xảy ra: a)
Kinh tế phát triển: Đó là lư tưởng, dân
giàu nước mạnh b)
Kinh tế suy bại: Đưa đến t́nh
trạng nghèo đói c)
Kinh tế trung b́nh: Dân chúng đủ ăn, đủ
mặt 1.c)
Kinh tế thị trường theo định hướng
xă hội chủ nghĩa: Đây
là một mô h́nh do đảng CSVN đẻ ra.
Nền kinh tế nầy thật sự cũng do đảng
CSVN và nhà nước cọng sản điều hành và
chỉ huy. Chỉ một số doanh nghiệp nhỏ
do tư nhân thực hiện nhưng cũng phải qua
hệ thống kiểm soát gắt gao của đảng
CSVN và cũng bị Nhà nước quản lư một
cách gián tiếp. V́ thế cho nên nền kinh tế
tại VN hiện nay đang bị lạm phát phi mă, lăi
suất gia tăng làm cho những tư doanh nhỏ phá
sản. Các chuyên gia kinh tế và cán bộ quản lư
th́ thiếu khả năng để xây dựng
nền kinh tế. Hơn nữa luật pháp dưới
chế độ cọng sản không được
áp dụng và xử lư nghiêm minh. Mọi việc đều
do đảng cọng sản với cơ quan tối
cao nhất của chế độ là Bộ Chính
Trị đảng CSVN định liệu và quyết
định. Theo
nghiên cứu của quốc tế ghi nhận rằng,
VN là một trong những nước c̣n nghèo đói
với Tổng sản lượng quốc gia tính trên
đầu người trong năm khoảng 1200$. Trong
khi đó tại Mỹ là 47.000$. 2)
Các luật lệ cần thiết trong phát triển
kinh tế: Trong
một quốc gia với thể chế chính trị
tự do dân chủ, Luật pháp đóng vai tṛ rất
quan trọng. Luật pháp là thoả ước
giữa con người với con người, cá nhân
với tập thể và cá nhân với pháp nhân và cơ
quan quyền lực. Trong phát triển kinh tế,
luật pháp chỉ đạo cho mọi hành động,
nhằm bảo đảm những phẩm giá của
con người, những sự tự do trong mọi
đàm phán, quyền b́nh đẳng và những
quyền tự do của con người. Khi luật pháp
được tôn trọng đúng mức th́ trật
tự an sinh xă hội được duy tŕ, đời
sống người dân được bảo đảm. Nói
chung, vai tṛ của luật pháp trong phát triển kinh
tế: -
Nhằm bảo đảm sự sản xuất, phát
triển kinh tế. -
Luật pháp bảo vệ quyền lợi, b́nh đẳng,
cơ hội đồng đều đóng góp của
mọi người -
Bảo vệ sản xuất: Cấm phá giá, ăn
cắp bản quyền, ăn cắp bằng sáng
chế -
Bảo vệ sản phẩm -
Bảo vệ người tiêu thụ -
Bảo vệ sản xuất. Đặc biệt là
những mặt hàng quốc pḥng, mặt hàng dành cho
quốc gia, nhu yếu phẩm… Trước
hết chúng ta hảy đề cập đến
quyền căn bản. 2.a)
Quyền căn bản: Quyền
căn bản là hạt nhân của sự tự do dân
chủ. Thật sự quyền căn bản xuất
xứ từ tài liệu quyền căn bản lâu
đời nhất trên thế giới: Đó là tài
liệu Magna
Charta Libertatum
của Anh quốc vào năm 1215 để bảo đảm
cho mọi người đang được tự do
