Cần xét xử Cuộc Tàn sát Tết Mậu Thân ở Huế


LTS. Luật sư Trần Thanh Hiệp là chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris. Ông viết bài dưới đây theo lời yêu cầu của Ngày Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm CSVN tổng tấn công và tàn sát 6000 dân lành tại Huế hồi Tết Mậu Thân, 1968.

Đêm mồng một Tết năm Mậu Thân (30-01-1968), 12 ngàn quân cộng sản đă nổ súng tấn công thành phố Huế, chiếm đế đô cũ của nhà Nguyễn trong 26 ngày.

1. Chiến dịch Đông Xuân, cửa ngơ đi vào tội ác.

Cuộc binh biến này là một trong những cao điểm của Chiến dịch Đông-Xuân, với một quân số gần 200 ngàn người gồm cả bộ đội chính qui lẫn du kích, chính ủy, cán bộ CS xâm nhập từ miền Bắc cũng như tuyển mộ tại chỗ, mà Hà Nội đă mở ra ở chiến trường miền Nam, vào ba năm cuối thập niên 1960, trong ư đồ tạo thế mạnh trên chiến trường để áp đảo trên bàn hội nghị nếu buộc phải đi vào cuộc thương lượng.

Ngày thứ 27, những tay súng xâm lăng Huế đă bị quân lực VNCH cùng với quân đội Đồng minh đánh bật ra khỏi những nơi họ chiếm đóng. Các trận đánh đă chấm dứt, một trong những việc khẩn cấp trong khi chờ đợi cuộc sống b́nh thường trở lại trên miền sông Hương núi Ngự là lo kiểm điểm thương vong. Đă không có cuộc kiểm tra dân chúng thật sự nào được thực hiện. Nhưng đại cương, chỉ biết rằng tính tới tháng 03-1968, theo thống kê của nhà cầm quyền th́ có 1.900 dân thường được đưa vào bệnh viện v́ thương tích chiến tranh và khoảng 5.800 người bị CS bắt đi mất tích. Và cho đến bây giờ, tất cả những người này coi như đă chết. Nhưng họ đă chết như thế nào?

Đă có lúc người ta tưởng rằng đó là những bí mật đă bị chôn vùi dưới ḷng đất và trước sau ǵ th́ thời gian cũng sẽ xóa hết vết tích thôi. Nhưng không ngờ rằng chẳng bao lâu sau sự thật đă dần dần hé lộ. Và một loạt tội ác ghê rợn v́ mức độ dă man làm chỗi dậy lương tâm loài người lần lượt được vạch trần ra trước ánh sáng. Vô số tử thi được t́m thấy rải rác, hay tập trung trong những hố chôn tập thể, ở những vùng chung quanh Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên.

Bốn mươi năm đă trôi qua. Không biết có bao nhiêu người nay c̣n muốn nhắc lại câu chuyện Tổng công kích cách mạng của cộng sản tại Huế, c̣n đoái hoài tới những kẻ xấu số đă mất đi mạng sống của ḿnh một cách thảm thương. Đành rằng trước những tội ác đảo lộn luân thường đạo lư của Phát xít Quốc xă và Cộng sản toàn trị, thế kỷ XX đă bị tố cáo trước công luận thế giới là man rợ xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Nhưng công luận đă không đáp ứng được nhu cầu công lư. Có ǵ để đền bồi cho thân nhân hàng ngàn người xấu số đă chết tức tưởi dưới bàn tay khát máu của cộng sản tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân? Và những kẻ sát nhân đă phải trả lời ra sao về tội ác của chúng? Có thể đành tâm im lặng nh́n cuộc sống thị phi lẫn lộn kéo dài vô tận được không?

