Việt
Nam và cuộc chiến Nga – Ukraine: “Chính
sách ngoại giao cây tre” của Hà Nội mang lại
kết quả nhưng vẫn c̣n thách thức
(Phần 2) Tác giả: Ian Storey Đỗ Kim Thêm dịch
|
Mối quan hệ quốc pḥng Việt – Nga Kể
từ những ngày đầu của cuộc Chiến
tranh Lạnh, hợp tác quốc pḥng đă là một
trụ cột chính trong các mối quan hệ
Việt-Nga. Như ghi nhận trước đó, quân
viện của Liên Xô (và Trung Quốc) cho Quân đội
Nhân dân Việt Nam là công cụ trong việc Hà Nội
đánh bại các quân đội Pháp và Mỹ.
Cuộc chiến sau thời chiến tranh Lạnh,
Việt Nam tiếp tục dựa vào Nga như là
nguồn cung cấp chủ yếu về vũ khí.
Từ năm 1995 đến năm 2015, Việt Nam đă
mua vũ khí của Nga với trị giá 5,68 đô la
Mỹ, tương đương với 90% mức
nhập khẩu về quốc pḥng của đất nước.
Hầu hết vũ khí tồn kho của Quân đội
Nhân dân Việt Nam hiện nay – bao gồm máy bay
chiến đấu, xe tăng, tàu ngầm và tàu
chiến trên mặt nước – đều là các
thiết bị do Liên Xô và Nga sản xuất. Việc
Nga chiếm đóng Crimea năm 2014 là một bước
ngoặt trong mối quan hệ quốc pḥng Việt-Nga.
Việt Nam trở nên lo ngại rằng các biện pháp
trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu của
phương Tây nhắm vào lĩnh vực công nghiệp
quốc pḥng của Nga sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng hệ thống vũ khí của Nga
và làm gián đoạn lịch tŕnh giao hàng. Những lo
ngại đó càng trở nên trầm trọng hơn
nhiều kể từ khi cuộc chiến Nga-Ukraine bùng
nổ và việc phương Tây thắt chặt các
biện pháp trừng phạt đối với Nga. Hơn
nữa, màn tŕnh diễn mờ nhạt của quân đội
Nga ở Ukraine đă khiến cho giới lănh đạo
cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam lo
lắng. Nếu người Nga không thể đánh
bại một kẻ thù yếu hơn, th́ làm sao Quân
đội Nhân dân Việt Nam do Nga trang bị và
huấn luyện sẽ chống lại một đối
thủ mạnh hơn nhiều như Quân đội
Giải phóng Nhân dân Trung Quốc? Điều này
được chú ư gần đây nhất khi hai tàu
tuần tra tên lửa lớp Taruntul của Hải quân
Nga bị máy bay không người lái của Ukraine phá
hủy hồi tháng 12/2023 và tháng 2/2024. Hải quân
Việt Nam vận hành 12 tàu loại này. Kể
từ năm 2014, nhu cầu giảm sự phụ
thuộc quân sự của Việt Nam vào Nga đă rơ ràng.
Nhưng việc chuyển đổi từ một nhà
cung cấp quan trọng về vũ khí là tốn kém và
mất thời gian. Do đó, Việt Nam sẽ vẫn
phụ thuộc vào lĩnh vực quốc pḥng của
Nga trong một hoặc hai thập niên nữa. Để
giải quyết vấn đề này, Việt Nam đă
thực hiện một chiến lược ba hướng:
Trang bị thêm, bản địa hóa và đa dạng hóa. Mũi
nhọn đầu tiên là trang bị thêm các thiết
bị hiện có do Nga sản xuất để nâng
cấp khả năng của họ với sự hỗ
trợ từ các quốc gia khác mà nó vận hành
số thiết bị của Liên Xô / Nga, bao gồm
Ấn Độ và các thành viên thuộc Hiệp ước
Warsaw cũ như Cộng ḥa Séc. Mũi
nhọn thứ hai là hỗ trợ sự phát triển
của một ngành công nghiệp quốc pḥng bản
địa để Việt Nam có thể giảm
sự phụ thuộc vào các nước khác trong
việc hỗ trợ trang bị thêm và mua sắm
mới. Ngành công nghiệp quốc pḥng non trẻ
của Việt Nam, dẫn đầu bởi các doanh
nghiệp quốc doanh như doanh nghiệp viễn thông
Viettel, hiện nay đang sản xuất máy bay trinh sát
không người lái, radar, các vũ khí nhẹ và tên
lửa. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn c̣n cần nhiều
thập niên nữa mới có thể tự cung ứng
trong lĩnh vực quốc pḥng. Mũi
nhọn thứ ba là mua phần cứng về quân
sự từ các quốc gia khác ngoài Nga. Thực ra,
Việt Nam đă bắt đầu chính sách tuần
tự về việc đa dạng hóa vũ khí trước
năm 2014, mua hàng từ Israel, Hàn Quốc, Pháp và
Nhật Bản. Nhưng cuộc chiến Nga – Ukraine
buộc Việt Nam phải đẩy nhanh chính sách này.