có sự bảo vệ trước những bắt
bớ, trước sự tịch thu tài sản,
sự khinh miệt, sự đày ải hoặc
bảo đảm trước những sự thiệt
hại khác một cách độc đoán. Từ
đó quyền căn bản của con người
được phát triển liên tục qua cuộc Cách
Mạng Pháp vào năm 1789, Cách Mạng tháng 3 vào năm
1848 tại Đức hay Hiến pháp Weimarer vào năm
1919. Hiến
Pháp Weimarer là Hiến pháp đầu tiên mang lại
những quyền căn bản cho toàn nước
Đức thời bấy giờ. Những quyền căn
bản nhằm bảo đảm một phần
quyền tự do cá nhân và một phần trên
đường lối chỉ đạo tổng quát. Như
vậy quyền căn bản của con người
cần phải được bảo đảm. Nó
bao gồm nhân phẩm của con người. „ Nhân
phẩm của con người th́ bất khả xâm
phạm. Tất cả cơ quan công quyền có
nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ “
(điều 1 Hiến pháp CHLB Đức: Die Würde des
Menschen ist unantastbar. Sie
zu achten und zu schützen ist Verpflichtung aller staatlichen Gewalt). 2.b)
Một số luật lệ cần thiết: Ở
trên chúng ta đă đề cập tới một
số ư niệm về quyền căn bản của
con người mà các luật lệ liên quan tới
sự phát triển kinh tế cần phải được
minh thị và mỗi người phải tôn trọng. Đó
là những đạo luật nói về lao động,
nói về quyền tư hữu, luật thương
mại, luật thừa kế liên quan tới luật
hôn nhân cho tới luật đầu tư quốc
nội và ngoại quốc. Ở
đây chúng ta chỉ đề cập đến
những nét chính của một số đạo
luật liên quan tới việc phát triển kinh tế
chứ không thể tŕnh bày hết tất cả
những điều khoản liên quan tới bộ
luật, mà Quốc
hội Lập pháp
trong tương lai có trách nhiệm. Chúng ta cũng không
đề cập đến tất cả bộ
luật của một quốc gia. 2.b.1)
Luật lao động: Người
ta hiểu luật Lao động là tổng hợp
của tất cả những đạo luật,
những sắc luật và những định nghĩa
về quyền hạn liên quan tới lao động
để điều hoà những sự hành nghề có
tính cách kinh tế và cá nhân. Trong
lao động có những trường hợp mà chính
mỗi người lao động không thể tự
bảo vệ cho ḿnh trước sự nguy hiểm, trước
những sự tổn thuơng nhất là những
sự tổn thương về sức khoẻ. Những
quyền hạn cá nhân, chủ nhân và công nhân lao
động có thể điều hoà những mối tương
quan quyền hạn với nhau. Những
lănh vực trong lao động cần được
bảo vệ như là bảo vệ thời gian lao
động, bảo vệ sức khoẻ người
công nhân. Ở các nước tiên tiến, các hăng xưởng
nhà máy xí nghiệp đều có nghĩa vụ
thiết kế pḥng ốc máy móc dụng cụ
nhằm bảo vệ công nhân trước sự nguy
hiểm về sức khoẻ và đời sống.