Một người Mỹ từng có nhiều công tŕnh nghiên cứu thâm sâu về những người Cộng sản Việt Nam, ông Douglas Pike, khi lập một hồ sơ về biến cố Tết Mậu Thân đă viết rằng: “Ngoài tiếng thở dài cay đắng, người dân sẽ nói cho quí vị hay những ǵ về Huế mà thế giới đă không biết tới, và nếu có biết, họ cũng chẳng quan tâm đến những ǵ ở Huế sau 27 ngày gọi là “giải phóng Thừa Thiên” (…). Những ǵ xảy ra ở Huế làm cho những ai c̣n là người văn minh trên địa cầu nầy phải dành nhiều phút giây tĩnh tâm để tư duy về những điều đă được khắc ghi, cùng với những tai họa khủng khiếp khác về những hành động dă man của người đối với người sẽ không bao giờ quên được và trở thành một dấu ấn sâu sắc trong ḍng lịch sử nhân loại” (lời dịch của Tuệ Chương).

Bốn mươi năm sau. Chúng ta, những người không Cộng sản c̣n nhớ được những ǵ và suy nghĩ ǵ về cuộc giết người hàng loạt này ?

2. Bộ mặt ghê rợn của ư thức hệ.

Một người dân Huế nhớ lại: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm t́m được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, chúng tôi lập Hội Gia đ́nh Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân. Các gia đ́nh kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đ́nh. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. Có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu”.

Nhiều đợt kiếm xác làm liên tưởng tới cảnh hành h́nh trong ngục của Diêm Vương. Các nạn nhân tay bị trói bằng dây thép gai buộc ra sau lưng, miệng nhét giẻ, thân xác không c̣n nguyên vẹn nhưng lại không có dấu vết bị thương. Chắc hẳn những người này đă bị chôn sống. Nơi t́m thấy nhiều xác nạn nhân nhất là ở những đồi cát của ba làng Vinh Lưu, Lệ Xá Đông và Xuân Ổ; đây là vùng đồi cát liên tiếp nhau, nhiều đụn cỏ, ở gần biển Đông. Cách xa cách vùng đầm nước mặn, đây là nơi thuận tiện để chôn tập thể. Đă có hơn 800 người được phát giác ở khu này. Các nạn nhân bị trói thành từng nhóm 10 hoặc 12 người, sắp hàng bên cạnh những cái hố do dân địa phương đào, sau đó bị bắn bằng súng máy mà nhờ có vỏ đạn bên cạnh hố chôn nên đoán là do Nga sản xuất. Một địa điểm khác nữa là ở quận Nam Ḥa, chỗ gọi là khe Đá Mài, hay là nơi người dân Phủ Cam bị giết, t́m thấy hôm 19-9-1969. Cán binh Cộng Sản đào ngũ khai với viên chức t́nh báo thuộc đoàn Không Kỵ 101 của Hoa Kỳ rằng họ đă chứng kiến việc giết hàng trăm người ở khe Đá Mài, cách Huế 10 dặm về phía nam vào tháng 02-1968. Khu nầy hoang vu, không có dân cư, khó đến được, một toán t́m kiếm đă tới được khe Đá Mài báo cáo rằng trong ḍng suối có rất nhiều đống xương người chồng chất lên nhau.

Nhờ những tin tức gom góp được, người ta tạm phỏng đoán những ǵ xảy ra ở khe Đá Mài. Tại khu Phủ Cam, nơi có khoảng 40 ngàn dân, những người theo đạo Thiên Chúa chiếm 3/4 dân số thành phố. Hôm mồng 5 Tết, dân khu này chạy vào nhà thờ tránh súng đạn như ở Việt Nam người dân thường làm. Thực ra, nhiều người trong số đó không phải là người có đạo Thiên Chúa.

Cán bộ Cộng sản vào nhà thờ bắt đi khoảng 400 người, một số theo danh sách có sẵn c̣n một số theo nhân dạng mà bắt (giàu có, sang trọng, trung niên v.v…). Cộng Sản cho biết họ phải vào vùng giải phóng để học tập chính trị trong ṿng ba ngày, sau đó, sẽ được tha về. Họ bị đưa đi 9 cây số tới một ngôi chùa nơi Cộng sản đặt bộ Chỉ huy. Hai chục người được gọi ra trước cái gọi là “ṭa án cách mạng”, bị tố cáo là có tội, bị hành quyết và chôn ngay trong sân chùa. Những người c̣n lại được đưa qua sông và giao cho đơn vị Cộng sản địa phương. Bảy ngày sau đó, không rơ số lượng bao nhiêu, cả người bắt và người bị bắt đă di chuyển về một vùng quê. Và để không cho ai thấy, người bị bắt bị dẫn đến những vùng núi non lởm chởm nhất miền Trung Việt Nam, tới khe Đá Mài. Tại đây họ bị bắn hay bị đập đầu, xác bị đạp xuống ḷng khe.

Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, nguyên Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt tại Thừa Thiên nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền th́ Việt cộng bắt đầu cuộc thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra tŕnh diện. Sau khi tŕnh diện th́ được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra tŕnh diện. Đến lần thứ ba th́ họ yêu cầu tất cả những ai đă tŕnh diện lần một và lần hai ra tŕnh diện lại. Đây là lần quyết định, và cuộc thảm sát đă diễn ra!”

Ông Philip W. Manhard, cố vấn Mỹ tại Huế bị bắt làm tù binh và bị giam giữ tại một trại tù binh ở ng̣i Bắc cho đến năm 1973, đă xác nhận rằng khi phải rút khỏi thành phố Huế, bộ đội cộng sản đă hạ sát tất cả những ai không chịu đi theo, cũng như những người quá già hoặc quá ít tuổi gây trở ngại cho cuộc rút quân này.

Phải được thúc đẩy bởi những động cơ tâm lư như thế nào mới có thể giết người một cách vô cảm và phi nhân tính, theo đuổi ư đồ diệt chủng như vậy! T́m cách giải nghĩa cuộc tàn sát Tết Mậu Thân dưới góc độ nh́n vấn đề như thế th́ chỉ có một câu trả lời độc nhất, đó là sự thể hiện cụ thể nhất của hệ thống giáo điều ư thức hệ Cộng sản với căm hờn giai cấp, với vai tṛ lịch sử tự phong của lớp người tự nhận là vô sản, với chủ trương đảng trị độc tôn, toàn trị phi nhân quyền v.v… cho phép người cộng sản -như, đúng ra hơn cả Thượng Đế- có đủ mọi thứ quyền trên cơi đời này, kể cả quyền sinh quyền sát. Bởi vậy cuộc tàn sát đầu Xuân Mậu Thân vẫn c̣n là một vấn đề mà các thế hệ nói tiếp cần phải phân tích để thanh toán.

Khoảng cách bốn mươi năm đă mang lại nhiều thay đổi từ tư tưởng đến thực tế đất nước, góp phẩn làm hiển lộ sự thật. Nếu vào thời điểm năm 1968, những người Cộng sản có được sự thản nhiên lạnh lùng để hạ sát một cách man rợ hàng ngàn đồng bào là tại v́ lương tâm con người trong họ đă bị tham vọng quyền lực, quyền lợi che lấp. Phải bằng mọi giá loại trừ bất cứ trở ngại nào trên buớc đường họ cướp quyền để cầm quyền. Nhưng sau hơn 30 năm chiếm được trọn quyền trong cả nước, những người cộng sản qua suy nghiệm bản thân chắc đă không thể không nhận rơ được thực chất vô đạo, dối trá, man rợ, lạc hậu của ư thức hệ của ḿnh. Họ biết rằng không thể mượn những ánh hào quang giả trá của chủ nghĩa để biện minh cho hành động giết người của họ. Nên họ đă ra sức che giấu tội phạm bằng những luận điệu, h́nh thức lố bịch tự ca ngợi chiến thắng, tạo nên những căng thẳng tâm lư, khơi sâu thêm hận thù trong xă hội. Nhưng họ che giấu bằng thái độ phi luân lư, bất cần tốt xấu, sai đúng, khinh miệt mạng sống con người. Mặc dầu trước công luận, thái độ này có chỗ dựa là chính quyền nhưng nó không thể làm nền tảng đạo lư cho môt nước Việt Nam dân chủ lương thiện được. Hồ sơ cuộc giết người hàng loạt Tết Mậu Thân v́ vậy chưa thể xếp lại mà c̣n phải đưa ra trước công lư.