Hà Nội có thể sẽ tăng cường mối
quan hệ đối tác quốc pḥng với Hàn
Quốc và một số nước châu Âu, bao gồm
Anh và Pháp. Mua vũ khí từ Hoa Kỳ, bao gồm
cả chiến đấu cơ như F-16 đă qua
sử dụng, vẫn là một khả năng, mặc
dù một số trở ngại cản trở mối
quan hệ quốc pḥng gần gũi hơn giữa Hoa
Kỳ và Việt Nam. Bất
chấp những vấn đề mà ngành công nghiệp
quốc pḥng của Nga đối mặt, không thể
loại trừ vai tṛ tiếp tục của ngành này
trong các kế hoạch mua sắm quốc pḥng của
Việt Nam. Giới lănh đạo Quân đội Nhân dân
Việt Nam đă trở nên thoải mái với mối
quan hệ kéo dài hàng thập niên với Nga và ít tin tưởng
vào các nước khác, đặc biệt là Mỹ,
kẻ cựu thù. Hơn nữa, việc tích hợp các
thiết bị không phải của Nga với kho hàng
hiện có của Quân đội Nhân dân Việt Nam
sẽ có vấn đề rắc rối. Tháng 9/2023, có
thông tin cho rằng Việt Nam và Nga đă thỏa
thuận một việc thương thảo về
số vũ khí trị giá 8 tỷ đô la Mỹ,
sử dụng lợi nhuận từ liên doanh năng lượng
của họ ở Siberia. Tuy nhiên, vẫn c̣n phải
xem liệu Việt Nam có tiếp tục thực hiện
bất kỳ vụ thương vụ khổng lồ nào
với Nga trong tương lai gần hay không. Việt
Nam và mối quan hệ Nga – Trung Cuộc
chiến Nga – Ukraine đă củng cố mối quan
hệ chiến lược Trung – Nga. Moscow và Bắc
Kinh chia sẻ các thế giới quan tương tự,
đặc biệt là sự cần thiết phải
chống lại bá quyền Mỹ. Không có lợi cho
Trung Quốc trong việc Nga thua trận, cũng như các
biện pháp trừng phạt của phương Tây thành
công. Mặc dù Bắc Kinh không công khai ủng hộ
sự gây hấn của Nga, nhưng họ đă bày
tỏ sự đồng cảm với lư do Moscow phát
động cuộc xâm lược, bỏ phiếu
trắng tại Đại Hội Đồng LHQ khi lên
án Moscow, tăng cường can dự kinh tế với
Nga và cung cấp quân viện hạn chế. Tuy nhiên,
cuộc chiến đă khuếch đại t́nh
trạng bất cân xứng về quyền lực trong
mối quan hệ Nga – Trung khi sự phụ thuộc
về chính trị và kinh tế của Moscow vào Bắc
Kinh ngày càng sâu đậm. Không có quốc gia nào khác
ở Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi
sự năng động này như Việt Nam. Nó có ư
nghĩa quan trọng đối với tranh chấp đang
diễn ra của Việt Nam với Trung Quốc ở
Biển Đông cũng như hợp tác quốc pḥng
với Nga. Việt Nam lo
ngại rằng, việc Nga phụ thuộc vào Trung
Quốc ngày càng tăng, Bắc Kinh có thể sử
dụng đ̣n bẩy với Moscow để làm suy
yếu lợi ích của Việt Nam. Điều này bao
gồm gia tăng áp lực cho Điện Kremlin rút các
doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng ra
khỏi vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân
dân Việt Nam … Nga
có cổ phần đáng kể trong lĩnh vực
dầu khí của Việt Nam. Hai doanh nghiệp quốc
doanh về năng lượng của Nga là Zarubezhneft và
Gazprom, hiện đang tham gia vào các dự án khai thác và
sản xuất trong vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) 200 hải lư của Việt Nam. Vietsovpetro (VSP) –
một liên doanh được thành lập bởi
Zarubezhneft của Liên Xô và PetroVietnam, một doanh
nghiệp quốc doanh của Việt Nam vào năm 1982
– có các dự án khoan tại năm mỏ dầu khí
ngoài khơi Việt Nam. Theo