Cần phải có quy định về nơi làm
việc nhiệt độ, ánh sáng, những con
đường dành cho công nhân di chuyển trong xí
nghiệp phải thích hợp. Trong
xí nghiệp lớn phải có bác sĩ hoặc chuyên
viên thuộc xí nghiệp nhằm bảo đảm an
toàn lao động khi hữu sự. Những quy định
về an toàn lao động cần phải đặt
ra. Luật
Lao động phải quy định rơ ràng trường
hợp nào th́ công nhân không đi làm việc vẫn có
tiền để sống. Ví dụ như trường
hợp nghỉ hè trong năm, nghỉ làm v́ bịnh
hoạn, nghỉ làm v́ sinh đẻ. Tại
Đức quốc có sự bảo vệ khi thông báo
nghỉ việc. Thời gian thông báo nghỉ việc
đều có giá trị cho cả chủ nhân và công
nhân. Xuyên qua sự thông báo nghỉ việc người
công nhân có thể mất chổ làm. V́ thế cho nên
phải có luật bảo vệ sự thông báo
nghỉ việc nhằm hạn chế chủ nhân gây
nhiều bất lợi cho công nhân trong lúc làm
việc. Luật
Lao động cũng ghi rơ về nghĩa vụ
của công nhân và chủ nhân. Ngoài
ra những
công đoàn
cũng được thành lập để bảo
vệ quyền lợi công nhân. 2.b.2)
Luật Tư hữu: Ư
niệm về quyền tư hữu tài sản,
gọi tắt là quyền tư sản hay là quyền
sở hữu tài sản được xem như là
quyền chiếm cứ của cá nhân vô giới
hạn. Tư sản phản nghĩa với cọng
sản, hữu sản phản nghĩa với vô
sản. Quyền
tư hữu tài sản của mọi người dân
ngay cả tài sản của chính quyền trong một
thế chế tự do dân chủ đóng vai tṛ
rất quan trọng, là nền tảng cho sự phát
triển kinh tế trong thị trường tự do
cạnh tranh. Về phía người dân, quyền tư
hữu tài sản pháp định là những chất
kích thích tố người dân hăng hái trong lao
động, thoải mái trong đời sống hàng ngày
và góp phần đắc lực trong việc phục hưng
và kiến tạo đất nước. Quyền
tư hữu không phải là một ban ơn của chính
phủ, mà cũng không có nghĩa chỉ có chính
phủ mới có quyền này như độc
quyền quốc hữu hoá tài sản. Khi
luật pháp quy định quyền tư hữu th́
mọi người phải chấp chế thi hành
để tránh gây rối loạn trật tự xă
hội. Trường hợp có sự tương tranh
th́ sẽ được giải quyết trên b́nh
diện luật pháp. Những
từ ngữ về tài sản cá nhân, tài sản công
cộng phải được minh định rơ ràng.
Những bất động sản nào mang lại
lợi ích công cộng th́ sẽ do chính phủ xây
dựng và sử dụng quyền sơ hữu. Hiện
nay trong sự phát triển ngành kỹ thuật và kinh
tế ở các quốc gia kỹ nghệ, nhiều
hệ thống giao thông công cộng như xa lộ,
cầu cống, nhà thương bệnh viện đều
được các công ty, xí nghiệp tư nhân đấu
thầu của chính quyền và xây dựng nên. Như
vậy quyền sở hữu thuộc về tư nhân.
Tuy vậy, vẫn có sự ràng buộc luật pháp
về sự xây dựng, về sự bảo tŕ
những hệ thống công cộng nói trên. Tuy
nhiên cũng có những hợp tác giữa cá nhân
với cá nhân và cá nhân với chính quyền. Như
vậy quyền sở hữu chủ thuộc về
tập thể. Ngoài
ra c̣n có những hợp đồng công tư hợp
doanh nghĩa là chính quyền và những cơ sở tư
nhân có thể cùng hợp tác thực hiện những
công tŕnh lớn như công tŕnh xây cất đường
sá cầu cống hoặc những công tŕnh và sản
phẩm liên quan tới quốc pḥng. Như vậy
quyền sở hữu thuộc cả hai. Người
ta thường đề cập đến
2
loại quyền tư hữu: 2.b.2.1)
Quyền tư hữu bất động sản: Trong
phát triển kinh tế, nhiều công ty, xí nghiệp,
nhà máy sẽ được xây dựng ở
nhiều nơi trên đất nước. Sự xây
dựng và quyền sở hữu cũng như
những tác dụng lên những tài sản cũng
phải có luật pháp quy định. Sở