3. Đường thẳng và những ngơ ngách để đi t́m công lư.

Chữ công lư có hai nghĩa. Hiểu một cách thông thường th́ công lư là công bằng, hợp với lẽ phải, trái phải, công tội phân minh v.v… Công lư cho người dân cảm giác công chính, thỏa đáng, chính đáng. Nhưng điều này không phải tự nhiên đă có sẵn trong xă hội, cần phải thực hiện mới có và công lư chỉ thực hiện thông qua nhà cầm quyền. Chính quyền phải có những định chế để đáp ứng nhu cầu công lư của dân. Do đó, chữ công lư c̣n có nhiều nghĩa chuyên môn mang tính chất triết học, pháp lư. Công lư về mặt chuyên môn, và hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, là một phạm trù luân lư-chính trị-luật học, biểu hiện một trạng thái quan hệ trong đó con người được đối xử công b́nh, nghĩa là b́nh đẳng với nhau trước pháp luật, trong sự tương kính, phù hợp với hệ thống giá trị được coi như tiêu chuẩn của cuộc sống chung. Công lư v́ thế là đạo đức hàng đầu của chính quyền, là lẽ chính thống của một một chế độ, là diện mạo của văn minh.

Cho đến cuối thế kỷ XX, trên đại thể, công lư là giá trị quốc gia. Nước nào có công lư của nước ấy, tuy rằng cũng phải qui chiếu vào cái h́nh bóng giá trị được gọi là công lư chung của nhân loại. Nhưng từ thập niên 1990 công lư chung này bắt đầu quá tŕnh đột xuất dưới h́nh thức bào thai. Và đến năm 1998 th́ nó chính thức ra đời ở thành phố Rome của nước Ư, dưới danh xưng Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế, có thể nói một ṭa án h́nh sự đầu tiên của cả loài người. Như vậy là từ nay sẽ có hai nền công lư, đó là công lư quốc nội và công lư quốc tế. Đúng hơn, nên nói hai cách thực hiện công lư với những khác biệt từ h́nh thức đến nội dung. Việc nhận diện cho rơ những khác biệt này không đơn giản v́ nó đ̣i hỏi nhiều kiến thức chuyên môn. Nhưng điều mà mọi người nên tránh là đừng đồng hóa một cách máy móc hai thứ công lư này.

Câu hỏi thực tế được đặt ra là trong khuôn khổ hai nền công lư ấy, phải làm sao để xét xử vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân?

Có hai con đường thẳng và một số ngơ ngách để đưa vụ tàn sát Tết Mậu Thân ra trước công lư. Hăy bàn về những con đường thẳng để chọn hoặc con đường quốc tế hoặc con đường quốc nội. Về mặt công lư quốc tế th́ vụ tàn sát này thuộc thẩm quyền xét xử của Ṭa Án H́nh Sự Quốc Tế (TAHSQT). Thật vậy, những hành vi bắt người giết người và ư chí phạm tội của những thủ phạm cộng sản rơ ràng là những yếu tố cấu thành các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử (thuật ngữ luật học gọi là “thẩm quyền đối vật”, compétence ratione materiae) của cơ quan tài phán này, chiếu điều 6, 7 và 8 của Quy chế Rome 1998 thiết lập TAHS QT. Với những đặc tính này, vụ tàn sát Tết Mậu Thân là những tội phạm quốc tế đích danh như diệt chủng, chống nhân loại và tội phạm chiến tranh. Nhưng điều trớ trêu là các tụng nhân Việt Nam lại không có tố quyền để khiếu kiện trước TAHSQT. V́ chiếu điều 11 của Qui chế kể trên, TAHSQT chi thụ lư để xử những viêc xảy ra sau khi Qui chế này bắt đầu có hiệu lực, nghĩa là năm 2001. Hơn nữa trong mọi trường hợp, TAHSQT cũng không có hiệu lực đối với nước Việt Nam Xă Hội Chủ Nghĩa v́ nước này không kư tên vào Quy chế Rome 1998 nên không bị ràng buộc vào quy chế Rome. Như vậy, con đường thẳng quốc tế đă bị tắc nghẽn, các tụng nhân Việt Nam chỉ c̣n trông vào ba ngơ ngách là các nước Tây Ban Nha, Bỉ và Hoa Kỳ là ba nước tự cho ḿnh có thẩm quyền trên ṭan cầu xét xử một số tội h́nh sự bất cứ ai phạm ở nước ngoài. Với điều kiện là thủ phạm phải có mặt trên ba nước này và nếu không có mặt th́ sẽ được dẫn độ. Rốt cuộc cũng vẫn là những bước phiêu lưu mà kết quả cũng không hơn ǵ trường hợp không có tố quyền. V́ thủ phạm không dại ǵ tự mang thân vào ṿng tù tội và yêu cầu dẫn độ cũng chẳng bao giờ được chấp thuận.