Vietsovpetro, tính đến cuối năm 2017, doanh
nghiệp này đă sản xuất được 228
triệu tấn dầu thô và 32,5 tỷ mét khối khí,
tạo ra doanh thu 77 tỷ đô la Mỹ, trong đó chính
phủ Việt Nam thu được 48 tỷ đô la
Mỹ. Năm 2010, hai doanh nghiệp đồng ư kéo dài
sự hợp tác cho đến năm 2030. Năm 2021,
Rosneft, doanh nghiệp dầu mỏ lớn nhất
của Nga, đă bán phần của ḿnh trong hai mỏ năng
lượng ở lưu vực sông Nam Côn Sơn cho
Zarubezhneft. Gazprom, doanh nghiệp khí đốt lớn
nhất của Nga, đă thành lập một liên doanh
với PetroVietnam vào năm 1997, Vietgazprom (VGP), để
phát triển các dự án về năng lượng
ở ngoài khơi. Chúng bao gồm các mỏ khí Hải
Thạch và Mộc Tĩnh, trong năm 2017 chiếm 21%
tổng sản lượng khí đốt tự nhiên
của Việt Nam. Một
số lô năng lượng mà Vietsovpetro (VSP) và
Vietgazprom (VGP) hoạt động nằm trong đường
chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh tuyên
bố quyền tài phán đối với các nguồn tài
nguyên biển trong đường đó, bao gồm
cả trữ lượng dầu khí. Năm 2016, Trung
Quốc bác bỏ phán quyết của ṭa trọng tài
do LHQ hậu thuẫn, trong đó phán quyết đường
chín đoạn không tương thích với Công ước
LHQ năm 1982 về Luật Biển (UNCLOS) và do đó không
hợp lệ. Nga không công nhận đường chín
đoạn của Trung Quốc, nhưng đồng
cảm với quyết định [của Trung Quốc]
bác bỏ phán quyết của ṭa trọng tài năm
2016. Bắc
Kinh khẳng định các yêu sách của ḿnh bằng
cách sử dụng các tàu Cảnh sát biển Trung
Quốc (China Coast Guard, CCG) và dân quân biển để
quấy rối các tàu khảo sát và giàn khoan hoạt
động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của các nước Đông Nam Á, mà nó thường
chồng lấn với đường chín đoạn
mở rộng. Mặc dù các mối quan hệ giữa
Nga và Trung Quốc được thắt chặt trong
thập niên qua, Bắc Kinh đă không tạo ra
ngoại lệ đối với các tàu được
thuê bởi liên doanh Việt – Nga. Ví dụ, trong năm
năm qua, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG),
thường đi cùng với các tàu khảo sát và tàu
đánh cá Trung Quốc, đă nhiều lần xâm
nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của Việt Nam, đôi khi đi qua rất gần
tới các giàn khoan do Nga thuê, dẫn đến một
tṛ chơi mèo vờn chuột gây căng thẳng
giữa các tàu cảnh sát biển của Việt Nam và
Trung Quốc. Chính sự quấy rối của tàu
Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) đă khiến cho
Rosneft phải bán đi phần đầu tư của
ḿnh ở lưu vực Nam Côn Sơn cho Zarubezhneft
hồi năm 2021 để bảo vệ lợi ích thương
mại của họ ở Trung Quốc, khách hàng
lớn nhất của doanh nghiệp. Mục
đích của các chiến thuật đe dọa
của Trung Quốc có hai mặt. Thứ nhất,
tạo ra một môi trường hoạt động thù
địch cho các doanh nghiệp ngoại quốc về
năng lượng ở Biển Đông, buộc
họ phải chấm dứt các thương vụ (như
Repsol của Tây Ban Nha và Marudaba của Các Tiểu vương
quốc Ả Rập Thống nhất đă làm vào năm
2020 và Rosneft một năm sau đó). Thứ hai, ép
buộc các bên tranh chấp ở Đông Nam Á hủy
hợp đồng với các tập đoàn ngoại
quốc về năng lượng và tham gia vào các
dự án phát triển mới với các tập đoàn