hữu chủ của một tài sản có quyền
xử dụng theo ư ḿnh muốn nếu không đi ngược
lại luật pháp. Tuy nhiên sở hữu chủ không
có quyền ngăn cấm những tác dụng khác lên
tài sản nếu tác dụng đó cần thiết
cho sự ngăn chận sự nguy hiểm hiện
tại. Khi
xây dựng dinh thự nhà cửa, xí nghiệp, kho
chứa hàng, hàng rào v.v. sở hữu chủ đất
đai có quyền mở lan rộng phía trên và dưới
mặt đất thuộc phạm vi tài sản
của ḿnh. Tuy nhiên nếu sở hữu chủ không
quan tâm đến những nguy hại có thể
xảy ra từ những xây dựng của họ th́
quyền sở hữu sẽ bị giới hạn. 2.b.2.2)
Quyền tư hữu động sản: Trong
trường hợp bán hoặc di nhượng động
sản cần phải có sự hiện diện
của đôi bên và phải được giải thích
rơ ràng. Sự chuyển nhượng chỉ có giá
trị về sau nếu có văn tự. Sự
chuyển giao động sản cần có sự đồng
thuận đôi bên. Nếu
động sản được chuyển giao mà
bị người thứ ba dùng quyền buộc
tội th́ quyền sở hữu chủ động
sản đương thời sẽ không c̣n hiệu
lực. Nếu
động sản gắn liền với bất động
sản đất đai th́ động sản này
trở nên phần hiện hữu trên bất động
sản đó. Quyền
sở hữu chiếm cứ động sản sẽ
không c̣n nếu sự chiếm cứ động
sản trên bị phạm luật hoặc nếu có người
khác thưa kiện th́ quyền nầy sẽ bị
tổn thương. 2.b.2.3)
Quyền tư hữu
cổ
phần: Ngày
nay trong kinh tế có một loại buôn bán mà có
thể làm thay đổi thị trường và phát
triển kinh tế, đó là thị trường
chứng khoán. Các
hăng xưởng ngày nay muốn có nhiều tiền
vốn để đầu tư, hăng xưởng
đó có thể tung ra nhiều cổ phần để
bán ra ngoài thị
trường chứng khoán.
Những cổ phần đó cũng có giá trị như
động sản vậy và được buôn bán
qua trung gian các ngân hàng. Người mua cổ phần
hợp pháp th́ có quyền sở hữu cổ
phần đó. 2.b.3)
Luật Thương mại: 2.b.3.1)
Ư niệm về ngành thương mại Theo
quan niệm vào thời quân chủ trước đây
th́ nhất sĩ, nh́ nông, tam công, tứ thương.
Nhưng trong thời đại văn minh và phát
triển kỹ thuật hiện nay cũng như trong
mối bang giao của thế giới, thương
mại đóng vai tṛ rất quan trọng. Nó có
thể là mục tiêu của những vụ đàm phán,
là mục tiêu của những sự hẹn ḥ thăm
viếng từ một tư doanh cho tới doanh thương
xí nghiệp hoặc những chính khách. Nhưng
cũng v́ lư do thương mại mà xảy ra
những cuộc xung đột giữa các công ty xí
nghiệp và tư doanh với nhau. Cấp cao hơn là
xung đột giữa quốc gia. Ngạn
ngữ có câu: “Vô phương bất phú“. Như
vậy thương mại góp phần vào việc phát
triển kinh tế, nhất là nền kinh tế
thị trường tự do cạnh tranh hoàn toàn.
Thị trường tiêu thụ luôn luôn được
mở rộng, không những ở trong nước mà
c̣n mở rộng ra ngoại quốc. Đó là ngày
ngoại thương. Ngành
ngoại thương bắt nguồn từ sự bành
trướng của Âu châu sang Phi châu, Viễn đông
nhằm Âu Châu hoá thế giới mở màn cho sự
thuộc địa hoá, bắt đầu vào thế
kỹ 15 với sự chiếm cứ động
sản và bất động sản của dân bản
xứ và thực hiện những chuyến viễn dương
khám phá ra những châu khác như Mỹ Châu vào năm
1492 của Kha Luân Bố. Vào thế kỹ 16 th́ ngành
ngoại thương càng bành trướng với
những mặt hàng như đồ gia vị, đồ
trang sức, tơ lụa dầu thơm, ngà voi, gỗ
quư, vàng kim cương tại Phi châu và Á châu. Vào
thế kỹ 17, khoảng 84% kim loại quư tây phương
nhập cảng từ Mỹ châu. Tại
Việt Nam muốn phát triển kinh tế th́ phải
đẩy mạnh ngành ngoại thương và
phải có Luật
thương mại.