C̣n đường thẳng công lư quốc nội th́ sao? Theo lẽ, những tụng nhân Việt Nam có thể vô đơn nhờ ṭa án quốc nội xét xử vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Như ṭa án ở Phnom Penh đang xử những người Khơ Me Đỏ về tội diệt chủng. Nhưng người dân Việt Nam cũng sẽ đành phải bó tay thôi. Đương nhiên phải vậy bởi lẽ Đảng cộng sản, Đảng đă gây ra tội ác diệt chủng Tết Mậu Thân, vẫn c̣n đang cầm quyền khác với trường hợp Khơ Me Đỏ đă mất quyền. Thân nhân các nạn nhân vụ tàn sát Tết Mậu Thân chắc chắn là không hy vọng ǵ thấy được ṭa án của chế độ hiện hữu chấp đơn khiếu kiện để tự ḿnh xét xử ḿnh và trừng phạt ḿnh. Vậy chỉ c̣n ngơ ngách là tụ họp để khiếu kiện ngoài đường phố, đ̣i hỏi nhà cầm quyền mở cuộc điều tra để truy cứu các thủ phạm trong cuộc diệt chủng Tết Mậu Thân, trừ phi chính quyền tại chức bị mất chức và chính quyền thay thế sẽ không theo đưổi chính sách cai trị diệt chủng cũ.

Nói tóm lại, trước mắt, đặt vấn đề t́m công lư cho những nạn nhân vụ giết người hàng loạt Tết Mậu Thân là đặt vấn đề thay đổi ở tận gốc những điều kiện thực hiện công lư để cho nước Việt Nam có thể thực sự hội nhập với nhân loại văn minh. Để tạo ra một không gian pháp lư mới trong đó pháp luật sẽ thay thế cho bạo lực thay v́ chỉ giữ vai tṛ công cụ cho bạo lực.

Đưa em đi đào xác

Vô Danh

Đưa em đi đào xác
Chiều Gia Hội âm u
Trời mây đen vần vũ
Nước sông Hương lặng lờ.
Đưa nhau hồn lạnh buốt
Em quấn vành khăn tang
Xác chồng chưa t́m được
Lệ nhỏ thầm hoang mang.
Bên hố chôn tập thể
Từng mảng người rưng rưng
Nhặt những xác vữa nát
C̣n vương trói dây thừng.
Chiếc sọ nào nguyên vẹn
Sau nhát cuốc hăi hùng
Những người dân vô tội
Chết sấp mặt phơi lưng.
Đưa em đi đào xác
Hai mươi mấy ngày trời
Thành phố Huế thoi thóp
Với đớn đau mặt người.
Ơi thịt xương từng nhúm
Gói ghém bọc ni lông
Nằm tố cáo tội ác
Trong bốn tấm ván thông.
Những ngọn nến leo lắt
Như đóm mắt hồn ma
Nh́n hắt hiu chủ nghĩa
Qua nhang khói nhạt nḥa.
Đưa em buồn chất ngất
Mưa se sắt mặt mày
Em khoác tấm vải nhựa
Di ảnh chồng trong tay.

LS Trần Thanh Hiệp

 Trở lại