Trung Quốc. Cả
Việt Nam và Nga đều không sẵn sàng nhượng
bộ các mong muốn của Trung Quốc. Thực ra,
trong Bản Tuyên bố chung năm 2021 về Tầm nh́n
phát triển quan hệ Việt Nam – Nga năm 2030, hai nước
cam kết tăng cường hợp tác giữa các
doanh nghiệp dầu khí “cho phù hợp với luật
quốc tế, bao gồm UNCLOS và các luật quốc
nội của Việt Nam và Nga”. Hà
Nội hoan nghênh sự tham gia của các doanh nghiệp
ngoại quốc về năng lượng vào các
dự án về khai thác và sản xuất của ḿnh không
chỉ v́ họ là một nguồn chuyên môn kỹ
thuật và vốn quan trọng, mà c̣n v́ Việt Nam có
quyền chủ quyền theo UNCLOS để quyết
định trữ lượng dầu khí trong vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của ḿnh nên được phát
triển như thế nào và với ai. Nga
cũng rất coi trọng việc tiếp tục
hoạt động của các doanh nghiệp năng lượng
trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
Việt Nam. Các liên doanh với PetroVietnam có lợi
nhuận cao và tạo ra nguồn doanh thu quan trọng vào
thời điểm xuất khẩu dầu khí của
Nga sang châu Âu bị cắt giảm mạnh sau khi Liên Âu
áp đặt các biện pháp trừng phạt. Hơn
nữa, nếu Nga chấp nhận yêu cầu của
Trung Quốc và chấm dứt hợp tác năng lượng
với Việt Nam, họ sẽ bị tổn hại
thanh danh ở Việt Nam và các nước khác ở
Đông Nam Á. Các quốc gia trong khu vực có thể
sẽ kết luận rằng Nga là đối tác
cấp dưới của Trung Quốc và phụ
thuộc vào lợi ích của Bắc Kinh ở Đông
Nam Á. Điều này sẽ làm suy yếu tuyên bố
của Moscow rằng họ hoạt động độc
lập trong nền chính trị toàn cầu. Việt
Nam lo ngại rằng do sự phụ thuộc ngày càng
gia tăng của Nga với Trung Quốc, Bắc Kinh có
thể sử dụng đ̣n bẩy của ḿnh với
Moscow để làm suy yếu lợi ích của Việt
Nam. Điều này bao gồm gia tăng áp lực lên
Điện Kremlin để rút khỏi các doanh
nghiệp quốc doanh về năng lượng ra
khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân
dân Việt Nam, đặc biệt là vũ khí tấn công
có thể được sử dụng chống lại
Trung Quốc trong một cuộc đối đầu quân
sự ở Biển Đông. Tuy
nhiên, Việt Nam đánh giá là trong ngắn hạn,
việc tăng cường các mối quan hệ Nga –
Trung có thể không có tác động quan trọng đến
lợi ích của Việt Nam, v́ hai lư do. Thứ
nhất, Trung Quốc hiểu tầm quan trọng về
kinh tế và địa chính trị của các hoạt
động của Nga trong vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) của Việt Nam và sẵn sàng chấp
nhận sự tiếp tục của họ trong một
thời gian dài hơn v́ lợi ích của quan hệ
đối tác chiến lược của họ. Hơn
nữa, động lực quyền lực trong các quan
hệ Trung – Nga vẫn chưa lệch lạc đến
mức Bắc Kinh có thể buộc Moscow phải
thực hiện mệnh lệnh của ḿnh. Thứ hai,
Trung Quốc cũng hiểu rằng nếu họ thúc ép
Việt Nam quá mạnh, bao gồm cả thông qua mối
quan hệ với Nga, điều đó có thể
buộc Hà Nội tạo ra mối quan hệ gần gũi
hơn với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một mối quan
hệ chiến lược Trung – Nga mạnh mẽ hơn
đặt ra những thách thức trung và dài hạn cho
Việt Nam và tạo thêm động lực cho Hà
Nội giảm sự phụ thuộc quân sự vào Nga. |