Luật thương mại quy định tổng quát
tất cả những quyền hạn của doanh nhân.
Từ những quyền và khả năng để
mở tiệm cho tới việc lập những công
ty thương mại cho tới việc đào tạo
nhân viên thương mại. Luật
thương mại cũng ghi rơ về những
quyền hạn của các nghiệp đoàn thương
mại ngay cả việc phá sản của các công ty
hoặc cửa tiệm. Luật
thương mại cũng nói đến những kho
chứa hàng hoá, sự di chuyển hàng hoá cũng như
cách gởi hàng, thời gian gởi và nhận hàng ngay
cả đến sự bảo quản hàng hoá. Nói
đến thương mại là nói đến
thị trường.
Thị trường ảnh hưởng tới vận
hành của xí nghiệp. Những yếu tố tạo
nên những sinh hoạt của thị trường là
sản phẩm, hàng hoá, luật pháp và khả năng
phục vụ. Những yếu tổ để
tạo ra sản phẩm là: Bất động
sản, máy móc, nguyên vật liệu, lực lao động,
khả năng chuyên chở, vốn tư bản, thông
tin kinh tế. 2.b.3.2)
Những quy định tổng quát liên quan tới ngành
thương mại Với
hợp đồng mua bán, người bán chịu trách
nhiệm về món hàng để chuyển giao cho người
mua như là sự chuyển nhượng quyền tư
hữu. Người mua có nghĩa vụ phải thanh
toán giá mua theo khế ước và lấy vật
đă mua. Như
vậy người bán có 2 nghĩa vụ chính: Chuyển
giao
và chuyển
nhượng quyền tư hữu. Sự
chuyển giao quyền tư hữu trên sự vật có
nghĩa rằng đă thi hành xong nghĩa vụ theo
luật định và sau đó người thứ ba
có thể mua lại. Tuy vậy nếu người bán
không có quyền chuyển nhượng quyền tư
hữu th́ khế ước có thể bị huỷ
bỏ. Tương
tự, người mua có 2 nghĩa vụ: Trả
tiền theo giá mua và nhận lấy món hàng hoặc
sự vật. 2.b.3.3)
Những bảo đảm v́ món hàng bị hư
hoặc thiếu Người
bán bảo đảm món hàng trong một thời gian
ấn định sau khi món hàng được giao qua
tay người mua, nhưng sẽ không chịu trách
nhiệm với những lỗi lầm mà do người
mua gây ra. Người
bán không chịu trách nhiệm về những hư
hại hay khuyết điểm của món hàng
được bán nếu người mua biết
được hư hại này cho tới khi hợp
đồng mua bán được thực hiện. Người
bán dối trá sẽ bị phạt. 2.b.3.4.)
Những trường hợp đặc biệt về
mua bán Nếu
món hàng được phân phối tới người
mua mà không đúng như hàng mẫu th́ người bán
phải chịu trách nhiệm hoặc là thay đổi
bộ phận hư, hoặc bán giảm giá mua
hoặc thay thế món hàng theo hợp đồng
hoặc thay thế sự thiệt hại. Quyền
tiên măi cho phép người mua được ưu tiên
cái quyền chiếm cứ món hàng hoặc t́m
thấy trong sự mua bán bất động sản như
là nhà cửa phố xá. 3)
Luật Thừa kế Một
trong những bộ luật mà không kém phần quan
trọng trong phát triển kinh tế là Luật
Thừa kế. Trong
một quốc gia pháp trị th́ Luật
Thừa kế
nhằm giải quyết những di sản mà người
lập di chúc để lại sau khi chết. Luật
thừa kế làm sáng tỏ và bảo đảm
quyền tư hữu tài sản, nhằm khuyến khích
mọi người trong lao động để nâng
cao mức sống người dân, duy tŕ trật
tự xă hội trên b́nh diện quyền b́nh đẳng
con người theo luật pháp. 3.1)
Một số quy định chính về Luật
Thừa kế Người
lập di chúc có thể ghi rơ một hoặc nhiều
người được hưởng theo di chúc. Người
thi hành di chúc có quyền quản trị di sản.
Với cái chết của một người th́ tài
sản của họ sẽ được chuyển
giao tất cả cho những người liên hệ.
Cha mẹ, hoặc ông bà nội đều có quyền
thừa kế theo luật định. Người
hôn phối được hưởng quyền
thừa kế nếu hai người là vợ
chồng sống chung với nhau có hôn thú cho tới
khi cái chết của vị hôn phối xảy ra.
Phần thừa kế nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố chẳng hạn như số con
cái, tài sản của vợ chồng và thứ
bậc của những người thừa kế
khác như bà con họ hàng. 3.2)
Luật thừa kế trên quyền tư hữu
quốc tế Trên
b́nh diện quốc tế, Luật
Thừa kế
cũng phải được minh thị rơ ràng
nhằm giải quyết những trường hợp
thừa kế của một người ngoại
quốc trên xứ họ đang cư ngụ. Quy
chế thừa kế xác định rơ khối di
sản. Nghĩa là di sản hiện có trong sự
quản lư của người lập di chúc hoặc là
người đại diện bảo quản di
sản của người lập di chúc hoặc là
sự đ̣i hỏi cho người lập di chúc như
những dịch vụ tiền bảo hiểm nhân
mạng, bảo hiểm tai nạn hoặc là những
món tiền bồi thường thiệt hại mà người
lập di chúc sẽ có được. Song
vào đó, c̣n có những đạo luật liên quan
tới Phát triển kinh tế, ví dụ như
Luật Phá Sản, Qui chế Cạnh tranh, Luật
Thuế khoá v.v. cũng cần được tôn
trọng và thi hành nghiêm chỉnh nhằm khuyến khích
doanh nhân, công nhân góp phần phát triển kinh tế. Ngoài
ra một số Luật về Bảo
vệ môi trường
cũng cần được soạn thảo và ban hành
nhằm bảo vệ sức khoẻ của con người,
bảo vệ môi trường và đời sống người
dân. Theo Reuter thông tin vào tháng 6 năm 2011 th́ năm
2010 đă có 1.300.000 người dân Trung cọng qua
đời v́ ô nhiểm môi sinh (CO2) v́ chính quyền
Trung cọng không quan tâm nhiều đến vấn
đề môi sinh trong phát triển kinh tế. Vào
cuộc họp của thế giới về môi sinh vào
năm 2008 tại Đan Mạch, nhiều quốc gia
đă phàn nàn và chỉ trích Trung cọng về môi trường
bị ô nhiểm rất nguy hại đến tính
mạng người dân. Sau
khi sụt giảm vào năm 2009, do khủng hoảng tài
chính toàn cầu, lượng khí gây hiệu ứng nhà
kính thải ra bầu khí quyển trên trái đất
đă lên tới 30,6 tỷ tấn, cao hơn 5% so
với mức kỷ lục trước đây
của năm 2008 là 29,3 tỷ tấn. Các
chuyên gia cho biết một cách chi tiết : 44% lượng
khí CO2 thải ra là do dùng than, 36% từ dầu lửa
và 20% từ khí tự nhiên. (Nguồn RFI 17.6.2011). Tại
Việt Nam, môi trường cũng bị ô nhiễm
rất nặng đă gây ra nhiều ngộ độc
trong nước uống, rau xanh và thức ăn v.v. 4)
Vai tṛ của chính quyền trong việc phát triển
kinh tế: Chính
quyền đóng vai tṛ rất quan trọng trong
việc phát triển kinh tế. Khả năng lănh
đạo của chính quyền cũng c̣n tuỳ
thuộc vào chế độ được áp
dụng ở quốc gia đó. Một chế độ
tự do dân chủ th́ đảng phái luôn có sự
cạnh tranh để nắm chính quyền mà xây
dựng đất nước. Chính
quyền là cơ quan hành pháp được Hiến
pháp quy định trong cơ chế quốc gia. Dù là
thể chế quốc gia theo Tổng Thống chế
như ở Pháp và Hoa Kỳ, Nghị viện chế
như ở Đức hay Đại nghị chế như
ở Anh, họ đều xây dựng đất nước
theo định chế tam quyền phân lập gồm có
cơ quan Hành pháp, Tư pháp và Lập pháp. Ba cơ
quan nầy có thể kiểm soát lẫn nhau. Mỗi cơ
quan có nhiệm vụ riêng biệt được
Hiến pháp quy định. Riêng
cơ quan hành pháp có những nhiệm vụ như: 4.1)
Đưa ra đường hướng phát triển
kinh tế: Điều
nầy phụ thuộc vào: -
Chọn lựa mô h́nh như đă đề cập
ở trên nhằm phát triển kinh tế tối ưu
nhất. -
Lực lượng chuyên viên, chuyên gia có khả năng
chuyên môn các loại ngành nghề và đặc
biệt chuyên môn kỹ thuật: Chính quyền
phải có chính sách đào tạo và huấn luyện
thành phần nầy. -
Phải được dân chúng ủng hộ -
Thích nghi với đường lối quốc gia và hành
chánh -
Phải có nhân sự thi hành: Đó là tầng lớp
cán bộ hành chánh -
Tương quan với quốc tế: Đẩy
mạnh việc bang giao quốc tế. -
T́m thị trường tiêu thụ trên b́nh diện
quốc tế. 4.2)
Thi hành đường hướng phát triển kinh
tế: -
Phối hợp với cơ quan Lập pháp để
ban hành những bộ luật, sắc luật cho ngành
kinh tế. 4.3)
Khuyến khích đầu tư: -
Thuế lợi tức nhẹ Trên
b́nh diện quốc gia, chính quyền cũng có
thể quản lư gián tiếp về sự phát
triển kinh tế nhất là về sản phẩm,
thị trường tiêu thụ, giá cả, cạnh
tranh. Mối
bang giao quốc tế nói chung và ngành ngoại thương
nói riêng cần phải được chính quyền và
các nhà làm luật quan tâm để có những
quyền lợi đôi bên giữa các quốc gia. 5)
Tóm lược: Sau
khi chúng ta đă phân tích về một vài mô h́nh kinh
tế th́ thấy rằng phát triển kính tế không
thể phó thác cho một số người, dù có tài
giỏi đến đâu. Cũng không thể chỉ
phó thác cho doanh nhân hay cho cơ quan quyền lực nào
mà phải vận động tất cả toàn dân
trong cùng một quốc gia tham gia. Từ việc
sản xuất cho tới sự tiêu thụ hàng hoá,
từ việc mua bán hay hành nghề đều
phải dựa trên luật pháp mà cơ quan công
quyền có nhiệm vụ phải tôn trọng và thi hành
nghiêm minh. Thật vậy, vai tṛ của chính quyền
rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Chính
quyền có quyền lực trong tay dễ dẫn đến
chế độ độc tài chuyên chinh nếu
luật pháp không được thượng tôn.
Điều nầy có thể làm cho xă hội phân hoá,
bất công, dẫn đến sự đ́nh trệ
trong phát triển kinh tế. Nói chung, muốn
phát triển kinh tế th́ vai tṛ của chính quyền
và khung cảnh luật lệ phải hổ tương
lẫn nhau trong một định chế chính trị
Tự Do Dân Chủ Pháp Trị với tam quyền phân
lập: Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Nguyễn
Văn Phảy
|